Vướng mắc về áp dụng tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường hiệt hại hoặc khắc phục hậu quả”
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc xem xét, đánh giá và áp dụng đúng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có ý nghĩa rất quan trọng; tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng còn có những điểm chưa được hiểu và áp dụng thống nhất, trong đó có tình tiết quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.
So với lao lý tại điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 thì lao lý tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm năm ngoái có điểm mới, đó là thay đấy phẩy (, ) bằng chữ “ hoặc ” sau cụm từ bồi thường thiệt hại. Điều này có ý nghĩa là BLHS năm năm ngoái đã có sự phân biệt rõ ràng hơn so với pháp luật của BLHS năm 1999 trước đây. Tùy thuộc vào hành vi phạm tội mà người phạm tội “ tự nguyện sửa chữa thay thế, bồi thường hiệt hại ” hoặc người phạm tội “ khắc phục hậu quả ” là đã vận dụng được diễn biến giảm nhẹ nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự tại điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS năm năm ngoái. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc hiểu và vận dụng diễn biến “ Người phạm tội tự nguyện sửa chữa thay thế, bồi thường hiệt hại hoặc khắc phục hậu quả ” còn khác nhau, chưa thống nhất do còn nhận thức khác nhau như sau :
1. Người phạm tội phải bồi thường thiệt hại bao nhiêu mới được xem là “tự nguyện bồi thường thiệt hại”?
Trong rất nhiều vụ án hình sự, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đã tự nguyện bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, việc bồi thường thiệt hại của người phạm tội trong từng vụ án là khác nhau. Có trường hợp người phạm tội bồi thường thiệt hại không đáng kể, có trường hợp người phạm tội bồi thường gần một nửa hoặc nhiều hơn…Số tiền bồi thường thiệt hại cũng khác nhau, chẳng hạn có trường hợp người phạm tội bồi thường 100% thiệt hại với số tiền 2.100.000 đồng nhưng có trường hợp người phạm tội bồi thường 10% thiệt hại nhưng với số tiền 100.000.000 đồng. Vậy người phạm tội phải bồi thường thiệt hại bao nhiêu mới được áp dụng tình tiết “người tự nguyện bồi thường thiệt hại”.
Có quan điểm cho rằng, chỉ cần người phạm tội có thiện chí và tự nguyện bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra là được vận dụng diễn biến “ Người phạm tội tự nguyện sửa chữa thay thế, bồi thường hiệt hại hoặc khắc phục hậu quả ” mà không cần phân biệt người phạm tội bồi thường bao nhiêu. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng nếu người phạm tội chỉ bồi thường thiệt hại với số tiền không đáng kể so với thiệt hại gây ra như 10 – 20 % thiệt hại thì không hề coi là đã tự nguyện bồi thường thiệt hại. Do đó, cần có một pháp luật đơn cử về tỷ suất Phần Trăm mức bồi thường thiệt hại mà người phạm tội đã thực tiễn bồi thường. Tỷ lệ bồi thường này hoàn toàn có thể tối thiểu là từ 50 % thiệt hại trở lên .
Quan điểm này xuất phát từ việc điều tra và nghiên cứu vận dụng tương tự như giải đáp của Tòa án nhân dân tối cao về diễn biến “ đã bồi thường được một phần nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự ” lao lý tại khoản 1 Điều 63 của Bộ luật Hình sự tại mục 1 phần I Công văn số 64 / TANDTC-PC ngày 03/4/2019. Theo đó, diễn biến “ đã bồi thường được một phần nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự ” lao lý tại khoản 1 Điều 63 của Bộ luật Hình sự được giải đáp như sau : “ Theo pháp luật tại điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Hình sự thì không thi hành án tử hình so với người bị phán quyết tử hình về tội tham ô gia tài, tội nhận hối lộ nếu sau khi bị phán quyết đã nộp lại tối thiểu ba phần tư gia tài tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, tìm hiểu, giải quyết và xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Tuy nhiên, so với trường hợp bị vận dụng hình phạt tái tạo không giam giữ, tù có thời hạn hoặc tù chung thân là loại hình phạt nhẹ hơn so với hình phạt tử hình, nên “ đã bồi thường được một phần nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự ” lao lý tại khoản 1 Điều 63 của Bộ luật Hình sự được hiểu là đã bồi thường được tối thiểu một phần hai nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự theo bản án, quyết định hành động của Tòa án. Trường hợp, người bị phán quyết bồi thường được ít hơn một phần hai nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự theo bản án, quyết định hành động của Tòa án nhưng có văn bản miễn giảm một phần nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự hoặc có thỏa thuận hợp tác khác của phía bị hại ( có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền ) bộc lộ người bị phán quyết đã bồi thường được một phần hai nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự thì cũng được coi là “ đã bồi thường được một phần nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự ” .
2. Người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả do hành vi của mình gây ra nhưng hành vi này không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì có được áp dụng tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường hiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” không?
Ngày 05/7/2018, Nguyễn Văn A triển khai hành vi trộm cắp gia tài của bà B trị giá 2.500.000 đồng. Quá trình tìm hiểu, A khai nhận trước đó khoảng chừng 01 tháng, A cũng thực thi hành vi trộm tiền của bà B là 1.200.000 đồng. Sau đó, cơ quan tìm hiểu đã tịch thu và trả lại gia tài bị trộm ngày 05/7/2018 cho bị hại. A cũng tự nguyện trả lại số tiền trộm cho bà B là 1.200.000 đồng. Theo lao lý, hành vi trộm tiền của Nguyễn Văn A không bị truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự .
Có quan điểm cho rằng hành vi trộm số tiền 1.200.000 đồng của A mặc dầu không bị truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự nhưng cũng được xem xét xử lý trong cùng vụ án hình sự cho nên vì thế việc A đã tự nguyện trả lại cho bà B số tiền 1.200.000 đồng là khắc phục hậu quả do hành vi của A gây ra nên phải vận dụng diễn biến “ Người phạm tội tự nguyện thay thế sửa chữa, bồi thường hiệt hại hoặc khắc phục hậu quả ” so với A. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng hành vi trộm tiền của A không bị truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự nên không hề vận dụng diễn biến “ Người phạm tội tự nguyện thay thế sửa chữa, bồi thường hiệt hại hoặc khắc phục hậu quả ” so với A ; vì hậu quả cần khắc phục phải do hành vi phạm tội gây ra .
3. Cha mẹ của người phạm tội từ 15 đến dưới 18 tuổi tự nguyện bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì có được áp dụng tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường hiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” không?
A là người chưa thành niên ( 17 tuổi ) triển khai hành vi trộm cắp gia tài là chiếc điện thoại di động của anh B trị giá 12.000.000 đồng. Sau đó, A đem đến tiệm cầm đồ bán cho anh C chiếc điện thoại thông minh vừa trộm được 7.000.000 đồng. Quá trình tìm hiểu, cơ quan tìm hiểu thu giữ chiếc điện thoại cảm ứng và trả lại cho anh B. Cha mẹ của A cũng tự nguyện trả lại cho anh C số tiền A mua điện thoại cảm ứng là 7.000.000 đồng. Vậy việc cha mẹ của A tự nguyện trả lại cho người có quyền lợi và nghĩa vụ, nghĩa vụ và trách nhiệm tương quan đến vụ án là anh C số tiền 7.000.000 đồng thì có được vận dụng diễn biến “ Người phạm tội tự nguyện sửa chữa thay thế, bồi thường hiệt hại hoặc khắc phục hậu quả ” không ?
Có ý kiến cho rằng việc cha mẹ của A trả lại cho anh C số tiền 7.00.000 đồng là khắc phục hậu quả từ hành vi phạm tội của A gây ra. Cho nên cần áp dụng tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường hiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” đối với A. Vì trước đây tại điểm b tiểu mục 1.1 Mục 1 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC có hướng dẫn: “người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: b. Bị cáo là người từ đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nếu bị cáo không có tài sản”.
Tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng hành vi phạm tội của A là trộm cắp chiếc điện thoại di động. Còn việc A đem chiếc điện thoại cảm ứng vừa trộm được đi bán cho anh C là thanh toán giao dịch dân sự giữa A và anh C. Do đây là thanh toán giao dịch không hợp pháp nên về nguyên tắc A phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm hoàn trả lại tiền cho anh C nhưng vì A chưa thành niên và không có gia tài riêng nên đương nhiên cha mẹ của A sẽ có nghĩa vụ và trách nhiệm hoàn trả lại tiền cho anh C. Mặc khác, thiệt hại hoặc hậu quả trong vụ án hình sự là phải do hành vi phạm tội trực tiếp gây ra. Và người bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây phải là bị hại ( người bị thiệt hại là cá thể ), nguyên đơn dân sự ( người bị thiệt hại là cơ quan, quan tố chức ) hoặc người đại diện thay mặt hợp pháp của họ mà không phải là người có quyền lợi và nghĩa vụ, nghĩa vụ và trách nhiệm tương quan đến vụ án. Cho nên việc cha mẹ của A trả lại tiền 7.000.000 đồng cho anh C là người có quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm tương quan đến vụ án thì không được vận dụng diễn biến “ Người phạm tội tự nguyện thay thế sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả ” .
4. Trường hợp bị cáo là người từ 14 tuổi đến dưới 15 tuổi phạm tội trong thời gian trường học, bện viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý nhưng không còn cha mẹ, nếu người khác tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thì có được áp dụng tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” không?
Thực tiễn xử lý những vụ án hình sự, không phải trường hợp nào bị cáo chưa thành niên cũng còn rất đầy đủ cha mẹ hoặc không phải trường hợp nào cha mẹ của bị cáo chưa thành niên cũng là người tự nguyện sửa chữa thay thế, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Hiện nay điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm năm ngoái chưa có hướng dẫn đơn cử nhưng trước đây tại điểm a tiểu mục 1.1 Mục 1 Nghị quyết số 01/2006 / NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC có hướng dẫn như sau : “ người phạm tội tự nguyện thay thế sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây : a. Bị cáo là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 15 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự nguyện sửa chữa thay thế, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra ”. Theo hướng dẫn này thì chỉ trường hợp cha mẹ của bị cáo là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 15 tuổi khi phạm tội đã tự nguyện thay thế sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thì mới được vận dụng diễn biến “ người phạm tội tự nguyện thay thế sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả ” tại điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 .
Tuy nhiên, lúc bấy giờ theo pháp luật tại điều 599 BLDS năm năm ngoái về bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lượng hành vi dân sự gây ra trong thời hạn trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản trị như sau : “ 1. Người chưa đủ mười lăm tuổi trong thời hạn trường học trực tiếp quản trị mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra ; 2. Người mất năng lượng hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời hạn bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản trị thì bệnh viện, pháp nhân khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra ; 3. Trường học, bệnh viện, pháp nhân khác pháp luật tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không phải bồi thường nếu chứng tỏ được mình không có lỗi trong quản trị ; trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lượng hành vi dân sự phải bồi thường ” .
Theo quan điểm tác giả trường hợp bị cáo là người từ 14 tuổi đến dưới 15 tuổi phạm tội trong thời hạn trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản trị nhưng không còn cha mẹ, nếu người khác như nhà trường, bệnh viện, pháp nhân, người giám hộ của bị cáo tự nguyện sửa chữa thay thế, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thì phải được vận dụng diễn biến “ Người phạm tội tự nguyện thay thế sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả ” so với bị cáo .
Từ những vướng mắc nêu trên, hoàn toàn có thể thấy rằng, để diễn biến “ Người phạm tội tự nguyện sửa chữa thay thế, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả ” lao lý tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm năm ngoái được hiểu và vận dụng thống nhất trong thực tiễn cần có giải đáp hoặc hướng dẫn đơn cử hơn .
Dương Tấn Thanh, TANDTC thị xã Duyên Hải, Trà Vinh
-
-