Tiểu luận THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP RÁC THẢI SINH HOẠT HÀ NỘI pot
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.9 KB, 21 trang )
Tiểu luận
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI
PHÁP RÁC THẢI SINH
HOẠT HÀ NỘI
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Môi trường hiện nay đang là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của
các quốc gia trên thế giới. Những biến đổi khí hậu toàn cầu gần đây đang tác
động không nhỏ tới cuộc sống con người như một lời cảnh báo về sự xuống
cấp nghiêm trọng của môi trường. Trái đất nóng lên dẫn tới băng tan làm
nước biển dâng lên, thu hẹp diện tích đất liền, các thiên tai xảy ra thường
xuyên hơn với sức tàn phá lớn hơn.Việt Nam không nằm ngoài vòng ảnh
hưởng đó. Nước ta với đường bờ biển dài trên 3000 km sẽ bị thu hẹp rất nhiều
nếu nước biển dâng lên, miền Bắc vừa trải qua đợt rét dài nhất trong 10 năm
trở lại đây…Vì thế bảo vệ môi trường đang là một vấn đề vô cùng cấp thiết
đòi hỏi phải có sự chung tay giúp đỡ của toàn cộng đồng.
Môi trường ô nhiễm có nhiều nguyên nhân: khí thải, rác thải, các sự cố
tràn dầu… Vấn đề mà nhiều đô thị đang phải đối mặt là rác thải sinh hoạt. Hà
Nội, thủ đô của Việt Nam, trung tâm kinh tế văn hóa chính trị xã hội, là một
trong những thành phố lớn nhất nước, nơi có mật độ dân cư đông thứ hai
trong cả nước. Lượng rác thải sinh hoạt hằng ngày rất lớn.Vì thế vấn đề rác
thải mà cụ thể là làm sao để quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt hiệu quả đang
được quan tâm.Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này nên nhóm
chúng em đã đưa ra cùng nghiên cứu nhằm thấy rõ được thực trạng và từ đó
nêu ra một vài ý kiến về giải pháp cho vấn đề rác thải sinh hoạt ở Hà Nội.
2
I.Tổng quan về rác thải
1.Khái niệm- phân loại:
Rác là một từ dùng chỉ chung những vật không có giá trị sử dụng đối với
một số đối tượng nhất định. Rác là một bộ phận của chất thải tức là các chất
được loại ra trong sinh hoạt, trong quá trình sản xuất hoặc trong các hoạt động
khác. Chất thải có thể ở dạng rắn, khí, lỏng hoặc một số dạng khác (theo Điều
2 Luật Bảo vệ môi trường )
Việc phân loại chất thải hiện nay chưa có những quy định thống nhất,
tuy nhiên bằng cách nhìn thực tiễn của hoạt động kinh tế và ý nghĩa của quản
lý đối với chất thải, có các cách phân loại sau đây:
Phân loại theo nguồn gốc phát sinh:
Chất thải từ các hộ gia đình hay còn gọi là rác thải sinh hoạt
Chất thải từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại: là những
chất thải có nguồn gốc phát sinh từ các ngành kinh tế như công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ.
Phân loại chất thải theo thuộc tính vật lý: gồm chất thải rắn, chất thải
lỏng và chất thải khí.
Phân loại chất thải theo tính chất hóa học: chất thải dạng hữu cơ và vô
cơ hoặc chất thải dạng kim loại, chất dẻo, thủy tinh, giấy bìa…
Phân loại chất thải theo mức độ nguy hại đối với con người và sinh vật
như chất thải độc hại, chất thải đặc biệt độc hại…
Mỗi cách phân loại có mục đích nhất định nhằm phục vụ cho việc nghiên
cứu, sử dụng, tái chế hay kiểm soát và quản lý chất thải có hiệu quả.
Riêng với các chất thải phát sinh từ khu vực đô thị bao gồm 4 nhóm: vô
cơ, hữu cơ, phân bắc và chất thải nguy hiểm. Các chất thải vô cơ phát sinh
chủ yếu từ các khu vực công nghiệp, thương mại và xây dựng, với một lượng
nhất định đầu vào từ nền kinh tế hộ gia đình. Chất thải hữu cơ chiếm khoảng
53% tổng dòng thải được phát sinh từ công nghiệp chế biến thực phẩm, các
3
chợ, các cửa hàng bán lẻ rau và từ các thức ăn thải ra từ kinh tế hộ gia đình.
Phân bắc phát sinh chủ yếu từ hộ gia đình, với một phần ít hơn là nước thải
cống từ các khách sạn, các cơ quan và các hộ gía đình có đường cống nối với
hệ thống cống thoát nước thành phố. Các chất thải nguy hiểm chủ yếu phát
sinh từ các bệnh viện và khu vực luyện kim hoặc xử lý kim loại.
Rác thải có thể chia thành 3 loại chính sau đây: rác thải sinh hoạt (chất
thải từ các hộ gia đình), rác thải sản xuất kinh doanh (phát sinh trong quá
trình sản xuất kinh doanh của các nhà máy, xí nghiệp, cửa hàng…), rác thải
nguy hiểm( các chất độc hại, nguy hiểm cho con người và sinh vật như chất
thải y tế, chất phóng xạ…)
2. Đặc điểm
Không phải tất cả các loại rác thải đều ảnh hưởng xấu đến môi trường,
có những loại rác thải nếu nắm được đặc tính của nó, ta có thể biến nó thành
các nguồn năng lượng mới hay tái chế để sử dụng.
Trong rác thải sinh hoạt có rất nhiều thành phần, mà sự ảnh hưởng đến
môi trường của chúng cũng khác nhau. Rác hữu cơ dễ phân hủy (thực vật,
chất thải động vật, giấy…) có thể đem chế biến thành phân bón, ủ kín phân
hủy nhờ vi sinh vật, tạo khí thiên nhiên làm nhiên liệu. Rác vô cơ (nilon, thủy
tinh, chất dẻo…) có thể thu hồi tái chế hay xử lý theo từng loại.
Hiện nay, lượng rác thải từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương
mại tăng lên rất nhanh. Điều đáng lo ở đây là các thành phần của loại rác thải
này lại ảnh hưởng nhiều đến môi trường và nguy hiểm đến đời sống con
người ví dụ như các loại rác thải từ các khu công nghiệp hóa chất, cao su, chế
biến thực phẩm, da, vật liệu xây dựng…hay rác thải y tế gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng. Nước rỉ rác ngấm vào mạch nước ngầm, hoặc theo côn
trùng xâm nhập vào thực phẩm, muỗi đốt từ người này sang người khác làm
lây lan bệnh dịch. Đặc biệt rác thải y tế là loại rác thải rất nguy hiểm, nếu
không được xử lý tốt sẽ là nguyên nhân gây mầm bệnh.
4
Với những đặc điểm trên, chúng ta phải biết và tìm ra các cách xử lý rác
hiệu quả sao cho hạn chế tối đa tác động tiêu cực đến môi trường và con
người được đồng thời tiết kiệm được tài nguyên.
3. Các phương thức xử lý rác thải
Trên thế giới có 3 phương pháp xử lý rác chủ yếu là: thiêu đốt, ủ sinh
học và chôn lấp.
Ủ sinh học: đối với các loại rác thải chứa các chất hữu cơ.
Chôn lấp:đối với các loại rác thải không thể chế biến được nữa.
Thiêu đốt: đối với một số loại rác thải độc hại.
Ở các nước phát triển các phương pháp này được triển khai mang lại
hiệu quả kinh tế cao và đảm bảo an toàn cho môi trường. Tuy nhiên ở các
quốc gia đang phát triển thì việc thực hiện đúng các giải pháp này không phải
điều đơn giản.Tuy đảm bảo vệ sinh, gọn nhẹ nhưng chi phí lại cao, trang thiết
bị rất đắt tiền nên phương pháp thiêu đốt không thích hợp với việc áp dụng
đại trà ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Phương pháp ủ sinh học chi
phí đầu tư ban đầu thấp, nhưng nhược điểm là quy trình kéo dài 3 – 4 tháng,
xử lý bãi nơi chôn lấp để ủ rác khó làm triệt để nên dễ gây thiệt hại tới môi
trường. Cuối cùng chỉ có cách chôn lấp là được sử dụng nhiều nhất. Cách này
vừa dễ làm, vừa đỡ tốn kém nhưng lại có nhược điểm là không vệ sinh, làm ô
nhiễm đất, nước, các loại khí sản sinh khi rác phân huỷ gây ô nhiễm không
khí và cháy nổ.
4. Quy định của Nhà nước về rác thải sinh hoạt
Theo điều 53 chương VI Luật Bảo vệ tài nguyên môi trường thì hộ gia
đình cần có trách nhiệm thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường sau đây:
Thu gom và chuyển rác thải sinh hoạt đến đúng nơi do tổ chức giữ gìn vệ
sinh môi trường tại địa bàn quy định.
Nộp đủ và đúng thời hạn các loại phí bảo hiểm môi trường theo quy định
của pháp luật.
5
Tham gia hoạt động vệ sinh môi trường khu phố, đường làng ngõ xóm,
nơi công cộng và hoạt động tự quản về bảo vệ môi trường và cộng đồng dân
cư.
Theo điều 54 Chương VI Luật bảo vệ môi trường: Nhà nước khuyến
khích cộng đồng dân cư thành lập các tổ chức tự quản bảo vệ môi trường nơi
mình sinh sống nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau:
Tổ chức thu gom tập kết và xử lý rác thải, chất thải;
Giữ vệ sinh đường làng ngõ xóm, khu phố nơi công cộng
Tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường được thành lập và hoạt động
dựa trên nguyên tắc tự nguyện, cộng đồng trách nhiệm, tuân theo quy định
của pháp luật v.v…
Theo chỉ thị 199/TTg của Thủ tướng chính phủ:
– Về việc quản lý việc phát sinh, thu gom, vận chuyển chất thải
Nghiêm cấm các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, bệnh viện…cũng
như các hộ gia đình đổ các loại chất thải ra sông, hồ, đường phố làm mất mỹ
quan và gây ô nhiễm môi trường. Tổ chức, cá nhân nào vi phạm sẽ bị xử lý
theo pháp luật bảo vệ môi trường và các pháp luật liên quan khác của Việt
NamTổ chức thu gom kịp thời và triệt để chất thải, tiến hành phân loại chất
thải ngay từ nguồn thải để thuận tiện cho việc tái sử dụng, tái chế và tiêu hủy.
Khuyến khích việc áp dụng các công nghệ mới tronmg thu gom, vận chuyển
và xử lý chất thải.
Kiểm soát nghiêm ngặt việc thải và vận chuyển các chất thải theo dúng
các quy định về vệ sinh môi trờng.
Tổ chức thực hiện nếp sống vệ sinh, văn minh, xóa bỏ các thói quen và
tập quán xấu, như vứt rác thải, chất thải bừa bãi… Mỗi đô thị phải có các quy
định cụ thể về các việc nói trên.
– Về việc quản lý việc xử lý, tiêu hủy chất thải
Tổ chức và tiến hành việc quy hoạch các bãi chôn lấp chất thải; xây
dựng các bãi chôn lấp chất thải đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh môi trường và
6
đáp ứng được yêu cầu chôn lấp chất thải của địa phương mình tối thiểu là 25
năm.
Có các công nghệ phù hợp để xử lý hoặc tiêu hủy chất thải đảm bảo các
tiêu chuẩn môi trường, đặc biệt đối với chất thải công nghiệp nguy hại cần
phải được xử lý triệt để.
Có các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường do các bãi chôn lấp chất thải
cũ gây ra v.v…
Các quy định, văn bản pháp luật của Nhà nước về vấn đề rác thải sinh
hoạt nhìn chung phù hợp với hiện trạng nước ta. Tuy nhiên việc thực hiện
chưa tốt nên trên thực tế vẫn chưa hiệu quả. Đội ngũ những người đảm bảo
việc thực hiện các quy định này còn thiếu và yếu .
II. Thực trạng rác thải sinh hoạt Hà Nội
1. Tình trạng chung
Nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
trường đã được hơn 20 năm. Cuộc sống người dân đã có nhiều thay đổi theo
hướng tích cực: mức sống được nâng lên rõ rệt, hàng tiêu dùng nhiều hơn cả
về số lượng và chủng loại, các dịch vụ tốt hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những
mặt tốt thì cuộc sống hiện đại cũng làm nảy sinh những vấn đề nan giải. Rác
sinh hoạt là một trong số đó. Cuộc sống được cải thiện cũng có nghĩa là con
người tiêu dùng nhiều hơn, các vật dụng đẹp hơn, làm từ nhiều loại chất liệu
hơn, bền hơn và cũng khó phân hủy hơn. Ngày càng nảy sinh nhiều loại chất
thải rắn có tính chất độc hại cao và phức tạp. Theo kết quả quan trắc về chất
thải thì lượng rác thải rắn nguy hại chiếm khoảng 16%, trong đó hơn 10% là
chất dẻo PVC và 6% chất thải là các loại: pin, ắc quy, bơm kim tiêm, nhiệt kế
thuỷ ngân, bóng đèn hỏng có chứa thuỷ ngân…Khối lượng rác tăng chóng
mặt đã gây sức ép lớn cho các bãi rác của thành phố.
Tổng hợp lượng chất thải phát sinh của thành phố Hà Nội 2006
Nguồn phát sinh Khối lượng Khối lượng
7
(tấn/ngày) (tấn/năm)
Chất thải sinh hoạt 2.350 803.000
Chất thải công nghiệp (nguy hại chiếm
khoảng 15%)
350 128.000
Chất thải xây dựng 950 347.000
Chất thải y tế nguy hại 2 720
Phân bùn bể phốt 370 135.000
(Nguồn: URENCO 2006)
Thành phần chất thải sinh hoạt năm 2006
STT Thành phần Tỷ lệ (%)
1 Chất hữu cơ: thức ăn thừa, rau, vỏ quả… 49.03
2 Giấy vụn: giấy, bìa… 2.90
3 Nhựa: chai, lọ, hộp, nhựa vụn… 4.20
4 Nilon 7.48
5 Cao su, da vụn, giả da… 4.15
6 Vải 2.15
7 Cành cây, gỗ 1.03
8 Thuỷ tinh: chai lọ, thuỷ tinh vỡ… 0 79
9 Kim loại: vỏ hộp, sợi kim loại… 1.00
10 Sành sứ 7.36
11 Chất trơ: đất đá, cát, gạch vụn, bê tông, các tạp
chất nhỏ khó phân loại khác…
26.22
Tổng cộng ~100
Độ pH trung bình: 6.5-7.0
Độ ẩm: 67-70%
Tỷ trọng 0.4-0.5 (tấn/m3)
( Nguồn: URENCO, 2006)
Theo số liệu thống kê, trong năm 2002, khối lượng chất thải rắn đô thị
tính bình quân đầu người một ngày tại các đô thị lớn dao động khoảng từ 1-
1,2 kg và ở các đô thị nhỏ khoảng 0,5 kg. Con số này đã tăng lên không
ngừng, đặc biệt từ năm 2001 cùng với sự phát triển của các đô thị và điều kiện
sống của người dân. Trung bình mỗi ngày người dân Hà Nội thải ra khoảng
2.700 tấn rác gồm rác hữu cơ, vô cơ và rác tái chế, thì chỉ có khoảng 160 tấn
8
rác vô cơ là không thể tái chế được cần phải chôn lấp, hai loại rác còn lại đều
có thể tận dụng để chế biến làm phân bón, phục vụ Việc chôn lấp chung các
loại rác như vậy vừa gây lãng phí tài nguyên, vừa tốn kém công thu gom, vận
chuyển, diện tích chôn lấp sản xuất nông nghiệp hoặc tái chế thành các sản
phẩm có ích. Bãi rác Nam Sơn có tổng diện tích chôn lấp rác là 83,5 ha với
thời gian hoạt động đến năm 2015 nhưng khả năng đến năm 2010 đã hết chỗ
đổ. Ông Phạm Ngọc Hải- Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Môi trường Đô
thị lo lắng cho biết: “Với khối lượng rác tăng trung bình hàng năm 15% như
trong vòng 5 năm trở lại đây thì chỉ tới 2010, bãi chôn lấp này sẽ đầy. Hiện
nay, bãi chôn rác Nam Sơn đang phải tiếp nhận khoảng 2.500 tấn rác/ngày”.
2. Quá trình thu gom( phân loại và vận chuyển) rác thải sinh hoạt
Công ty Môi trường Ðô thị cho biết, hiện nay, Hà Nội có 2 lò đốt rác
tiêu chuẩn là lò đốt rác y tế tại Từ Liêm và lò đốt rác công nghiệp tại khu xử
lý chất thải Nam Sơn, Sóc Sơn. Do bãi xử lý rác Nam Sơn cách Hà Nội tới 56
km, nên trước khi đưa về đây xử lý, rác vẫn được tập kết rải rác ở các huyện
ngoại thành gây mất trật tự và vệ sinh. Các bãi rác là nơi kiếm sống của nhiều
người thất nghiệp, trẻ lang thang. Họ không hề có bất cứ trang bị gì để đảm
bảo sức khỏe khi tiếp xúc với trực tiếp với rác. Không ai dám đảm bảo là sau
vài tiếng bới rác kiếm sống ở đây, người bới rác khi mang những thứ kiếm
được bán lại cho các chủ đầu mối phế liệu lại không “nhân tiện” phát tán luôn
loại bệnh dịch nào đó. Ngoài mối lo phát tán bệnh dịch, các bãi rác cũng tiềm
ẩn nhiều nguy cơ với người bới rác, đặc biệt là trẻ em. Các mảnh thủy tinh
hay kim loại sắc nhọn, kim tiêm, hóa chất độc hại được đổ lẫn cùng rác sinh
hoạt…đều tác động xấu đến sức khỏe thậm chí cướp đi sinh mạng của các
em.
Ô nhiễm không chỉ ở các bãi rác mà còn hiện diện ngay từ khâu thu gom
do việc thu gom rác hoàn toàn thủ công. Hiện nay Hà Nội chỉ có cách dùng
chổi, xẻng gom rác lên xe rồi đưa đến điểm tập kết. Từ đấy rác sẽ lên những
chiếc ô tô chuyên dụng chạy ra bãi rác ngoại ô đợi chôn lấp. Rác thỉnh thoảng
9
rơi từ những chiếc xe ra đường phố. Còn ở ngoại thành, người dân đổ rác bừa
bãi: bên đường đi, bờ ruộng, xuống ao hồ làm ô nhiễm môi trường sống
nghiêm trọng.
Hơn nữa, các xe rác lưu hành trên những con đường nhỏ vào giờ tan tầm
gây tắc nghẽn giao thông. Mặc dù đã có sự sắp xếp giờ chạy cho xe chở rác
nhưng vấn đề này vẫn chưa được giải quyết và gây nhiều bức xúc trong người
dân.
Thêm vào đó, công tác thu gom chủ yếu vẫn là thu hỗn hợp chứ không
được phân loại ngay tại nguồn. Việc thu hồi các chất có khả năng tái chế, tái
sử dụng như: nilon, giấy vụn, kim loại, nhựa, thuỷ tinh… chủ yếu do những
người nhặt rác thực hiện. Tỷ lệ này chiếm từ 15-20% công tác thu gom chất
thải. Việc tái chế, tái sử dụng chất thải rắn vẫn còn ở mức thấp, khoảng 2-5%
tổng lượng chất thải rắn phát sinh được chuyển hoá thành phân vi sinh
compost. Sau một thời gian tiến hành các công việc chuẩn bị, từ cuối tháng
10-2003, Cty Môi trường đô thị Hà Nội đã tổ chức thực hiện thí điểm mô hình
phân loại rác thải tại nguồn ở phường Phan Chu Trinh. Dự kiến ban đầu của
thành phố là xây dựng mạng lưới thu gom vận chuyển rác thải sinh hoạt trên
địa bàn quận Hoàn Kiếm (tại 9 phường là Tràng Tiền, Phan Chu Trinh, Hàng
Bài, Trần Hưng Đạo, Chương Dương, Phúc Tân, Lý Thải Tổ, Cửa Nam, Hàng
Bông) gồm 259 điểm thu gom trực tiếp, 180 điểm đặt thùng rác 2 ngăn, 75 xe
thu gom và 201 công nhân làm nhiệm vụ thu gom (một số phường không dặt
các thùng thu gom phân loại vì có tuyến đường quá hẹp, không có chỗ đặt).
Thời gian thu gom từ 18h -20h hàng ngày, việc vận chuyển được thực hiện
bằng 20 xe chuyên dùng, trong dó 10 xe chở rác hữu cơ đi nhà máy chế biến
phân vi sinh Cầu Diễn, 10 xe chở các chất thải khác đi bãi chôn lấp Nam Sơn.
Tuy nhiên khi đi vào thực hiện rác qua sự phân loại của người dân lại bị trộn
lẫn trong khâu vận chuyển, bên cạnh đó ý thức và nhận thức người dân chưa
cao nên rác không được phân loại triệt để.
10
Nguồn tài chính hoạt động của công ty Môi trường đô thị bao gồm ngân
sách do Nhà nước cấp và các hợp đồng vệ sinh với nhân dân. Mức phí vệ sinh
hiện nay cho các hộ gia đình là 2000 đồng/người/tháng. Trong những năm
qua doanh thu hàng năm của công ty Môi trường đô thị chỉ chiếm khoảng
30% tổng chi phí của công ty.
3. Quá trình xử lý rác thải sinh hoạt
Hiện nay, các bãi rác không đạt tiêu chuẩn. Phần lớn các bãi chôn lấp
không có lớp chống thấm ở dưới đáy và thành ô chôn lấp, không có hệ thống
thu gom và xử lý nước rác, khí; quy trình đổ rác không đúng kỹ thuật… Vì
vậy đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm không khí, rò rỉ, thẩm thấu nước rác, gây ô
nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm. Người dân khu vực xung quanh bãi rác
bị ảnh hưởng nặng nề và đã phản ứng tiêu cực bằng cách chặn không cho xe
rác vào đổ( bãi rác Nam Sơn tháng 11/1999).
Hầu hết rác thải của Hà Nội được xử lý ở khu xử lý rác Nam Sơn (huyện
Sóc Sơn) và ở Xí nghiệp chế biến rác Cầu Diễn với phương pháp vi sinh có
công suất 30.000 m
3
/năm. Tuy nhiên, bãi rác Nam Sơn đang ở trong tình trạng
quá tải, theo dự đoán đến năm 2010 bãi rác Nam Sơn sẽ đầy và Hà Nội lại
phải tìm bãi rác mới. Xí nghiệp chế biến rác Cầu Diễn chưa từng hoạt động
hết công suất, 2 lò đốt rác tại Từ Liêm và Nam Sơn không đáp ứng được nhu
cầu xử lý chất thải rắn của thành phố.
4. Nguyên nhân
Nguyên nhân sâu xa của những thực trạng trên là kinh phí cho việc quản
lý và xử lý rác nói chung và rác thải sinh hoạt nói riêng còn thiếu thốn.Ngoài
ra Thành phố vẫn chưa huy động được nguồn lực từ trong nhân dân: doanh
thu phí vệ sinh còn thấp (nguyên nhân một phần do việc qui định phí đối với
dịch vụ vệ sinh còn thấp: 2000 đồng/người/tháng, một phần do chưa có biện
pháp thu phí phù hợp nên tỷ lệ phí thu được chỉ chiếm 55% tổng mức phí phải
thu trong nhân dân). Công ty Môi Trường đô thị chỉ được thành phố trả tiền
cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chôn lấp rác thải sinh hoạt thông
11
qua hợp đồng đặt hàng. Còn việc tái chế rác hữu cơ thành phân compost,
URENCO chưa được thành phố thanh toán mà phải lấy tiền bán phân để bù
đắp một phần chi phí. Tuy nhiên việc sử dụng phân compost chưa phổ biến
đối với người nông dân trước hết là do chi phí sản xuất cao dẫn tới giá thành
cao, người nông dân không đủ tiền mua. Hơn nữa người dân chưa quen sử
dụng loại phân này do đó URENCO phải vay vốn để sản xuất và sản phẩm
chủ yếu là cho, tặng nhằm khuyến khích người dân
Sự thiếu thốn về kinh phí tiếp tục dẫn đén sự thiếu thốn về nhân
lực,phương tiện trong ngành môi trường đô thị. Do đó công tác phân loại, tái
chế chất thải còn chưa tốt. Trên thực tế công nghệ xử lý rác thải của Hà Nội
còn đơn giản, thủ công. Công ty MTĐT chỉ mang rác đến bãi thải và đổ lộ
thiên mà thậm chí không hề qua nén ép (công đoạn đơn giản nhất làm giảm
thể tích rác thải). Các công nghệ hiện đại như thiêu đốt chưa được áp dụng
đối với rác thải ở Hà Nội. Trên địa bàn Thành phố cũng đã có một nhà máy
xử lý rác thành phân bón hữu cơ (đặt tại Cầu Diễn), nhưng do các khâu xử lý
phân loại còn yếu nên nguyên vật liệu đầu vào không thoả mãn dẫn đến công
suất vừa thấp vừa tốn công (chỉ đạt công suất 30% năm). Công nghiệp tái chế
chất thải thì vẫn còn manh mún chưa thực sự được coi trọng. Do chưa thực
hiện được công tác phân loại rác ngay từ nguồn thải nên Hà Nội vẫn chôn rác
sinh hoạt lẫn với các loại rác thải nguy hại khác (trong đó thành phần chủ yếu
là rác thải công nghiệp và một phần rác thải bệnh viện). Chính vì vậy khối
lượng rác thải đem đi đổ thải tại bãi rác vẫn còn lớn làm tốn diện tích bãi thải
và không mang lại hiệu quả kinh tế. Hơn nữa những bãi thải trước đây của Hà
Nội trong tình trạng vừa không có đất phủ, vừa là nơi đổ thải hỗn hợp nên đã
trở thành nguồn gây ô nhiễm lớn.
Hơn nữa cơ chế phân cấp quản lý và chế tài chưa hiệu quả. Do việc phân
cấp trách nhiệm quản lý môi trường chưa cụ thể đến những cơ quan có trách
nhiệm nên trên thực tế Thành phố vẫn chưa thực hiện được việc xử phạt các
hành vi đổ chất thải ra nơi công cộng. Người dân không bị ngăn chặn và xử
12
phạt nên kém ý thức tuân thủ nội quy giữ gìn vệ sinh nơi công cộng. Điều này
khá phổ biến ở các nước đang phát triển. Do tập quán canh tác nông nghiệp,
sống dựa vào tự nhiên với nhiều quan niệm sai lầm cổ hủ như “trời sinh voi
sinh cỏ…” nên dù đã bước sang nền kinh tế thị trường được hơn hai mươi
năm, người dân Việt Nam vẫn chưa có những nhận thức đúng đắn về các vấn
đề đang nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Rác thải, cụ
thể là rác thải sinh hoạt là một trong số đó. Nền kinh tế nông nghiệp tạo ra
nhưng loại rác gần với tự nhiên, dễ phân hủy. Nhưng hiện nay, như đã trình
bày ở trên, số lượng và chủng loại của rác ngày càng đa dạng với việc xuất
hiện nhiều loại rác độc hại, khó phân hủy. Và chừng nào con người còn chưa
nhận thức được vấn đề này để điều chỉnh hành vi tiêu dùng, sinh hoạt của
mình thì rác vẫn được sinh ra với tốc độ chóng mặt trong khi việc xử lý lại vô
cùng hạn chế.
Thành phố chỉ tập trung vào đầu tư cho một đơn vị hoạt động thu gom
rác thải mà chưa huy động được sự tham gia của toàn dân vào công tác làm
sạch môi trường, đây là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến môi
trường của Thành phố vẫn chưa được sạch đẹp.
III. Giải pháp
1. Khâu thu gom
1.1. Phân loại
Để đảm bảo rác được xử lý hiệu quả thì phân loại rác là khâu phải làm
tốt trước tiên. Nếu phân loại rác được thực hiện tốt thì các công đoạn về sau
sẽ dễ dàng, nhanh chóng và tiết kiệm hơn rất nhiều. Muốn làm được điều này
cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các sở, ban, ngành liên quan, giữa người dân
với các cơ quan quản lý.
Việc đầu tiên là phải nâng cao ý thức người dân về vấn đề rác thải sinh
hoạt, từ đó làm cho họ tự giác tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường
cũng như tự giác trong việc phân loại rác sinh hoạt.
13
Lớp người xưa bị ảnh hưởng nhiều bởi kiểu suy nghĩ của nền kinh tế
nông nghiệp, tính tư hữu, “cha chung không ai khóc” đã ăn sâu vào cách nghĩ,
cách sống của người dân. Để thay đổi cách nhìn, quan điểm của họ về một
vấn đề như rác thải sinh hoạt là điều không dễ. Với những người này, ngoài
các biện pháp cứng rắn như áp dụng các hình phạt nặng thì còn có một biện
pháp mềm dẻo hơn, hợp với cách nghĩ, cách sống của họ hơn, đó là sử dụng
các tổ dân phố, tổ tự quản như cầu nối giữa người dân với chính quyền, thuyết
phục họ tự giác chấp hành các quy định về rác thải sinh hoạt. Các tổ tự quản,
tổ dân phố đóng vai trò vô cùng quan trọng, giúp người dân hiểu và thực hiện
vai trò, trách nhiệm cua mình đối với lượng rác họ thải ra hàng ngày trong
quá trình sinh hoạt. Đây là những người có mối quan hệ quen biết và uy tín
nhất định với người dân, do chính người dân mỗi khu vực bầu ra. Do vậy nhà
quản lý cần tận dụng, phát huy vai trò của họ trong việc nâng cao nhận thức
của người dân về rác thải sinh hoạt. Các tổ chức này có thể áp dung những
biện pháp đánh vào lòng tự ái, tự trọng, tình làng nghĩa xóm,sự nể nang,…
vốn là những đặc điểm phổ biến của người dân Việt.Sau đây là một vài ví dụ
cho các biện pháp làm giảm tình trạng đổ rác bừa bãi:
phân chia trách nhiệm giữ gìn vệ sinh xóm ngõ tới từng hộ dân, cụ thể là
phân công việc quét dọn đường đi cho từng nhà;
nhắc nhở các trường hợp vi phạm và tuyên dương các trường hợp thực
hiện tốt trên loa phóng thanh của phường;
tổ chức thi đua giữa các hộ gia đình trong việc bảo đảm vệ sinh chung,
có thể tổ chức các cuộc thi nhỏ về rác thải sinh hoạt;
cung cấp cho người dân những hiểu biết về mức độ nguy hại của các loại
rác thải nếu không được xử lý đúng cách, các thông tin về tình hình môi
trường của thế giới nói chung cũng như rác thải sinh hoạt của Việt Nam nói
riêng.
Các thế hệ sau này đã có điều kiện hơn cha ông trong việc tiếp thu những
cái mới. Và nếu được giáo dục tốt trên ghế nhà trường họ sẽ trở thành những
14
công dân có ý thức trong việc bảo vệ môi trường đồng thời góp phần tích cực
thay đổi quan niêm của các bậc phụ huynh, các thế hệ đi trước. sách giáo
khoa của học sinh hiện nay có đề cập đến vấn đề môi trường nhưng mới dừng
ở mức giới thiệu, cung cấp những nhận thức ban đầu. Nên chăng cần có một
môn hoc chính thức cho vấn đề này nhằm cung cấp cho các em cái nhìn đầy
đủ về hiện trạng môi trường ngày nay, những vấn đề môi trường mà loài
người đang phải đối mặt, tầm quan trọng của từng cá nhân trong việc bảo vệ
môi trường để mỗi em có đựoc cách nhìn đúng về vai trò của mình và cộng
đồng với môi trường. Những cuộc thi tranh, ảnh, bài viết, tiểu phẩm, thi kiến
thức về môi trường tự nhiên…cần được khuyến khích hơn nữa. Những hoạt
động này không chỉ cung cấp kiến thức mà còn tạo cho trẻ tình yêu thiên
nhiên, sự quý trọng với cảnh quan thiên nhiên, môi trường sống trong lành.
Bên cạnh việc nâng cao ý thức, nhận thức của người dân thì rất cần sự
phối hợp của các cấp quản lý, các ban ngành liên quan. Hà Nội đã bắt đầu
thực hiện việc này với sự giúp đỡ của Jica. Từ tháng 7/2007, dự án phân loại
rác tại nguồn 3R-HN, do Cơ quan Hợp tác Quốc tế của chính phủ Nhật Bản
Jica tài trợ cho TP Hà Nội, đã chính thức bước vào giai đoạn ứng dụng thực tế
trên địa bàn phường Phan Chu Trinh (quận Hoàn Kiếm).
Đại diện Jica cho biết kể từ trung tuần tháng 6/2007, các hộ gia đình trên
địa bàn phường Phan Chu Trinh đã được hướng dẫn phân loại rác thành 2 loại
ngay tại nhà. Thay vì chờ đợi người công nhân tới để thu gom rác, các hộ gia
đình có thể chủ động đổ rác trong khoảng thời gian từ 16h-20h30 hằng ngày
đối với rác hữu cơ, và 4 ngày/tuần đối với rác vô cơ.
Các hộ gia đình sẽ đổ rác tại các thùng rác thu gom tập kết, theo sự
hướng dẫn thân thiện của những người công nhân thu gom. Bên cạnh các hoạt
động hội thảo, thăm quan thực tế tại nhà máy sản xuất phân vi sinh Cầu Diễn,
các hộ gia đình sẽ được phát các thùng rác có đính tem phân loại, và được
hướng dẫn theo dõi sự thay đổi trong khối lượng rác thải mỗi ngày trước và
15
sau khi phân loại rác, từ đó thấy được giá trị đóng góp của mình cho xã hội
thông qua hoạt động phân loại rác tại gia đình.
Thực tế ở Việt Nam phân loại rác sinh hoạt không phải là chuyện mới.
Từ bao lâu nay nhiều gia đình vẫn có ý thức tích trữ giấy, vỏ lon, chai, lọ…
để bán đồng nát ve chai. Đây cũng là một hình thức phân loại rác thô sơ song
rất hiệu quả. Bên cạnh đó, vẫn tồn tại những người bới rác. Cần có quy định
để bảo vệ họ khỏi các rủi ro trong khi làm việc. Nếu như việc phân loại rác
được thực hiện tốt thì vẫn đề của những người bới rác cũng sẽ được giải
quyết. Họ sẽ tự động chuyển sang công việc khác khi không còn làm công
việc này được nữa.
1.2. Vận chuyển
Để cải thiện khâu vận chuyển rác thải rắn nói chung và rác thải sinh hoạt
nói riêng thì vấn đề kinh phí cần được giải quyết. UBND Thành phố Hà Nội
có kế hoạch thay đổi thời gian thu gom chất thải từ giữa tháng 10/2007 nhưng
điều này đã gây ra một số tác động không tích cực như làm tăng giá thu gom,
tăng lương công nhân đồng thời tăng gánh nặng với những người công nhân
phải làm việc ca đêm. Do vậy cần có sự đầu tư nhiều hơn nữa của nhà nước
vào công tác thu gom xử lý rác nhằm tạo điều kiện cho người công nhân có
thu nhập xứng đáng, đồng thời cải tiến trang thiết bị thu gom vận chuyển
nhằm giảm tình trạng ô nhiễm tới môi trường và ảnh hưởng xấu tới sức khỏe
công nhân cũng như người dân. Tăng phí vệ sinh cũng là một biện pháp làm
tăng nguồn thu cho công ty Môi trường đô thị Hà Nội. Khi nguồn kinh phí
được đảm bảo thì URENCO có thể tiến hành các biện pháp cụ thể như sau:
Thay thế các xe chở rác đã hỏng, xuống cấp
Sử dụng các loại xe mới tiêu tốn ít nhiên liệu, thân thiện với môi trường
hơn, thùng xe kín
Cải tiến các loại xe rác (cả xe đẩy và xe tải)
Xây dựng các trạm bảo dưỡng, sửa chữa, rửa xe rác định kỳ
….
16
2. Khâu xử lý
Xử lý rác nói chung và rác thải sinh hoạt nói riêng ở Việt Nam chưa phải
là ngành được tư nhân đầu tư nhiều. Phương pháp xử lý cho phần lớn rác thải
sinh hoạt là chôn lấp. Hiện Công ty Môi trường đô thị Hà Nội đang xin thành
phố mở rộng thêm 43 ha tại Nam Sơn nữa nhưng đây cũng chỉ là giải pháp
tình thế. Trung bình đầu tư xây dựng 1 ô chôn lấp rộng 5 ha phải mất khoảng
5 tỷ đồng, chưa kể trung bình mỗi ngày phải xử lý 1000 m3 nước rác đòi hỏi
quy trình kỹ thuật phải rất cẩn thận để tránh tình trạng ô nhiễm môi trường, ô
nhiễm nguồn nước tại các khu vực dân cư. Tuy nhiên đây chỉ là giải pháp tình
thế.
Về lâu dài cần có một giải pháp khác. Trên thực tế, đã có một số doanh
nghiệp tư nhân thực sự thành công khi đầu tư vào việc xử lý, tái chế rác, cụ
thể là tái chế các loại nhựa. Khi việc xử lý rác đem lại lợi nhuận thì việc đầu
tư vào ngành này không còn là vấn đề đau đầu của riêng các nhà quản lý nữa.
Các doanh nghiệp tư nhân làm việc hiệu quả hơn, kinh tế hơn Nhà nước trong
việc thu gom, xử lý rác thải. Họ tự tìm được đầu vào, đầu ra, công nghệ thích
hợp để xử lý toàn bộ phần rác có khả năng sinh lợi. Công việc của Nhà nước
lúc này chỉ còn là xử lý các loại rác độc hại, không có khả năng tái chế hay
chuyển hóa thành các dạng có ích. Như vậy cần có nhiều biện pháp khuyến
khích tư nhân đầu tư vào rác thải đồng thời cũng cần nhiều biện pháp giảm
rác thải từ các doanh nghiệp. Sau đây là một số ví dụ về các biện pháp khuyến
khích đó:
Giảm thuế với các sản phẩm làm từ rác
Hỗ trợ vốn ban đầu thông qua chính sách cho vay ( về thời hạn, lãi suất
…)
Cử chuyên gia về kỹ thuật giúp đỡ, tổ chức tham quan các doanh nghiệp
đã thành công
Đặc biệt ưu tiên với các khu vực lượng rác cần xử lý nhiều
17
Dù là nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân thì cũng cần đảm bảo quy
trình xử lý rác được thực hiện đúng.
3. Các biện pháp khác:
Một vấn đề đang được nhiều nước quan tâm, kể cả các nước phát triển
cũng như đang phát triển là giảm thiểu lượng rác vô cơ thải ra môi trường đặc
biệt là túi nilon. Có nhiều cách để giảm loại rác phân hủy đặc biệt lâu này
như:
Cấm sử dụng các túi nilon nhỏ
Sản xuất túi thay thế túi nilon bằng các vật liệu dễ phân hủy hơn với giá
thành tương đương( nhà nước có thể trợ giá cho mặt hàng này)
Thay thế bắt buộc túi nilon trong siêu thị bằng cái loại túi có thể dùng
nhiều lần
Tuyên truyền về tác hại của túi nilon với môi trường với người dân
Chiến dịch khuyến khích sử dụng túi cá nhân đi chợ thay vì túi nylong –
vốn là chất thải vô cơ khó tiêu hủy, cũng là một tiêu điểm nổi bật của dự án
3R. Với việc phân phát 2.000 túi đi chợ đến 2.000 gia đình trong địa bàn
phường, kèm theo những thông tin tuyên truyền trực tiếp, 3R-HN hy vọng sẽ
dần thay đổi được thói quen sử dụng túi nilông của người dân, vốn là chất rất
khó phân hủy và không tốt cho môi trường
18
KẾT LUẬN
Với tốc độ phát triển như hiện nay, Hà Nội nói riêng và các đô thị của
nước ta nói chung sẽ ngày càng đông hơn, chật hơn, những khoảng không
gian gần với thiên nhiên bị giảm đi trong khi nhu cầu sống của con người
ngày càng tăng thêm. Giải quyết được vấn đề rác thải sinh hoạt là đã góp phần
mở rộng không gian sống, cải thiện môi trường sống cho người dân, đồng thời
góp phần bảo vệ môi trường cho toàn thế giới. Giảm thiểu, tái sử dụng và tái
chế rác thải sinh hoạt là việc mà nhiều quốc gia đã làm được. Việt Nam đang
tích cực học hỏi kinh nghiệm các nước bạn đồng thời vận dụng sáng tạo vào
hoàn cảnh riêng của mình nhằm đem lại cho đô thị Việt Nam nói riêng và
toàn đất nước việt Nam nói chung một bộ mặt mới. Việt Nam được thế giới
đánh giá là điểm đến an toàn, thành phố Hà Nội được gọi là Thành phố vì hòa
bình.Với một môi trường trong sạch, Việt Nam sẽ càng có thêm điều kiện
phát triển.
Trên đây là một số thực trạng và giải pháp cho vấn đề rác thải sinh
hoạt Hà Nội. Nhóm em lựa chọn đề tài này với mong muốn đóng góp một
phần nhỏ bé cho một Hà Nội xanh hơn, một Việt Nam sạch hơn, một môi
trường trong lành hơn cho tất cả mọi người. Dù đã cố gắng nhưng do trình độ
còn hạn chế nên bài làm của nhóm chắc chắn còn tồn tại nhiều thiếu
sót.Chúng em rất mong nhận sự chỉ dẫn thêm của thầy cô để có những đề tài
thiết thực hơn, những bài viết tốt hơn nữa.
Chúng em rất cám ơn thầy Hoàng đã hướng dẫn, giúp đỡ nhóm hoàn
thành đề tài này.
Chúng em xin cảm ơn
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật bảo vệ môi trường
2.Báo Hà Nội mới
3.Thời báo kinh tế Việt Nam
4.hanoinet.vn
5.nld.com.vn
6.vietnamnet.vn
7.vtc.vn
20
MỤC LỤC
Trang
1
I.Tổng quan về rác thải 3
1.Khái niệm- phân loại: 3
2. Đặc điểm 4
3. Các phương thức xử lý rác thải 5
4. Quy định của Nhà nước về rác thải sinh hoạt 5
II. Thực trạng rác thải sinh hoạt Hà Nội 7
1. Tình trạng chung 7
2. Quá trình thu gom( phân loại và vận chuyển) rác thải sinh hoạt 9
3. Quá trình xử lý rác thải sinh hoạt 11
4. Nguyên nhân 11
III. Giải pháp 13
1. Khâu thu gom 13
1.1. Phân loại 13
1.2. Vận chuyển 16
2. Khâu xử lý 17
3. Các biện pháp khác: 18
KẾT LUẬN 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
21
khác. Chất thải hoàn toàn có thể ở dạng rắn, khí, lỏng hoặc 1 số ít dạng khác ( theo Điều2 Luật Bảo vệ thiên nhiên và môi trường ) Việc phân loại chất thải lúc bấy giờ chưa có những lao lý thống nhất, tuy nhiên bằng cách nhìn thực tiễn của hoạt động giải trí kinh tế tài chính và ý nghĩa của quảnlý so với chất thải, có những cách phân loại sau đây : Phân loại theo nguồn gốc phát sinh : Chất thải từ những hộ mái ấm gia đình hay còn gọi là rác thải sinh hoạtChất thải từ những hoạt động giải trí sản xuất, kinh doanh thương mại, thương mại : là nhữngchất thải có nguồn gốc phát sinh từ những ngành kinh tế tài chính như công nghiệp, nôngnghiệp, dịch vụ. Phân loại chất thải theo thuộc tính vật lý : gồm chất thải rắn, chất thảilỏng và chất thải khí. Phân loại chất thải theo đặc thù hóa học : chất thải dạng hữu cơ và vôcơ hoặc chất thải dạng sắt kẽm kim loại, chất dẻo, thủy tinh, giấy bìa … Phân loại chất thải theo mức độ nguy cơ tiềm ẩn so với con người và sinh vậtnhư chất thải ô nhiễm, chất thải đặc biệt quan trọng ô nhiễm … Mỗi cách phân loại có mục tiêu nhất định nhằm mục đích ship hàng cho việc nghiêncứu, sử dụng, tái chế hay trấn áp và quản trị chất thải có hiệu suất cao. Riêng với những chất thải phát sinh từ khu vực đô thị gồm có 4 nhóm : vôcơ, hữu cơ, phân bắc và chất thải nguy hại. Các chất thải vô cơ phát sinhchủ yếu từ những khu vực công nghiệp, thương mại và kiến thiết xây dựng, với một lượngnhất định nguồn vào từ nền kinh tế tài chính hộ mái ấm gia đình. Chất thải hữu cơ chiếm khoảng53 % tổng dòng thải được phát sinh từ công nghiệp chế biến thực phẩm, cácchợ, những shop kinh doanh bán lẻ rau và từ những thức ăn thải ra từ kinh tế tài chính hộ mái ấm gia đình. Phân bắc phát sinh đa phần từ hộ mái ấm gia đình, với một phần ít hơn là nước thảicống từ những khách sạn, những cơ quan và những hộ giá đình có đường cống nối vớihệ thống cống thoát nước thành phố. Các chất thải nguy hại đa phần phátsinh từ những bệnh viện và khu vực luyện kim hoặc giải quyết và xử lý sắt kẽm kim loại. Rác thải hoàn toàn có thể chia thành 3 loại chính sau đây : rác thải sinh hoạt ( chấtthải từ những hộ mái ấm gia đình ), rác thải sản xuất kinh doanh thương mại ( phát sinh trong quátrình sản xuất kinh doanh thương mại của những nhà máy sản xuất, xí nghiệp sản xuất, shop … ), rác thảinguy hiểm ( những chất ô nhiễm, nguy hại cho con người và sinh vật như chấtthải y tế, chất phóng xạ … ) 2. Đặc điểmKhông phải tổng thể những loại rác thải đều tác động ảnh hưởng xấu đến thiên nhiên và môi trường, có những loại rác thải nếu nắm được đặc tính của nó, ta hoàn toàn có thể biến nó thànhcác nguồn nguồn năng lượng mới hay tái chế để sử dụng. Trong rác thải sinh hoạt có rất nhiều thành phần, mà sự ảnh hưởng tác động đếnmôi trường của chúng cũng khác nhau. Rác hữu cơ dễ phân hủy ( thực vật, chất thải động vật hoang dã, giấy … ) hoàn toàn có thể đem chế biến thành phân bón, ủ kín phânhủy nhờ vi sinh vật, tạo khí thiên nhiên làm nguyên vật liệu. Rác vô cơ ( nilon, thủytinh, chất dẻo … ) hoàn toàn có thể tịch thu tái chế hay giải quyết và xử lý theo từng loại. Hiện nay, lượng rác thải từ những hoạt động giải trí sản xuất, kinh doanh thương mại, thươngmại tăng lên rất nhanh. Điều đáng lo ở đây là những thành phần của loại rác thảinày lại tác động ảnh hưởng nhiều đến môi trường tự nhiên và nguy hại đến đời sống conngười ví dụ như những loại rác thải từ những khu công nghiệp hóa chất, cao su đặc, chếbiến thực phẩm, da, vật tư kiến thiết xây dựng … hay rác thải y tế gây ô nhiễm môitrường nghiêm trọng. Nước rỉ rác ngấm vào mạch nước ngầm, hoặc theo côntrùng xâm nhập vào thực phẩm, muỗi đốt từ người này sang người khác làmlây lan bệnh dịch. Đặc biệt rác thải y tế là loại rác thải rất nguy hại, nếukhông được giải quyết và xử lý tốt sẽ là nguyên do gây mầm bệnh. Với những đặc thù trên, tất cả chúng ta phải biết và tìm ra những cách giải quyết và xử lý ráchiệu quả sao cho hạn chế tối đa tác động ảnh hưởng xấu đi đến thiên nhiên và môi trường và conngười được đồng thời tiết kiệm ngân sách và chi phí được tài nguyên. 3. Các phương pháp giải quyết và xử lý rác thảiTrên quốc tế có 3 chiêu thức giải quyết và xử lý rác đa phần là : thiêu đốt, ủ sinhhọc và chôn lấp. Ủ sinh học : so với những loại rác thải chứa những chất hữu cơ. Chôn lấp : so với những loại rác thải không hề chế biến được nữa. Thiêu đốt : so với một số ít loại rác thải ô nhiễm. Ở những nước tăng trưởng những chiêu thức này được tiến hành mang lạihiệu quả kinh tế tài chính cao và bảo vệ bảo đảm an toàn cho môi trường tự nhiên. Tuy nhiên ở cácquốc gia đang tăng trưởng thì việc triển khai đúng những giải pháp này không phảiđiều đơn thuần. Tuy bảo vệ vệ sinh, gọn nhẹ nhưng ngân sách lại cao, trang thiếtbị rất đắt tiền nên giải pháp thiêu đốt không thích hợp với việc áp dụngđại trà ở những nước đang tăng trưởng như Nước Ta. Phương pháp ủ sinh học chiphí góp vốn đầu tư bắt đầu thấp, nhưng điểm yếu kém là tiến trình lê dài 3 – 4 tháng, giải quyết và xử lý bãi nơi chôn lấp để ủ rác khó làm triệt để nên dễ gây thiệt hại tới môitrường. Cuối cùng chỉ có cách chôn lấp là được sử dụng nhiều nhất. Cách nàyvừa dễ làm, vừa đỡ tốn kém nhưng lại có điểm yếu kém là không vệ sinh, làm ônhiễm đất, nước, những loại khí sản sinh khi rác phân hủy gây ô nhiễm khôngkhí và cháy nổ. 4. Quy định của Nhà nước về rác thải sinh hoạtTheo điều 53 chương VI Luật Bảo vệ tài nguyên môi trường tự nhiên thì hộ giađình cần có nghĩa vụ và trách nhiệm triển khai những lao lý về bảo vệ thiên nhiên và môi trường sau đây : Thu gom và chuyển rác thải sinh hoạt đến đúng nơi do tổ chức triển khai giữ gìn vệsinh môi trường tự nhiên tại địa phận pháp luật. Nộp đủ và đúng thời hạn những loại phí bảo hiểm môi trường tự nhiên theo quy địnhcủa pháp lý. Tham gia hoạt động giải trí vệ sinh môi trường tự nhiên thành phố, đường làng ngõ xóm, nơi công cộng và hoạt động giải trí tự quản về bảo vệ thiên nhiên và môi trường và hội đồng dâncư. Theo điều 54 Chương VI Luật bảo vệ môi trường tự nhiên : Nhà nước khuyếnkhích hội đồng dân cư xây dựng những tổ chức triển khai tự quản bảo vệ thiên nhiên và môi trường nơimình sinh sống nhằm mục đích thực thi những trách nhiệm sau : Tổ chức thu gom tập trung và giải quyết và xử lý rác thải, chất thải ; Giữ vệ sinh đường làng ngõ xóm, thành phố nơi công cộngTổ chức tự quản về bảo vệ thiên nhiên và môi trường được xây dựng và hoạt độngdựa trên nguyên tắc tự nguyện, hội đồng nghĩa vụ và trách nhiệm, tuân theo quy địnhcủa pháp lý v.v … Theo thông tư 199 / TTg của Thủ tướng chính phủ nước nhà : – Về việc quản trị việc phát sinh, thu gom, luân chuyển chất thảiNghiêm cấm những cơ sở sản xuất, kinh doanh thương mại, dịch vụ, bệnh viện … cũngnhư những hộ mái ấm gia đình đổ những loại chất thải ra sông, hồ, đường phố làm mất mỹquan và gây ô nhiễm thiên nhiên và môi trường. Tổ chức, cá thể nào vi phạm sẽ bị xử lýtheo pháp lý bảo vệ môi trường tự nhiên và những pháp lý tương quan khác của ViệtNamTổ chức thu gom kịp thời và triệt để chất thải, thực thi phân loại chấtthải ngay từ nguồn thải để thuận tiện cho việc tái sử dụng, tái chế và tiêu hủy. Khuyến khích việc vận dụng những công nghệ tiên tiến mới tronmg thu gom, vận chuyểnvà giải quyết và xử lý chất thải. Kiểm soát khắt khe việc thải và luân chuyển những chất thải theo dúngcác pháp luật về vệ sinh môi trờng. Tổ chức thực thi nếp sống vệ sinh, văn minh, xóa bỏ những thói quen vàtập quán xấu, như vứt rác thải, chất thải bừa bãi … Mỗi đô thị phải có những quyđịnh đơn cử về những việc nói trên. – Về việc quản trị việc giải quyết và xử lý, tiêu hủy chất thảiTổ chức và thực thi việc quy hoạch những bãi chôn lấp chất thải ; xâydựng những bãi chôn lấp chất thải bảo vệ những tiêu chuẩn vệ sinh thiên nhiên và môi trường vàđáp ứng được nhu yếu chôn lấp chất thải của địa phương mình tối thiểu là 25 năm. Có những công nghệ tiên tiến tương thích để giải quyết và xử lý hoặc tiêu hủy chất thải bảo vệ cáctiêu chuẩn môi trường tự nhiên, đặc biệt quan trọng so với chất thải công nghiệp nguy cơ tiềm ẩn cầnphải được giải quyết và xử lý triệt để. Có những giải pháp giải quyết và xử lý ô nhiễm môi trường tự nhiên do những bãi chôn lấp chất thảicũ gây ra v.v … Các lao lý, văn bản pháp lý của Nhà nước về yếu tố rác thải sinhhoạt nhìn chung tương thích với thực trạng nước ta. Tuy nhiên việc thực hiệnchưa tốt nên trên trong thực tiễn vẫn chưa hiệu suất cao. Đội ngũ những người đảm bảoviệc triển khai những lao lý này còn thiếu và yếu. II. Thực trạng rác thải sinh hoạt Hà Nội1. Tình trạng chungNước ta chuyển từ nền kinh tế tài chính kế hoạch hóa tập trung chuyên sâu sang kinh tế tài chính thịtrường đã được hơn 20 năm. Cuộc sống người dân đã có nhiều đổi khác theohướng tích cực : mức sống được nâng lên rõ ràng, hàng tiêu dùng nhiều hơn cảvề số lượng và chủng loại, những dịch vụ tốt hơn. Tuy nhiên, bên cạnh nhữngmặt tốt thì đời sống tân tiến cũng làm phát sinh những yếu tố nan giải. Rácsinh hoạt là một trong số đó. Cuộc sống được cải tổ cũng có nghĩa là conngười tiêu dùng nhiều hơn, những đồ vật đẹp hơn, làm từ nhiều loại chất liệuhơn, bền hơn và cũng khó phân hủy hơn. Ngày càng phát sinh nhiều loại chấtthải rắn có đặc thù ô nhiễm cao và phức tạp. Theo hiệu quả quan trắc về chấtthải thì lượng rác thải rắn nguy cơ tiềm ẩn chiếm khoảng chừng 16 %, trong đó hơn 10 % làchất dẻo PVC và 6 % chất thải là những loại : pin, ắc quy, bơm kim tiêm, nhiệt kếthuỷ ngân, bóng đèn hỏng có chứa thủy ngân … Khối lượng rác tăng chóngmặt đã gây sức ép lớn cho những bãi rác của thành phố. Tổng hợp lượng chất thải phát sinh của thành phố Thành Phố Hà Nội 2006N guồn phát sinh Khối lượng Khối lượng ( tấn / ngày ) ( tấn / năm ) Chất thải sinh hoạt 2.350 803.000 Chất thải công nghiệp ( nguy cơ tiềm ẩn chiếmkhoảng 15 % ) 350 128.000 Chất thải thiết kế xây dựng 950 347.000 Chất thải y tế nguy cơ tiềm ẩn 2 720P hân bùn bể phốt 370 135.000 ( Nguồn : URENCO 2006 ) Thành phần chất thải sinh hoạt năm 2006STT Thành phần Tỷ lệ ( % ) 1 Chất hữu cơ : thức ăn thừa, rau, vỏ quả … 49.032 Giấy vụn : giấy, bìa … 2.903 Nhựa : chai, lọ, hộp, nhựa vụn … 4.204 Nilon 7.485 Cao su, da vụn, giả da … 4.156 Vải 2.157 Cành cây, gỗ 1.038 Thủy tinh : chai lọ, thủy tinh vỡ … 0 799 Kim loại : vỏ hộp, sợi sắt kẽm kim loại … 1.0010 Sành sứ 7.3611 Chất trơ : đất đá, cát, gạch vụn, bê tông, những tạpchất nhỏ khó phân loại khác … 26.22 Tổng cộng ~ 100 Độ pH trung bình : 6.5 – 7.0 Độ ẩm : 67-70 % Tỷ trọng 0.4 – 0.5 ( tấn / m3 ) ( Nguồn : URENCO, 2006 ) Theo số liệu thống kê, trong năm 2002, khối lượng chất thải rắn đô thịtính trung bình đầu người một ngày tại những đô thị lớn giao động khoảng chừng từ 1-1, 2 kg và ở những đô thị nhỏ khoảng chừng 0,5 kg. Con số này đã tăng lên khôngngừng, đặc biệt quan trọng từ năm 2001 cùng với sự tăng trưởng của những đô thị và điều kiệnsống của dân cư. Trung bình mỗi ngày người dân Thành Phố Hà Nội thải ra khoảng2. 700 tấn rác gồm rác hữu cơ, vô cơ và rác tái chế, thì chỉ có khoảng chừng 160 tấnrác vô cơ là không hề tái chế được cần phải chôn lấp, hai loại rác còn lại đềucó thể tận dụng để chế biến làm phân bón, phục vụ Việc chôn lấp chung cácloại rác như vậy vừa gây tiêu tốn lãng phí tài nguyên, vừa tốn kém công thu gom, vậnchuyển, diện tích quy hoạnh chôn lấp sản xuất nông nghiệp hoặc tái chế thành những sảnphẩm có ích. Bãi rác Nam Sơn có tổng diện tích quy hoạnh chôn lấp rác là 83,5 ha vớithời gian hoạt động đến năm năm ngoái nhưng năng lực đến năm 2010 đã hết chỗđổ. Ông Phạm Ngọc Hải – Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Môi trường Đôthị lo ngại cho biết : “ Với khối lượng rác tăng trung bình hàng năm 15 % nhưtrong vòng 5 năm trở lại đây thì chỉ tới 2010, bãi chôn lấp này sẽ đầy. Hiệnnay, bãi chôn rác Nam Sơn đang phải đảm nhiệm khoảng chừng 2.500 tấn rác / ngày “. 2. Quá trình thu gom ( phân loại và luân chuyển ) rác thải sinh hoạtCông ty Môi trường Đô thị cho biết, lúc bấy giờ, TP. Hà Nội có 2 lò đốt ráctiêu chuẩn là lò đốt rác y tế tại Từ Liêm và lò đốt rác công nghiệp tại khu xửlý chất thải Nam Sơn, Sóc Sơn. Do bãi giải quyết và xử lý rác Nam Sơn cách Thành Phố Hà Nội tới 56 km, nên trước khi đưa về đây giải quyết và xử lý, rác vẫn được tập trung rải rác ở những huyệnngoại thành gây mất trật tự và vệ sinh. Các bãi rác là nơi kiếm sống của nhiềungười thất nghiệp, trẻ long dong. Họ không hề có bất kỳ trang bị gì để đảmbảo sức khỏe thể chất khi tiếp xúc với trực tiếp với rác. Không ai dám bảo vệ là sauvài tiếng bới rác kiếm sống ở đây, người bới rác khi mang những thứ kiếmđược bán lại cho những chủ đầu mối phế liệu lại không “ nhân tiện ” phát tán luônloại bệnh dịch nào đó. Ngoài mối lo phát tán bệnh dịch, những bãi rác cũng tiềmẩn nhiều rủi ro tiềm ẩn với người bới rác, đặc biệt quan trọng là trẻ nhỏ. Các mảnh thủy tinhhay sắt kẽm kim loại sắc nhọn, kim tiêm, hóa chất ô nhiễm được đổ lẫn cùng rác sinhhoạt … đều ảnh hưởng tác động xấu đến sức khỏe thể chất thậm chí còn cướp đi sinh mạng của cácem. Ô nhiễm không riêng gì ở những bãi rác mà còn hiện hữu ngay từ khâu thu gomdo việc thu gom rác trọn vẹn bằng tay thủ công. Hiện nay TP.HN chỉ có cách dùngchổi, xẻng gom rác lên xe rồi đưa đến điểm tập trung. Từ đấy rác sẽ lên nhữngchiếc xe hơi chuyên sử dụng chạy ra bãi rác ngoại ô đợi chôn lấp. Rác thỉnh thoảngrơi từ những chiếc xe ra đường phố. Còn ở ngoài thành phố, người dân đổ rác bừabãi : bên đường đi, bờ ruộng, xuống ao hồ làm ô nhiễm thiên nhiên và môi trường sốngnghiêm trọng. Hơn nữa, những xe rác lưu hành trên những con đường nhỏ vào giờ tan tầmgây ùn tắc giao thông vận tải. Mặc dù đã có sự sắp xếp giờ chạy cho xe chở rácnhưng yếu tố này vẫn chưa được xử lý và gây nhiều bức xúc trong ngườidân. Thêm vào đó, công tác làm việc thu gom hầu hết vẫn là thu hỗn hợp chứ khôngđược phân loại ngay tại nguồn. Việc tịch thu những chất có năng lực tái chế, táisử dụng như : nilon, giấy vụn, sắt kẽm kim loại, nhựa, thủy tinh … hầu hết do nhữngngười nhặt rác triển khai. Tỷ lệ này chiếm từ 15-20 % công tác làm việc thu gom chấtthải. Việc tái chế, tái sử dụng chất thải rắn vẫn còn ở mức thấp, khoảng chừng 2-5 % tổng lượng chất thải rắn phát sinh được chuyển hóa thành phân vi sinhcompost. Sau một thời hạn triển khai những việc làm chuẩn bị sẵn sàng, từ cuối tháng10-2003, Cty Môi trường đô thị TP. Hà Nội đã tổ chức triển khai thực thi thử nghiệm mô hìnhphân loại rác thải tại nguồn ở phường Phan Chu Trinh. Dự kiến bắt đầu củathành phố là kiến thiết xây dựng mạng lưới thu gom luân chuyển rác thải sinh hoạt trênđịa bàn Q. Hoàn Kiếm ( tại 9 phường là Tràng Tiền, Phan Chu Trinh, HàngBài, Trần Hưng Đạo, Chương Dương, Phúc Tân, Lý Thải Tổ, Cửa Nam, HàngBông ) gồm 259 điểm thu gom trực tiếp, 180 điểm đặt thùng rác 2 ngăn, 75 xethu gom và 201 công nhân làm trách nhiệm thu gom ( một số ít phường không dặtcác thùng thu gom phân loại vì có tuyến đường quá hẹp, không có chỗ đặt ). Thời gian thu gom từ 18 h – 20 h hàng ngày, việc luân chuyển được thực hiệnbằng 20 xe chuyên dùng, trong dó 10 xe chở rác hữu cơ đi nhà máy sản xuất chế biếnphân vi sinh Cầu Diễn, 10 xe chở những chất thải khác đi bãi chôn lấp Nam Sơn. Tuy nhiên khi đi vào triển khai rác qua sự phân loại của người dân lại bị trộnlẫn trong khâu luân chuyển, cạnh bên đó ý thức và nhận thức người dân chưacao nên rác không được phân loại triệt để. 10N guồn kinh tế tài chính hoạt động giải trí của công ty Môi trường đô thị gồm có ngânsách do Nhà nước cấp và những hợp đồng vệ sinh với nhân dân. Mức phí vệ sinhhiện nay cho những hộ mái ấm gia đình là 2000 đồng / người / tháng. Trong những nămqua lệch giá hàng năm của công ty Môi trường đô thị chỉ chiếm khoảng30 % tổng ngân sách của công ty. 3. Quá trình giải quyết và xử lý rác thải sinh hoạtHiện nay, những bãi rác không đạt tiêu chuẩn. Phần lớn những bãi chôn lấpkhông có lớp chống thấm ở dưới đáy và thành ô chôn lấp, không có hệ thốngthu gom và giải quyết và xử lý nước rác, khí ; quá trình đổ rác không đúng kỹ thuật … Vìvậy đã dẫn đến thực trạng ô nhiễm không khí, rò rỉ, thẩm thấu nước rác, gây ônhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm. Người dân khu vực xung quanh bãi rácbị ảnh hưởng tác động nặng nề và đã phản ứng xấu đi bằng cách chặn không cho xerác vào đổ ( bãi rác Nam Sơn tháng 11/1999 ). Hầu hết rác thải của TP.HN được giải quyết và xử lý ở khu giải quyết và xử lý rác Nam Sơn ( huyệnSóc Sơn ) và ở Xí nghiệp chế biến rác Cầu Diễn với giải pháp vi sinh cócông suất 30.000 m / năm. Tuy nhiên, bãi rác Nam Sơn đang ở trong tình trạngquá tải, theo Dự kiến đến năm 2010 bãi rác Nam Sơn sẽ đầy và Thành Phố Hà Nội lạiphải tìm bãi rác mới. Xí nghiệp chế biến rác Cầu Diễn chưa từng hoạt độnghết hiệu suất, 2 lò đốt rác tại Từ Liêm và Nam Sơn không cung ứng được nhucầu giải quyết và xử lý chất thải rắn của thành phố. 4. Nguyên nhânNguyên nhân sâu xa của những tình hình trên là kinh phí đầu tư cho việc quảnlý và giải quyết và xử lý rác nói chung và rác thải sinh hoạt nói riêng còn thiếu thốn. Ngoàira Thành phố vẫn chưa kêu gọi được nguồn lực từ trong nhân dân : doanhthu phí vệ sinh còn thấp ( nguyên do một phần do việc lao lý phí đối vớidịch vụ vệ sinh còn thấp : 2000 đồng / người / tháng, một phần do chưa có biệnpháp thu phí tương thích nên tỷ lệ phí thu được chỉ chiếm 55 % tổng mức phí phảithu trong nhân dân ). Công ty Môi Trường đô thị chỉ được thành phố trả tiềncho công tác làm việc thu gom, luân chuyển và giải quyết và xử lý chôn lấp rác thải sinh hoạt thông11qua hợp đồng đặt hàng. Còn việc tái chế rác hữu cơ thành phân compost, URENCO chưa được thành phố thanh toán giao dịch mà phải lấy tiền bán phân để bùđắp một phần ngân sách. Tuy nhiên việc sử dụng phân compost chưa phổ biếnđối với người nông dân trước hết là do chi phí sản xuất cao dẫn tới giá thànhcao, người nông dân không đủ tiền mua. Hơn nữa người dân chưa quen sửdụng loại phân này do đó URENCO phải vay vốn để sản xuất và sản phẩmchủ yếu là cho, Tặng Kèm nhằm mục đích khuyến khích người dânSự thiếu thốn về kinh phí đầu tư liên tục dẫn đén sự thiếu thốn về nhânlực, phương tiện đi lại trong ngành thiên nhiên và môi trường đô thị. Do đó công tác làm việc phân loại, táichế chất thải còn chưa tốt. Trên thực tiễn công nghệ tiên tiến giải quyết và xử lý rác thải của Hà Nộicòn đơn thuần, bằng tay thủ công. Công ty MTĐT chỉ mang rác đến bãi thải và đổ lộthiên mà thậm chí còn không hề qua nén ép ( quy trình đơn thuần nhất làm giảmthể tích rác thải ). Các công nghệ tiên tiến tân tiến như thiêu đốt chưa được áp dụngđối với rác thải ở Thành Phố Hà Nội. Trên địa phận Thành phố cũng đã có một nhà máyxử lý rác thành phân bón hữu cơ ( đặt tại Cầu Diễn ), nhưng do những khâu xử lýphân loại còn yếu nên nguyên vật liệu nguồn vào không thỏa mãn nhu cầu dẫn đến côngsuất vừa thấp vừa tốn công ( chỉ đạt hiệu suất 30 % năm ). Công nghiệp tái chếchất thải thì vẫn còn manh mún chưa thực sự được coi trọng. Do chưa thựchiện được công tác làm việc phân loại rác ngay từ nguồn thải nên TP. Hà Nội vẫn chôn rácsinh hoạt lẫn với những loại rác thải nguy cơ tiềm ẩn khác ( trong đó thành phần chủ yếulà rác thải công nghiệp và một phần rác thải bệnh viện ). Chính vì thế khốilượng rác thải đem đi đổ thải tại bãi rác vẫn còn lớn làm tốn diện tích quy hoạnh bãi thảivà không mang lại hiệu suất cao kinh tế tài chính. Hơn nữa những bãi thải trước kia của HàNội trong thực trạng vừa không có đất phủ, vừa là nơi đổ thải hỗn hợp nên đãtrở thành nguồn gây ô nhiễm lớn. Hơn nữa chính sách phân cấp quản trị và chế tài chưa hiệu suất cao. Do việc phâncấp nghĩa vụ và trách nhiệm quản trị môi trường tự nhiên chưa đơn cử đến những cơ quan có tráchnhiệm nên trên thực tiễn Thành phố vẫn chưa thực thi được việc xử phạt cáchành vi đổ chất thải ra nơi công cộng. Người dân không bị ngăn ngừa và xử12phạt nên kém ý thức tuân thủ nội quy giữ gìn vệ sinh nơi công cộng. Điều nàykhá phổ cập ở những nước đang tăng trưởng. Do tập quán canh tác nông nghiệp, sống dựa vào tự nhiên với nhiều ý niệm sai lầm đáng tiếc cổ hủ như “ trời sinh voisinh cỏ … ” nên dù đã bước sang nền kinh tế thị trường được hơn hai mươinăm, dân cư Nước Ta vẫn chưa có những nhận thức đúng đắn về những vấnđề đang phát sinh trong quy trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Rác thải, cụthể là rác thải sinh hoạt là một trong số đó. Nền kinh tế tài chính nông nghiệp tạo ranhưng loại rác gần với tự nhiên, dễ phân hủy. Nhưng lúc bấy giờ, như đã trìnhbày ở trên, số lượng và chủng loại của rác ngày càng phong phú với việc xuấthiện nhiều loại rác ô nhiễm, khó phân hủy. Và chừng nào con người còn chưanhận thức được yếu tố này để kiểm soát và điều chỉnh hành vi tiêu dùng, sinh hoạt củamình thì rác vẫn được sinh ra với vận tốc chóng mặt trong khi việc giải quyết và xử lý lại vôcùng hạn chế. Thành phố chỉ tập trung chuyên sâu vào góp vốn đầu tư cho một đơn vị chức năng hoạt động giải trí thu gomrác thải mà chưa kêu gọi được sự tham gia của toàn dân vào công tác làm việc làmsạch môi trường tự nhiên, đây là một trong những nguyên do số 1 dẫn đến môitrường của Thành phố vẫn chưa được sạch sẽ và đẹp mắt. III. Giải pháp1. Khâu thu gom1. 1. Phân loạiĐể bảo vệ rác được giải quyết và xử lý hiệu suất cao thì phân loại rác là khâu phải làmtốt thứ nhất. Nếu phân loại rác được thực thi tốt thì những quy trình về sausẽ thuận tiện, nhanh gọn và tiết kiệm chi phí hơn rất nhiều. Muốn làm được điều nàycần có sự phối hợp đồng bộ giữa những sở, ban, ngành tương quan, giữa người dânvới những cơ quan quản trị. Việc tiên phong là phải nâng cao ý thức người dân về yếu tố rác thải sinhhoạt, từ đó làm cho họ tự giác tuân thủ những lao lý về bảo vệ môi trườngcũng như tự giác trong việc phân loại rác sinh hoạt. 13L ớp người xưa bị ảnh hưởng tác động nhiều bởi kiểu tâm lý của nền kinh tếnông nghiệp, tính tư hữu, “ cha chung không ai khóc ” đã ăn sâu vào cách nghĩ, cách sống của dân cư. Để đổi khác cách nhìn, quan điểm của họ về mộtvấn đề như rác thải sinh hoạt là điều không dễ. Với những người này, ngoàicác giải pháp cứng rắn như vận dụng những hình phạt nặng thì còn có một biệnpháp mềm dẻo hơn, hợp với cách nghĩ, cách sống của họ hơn, đó là sử dụngcác tổ dân phố, tổ tự quản như cầu nối giữa người dân với chính quyền sở tại, thuyếtphục họ tự giác chấp hành những lao lý về rác thải sinh hoạt. Các tổ tự quản, tổ dân phố đóng vai trò vô cùng quan trọng, giúp người dân hiểu và thực hiệnvai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm cua mình so với lượng rác họ thải ra hàng ngày trongquá trình sinh hoạt. Đây là những người có mối quan hệ quen biết và uy tínnhất định với người dân, do chính người dân mỗi khu vực bầu ra. Do vậy nhàquản lý cần tận dụng, phát huy vai trò của họ trong việc nâng cao nhận thứccủa người dân về rác thải sinh hoạt. Các tổ chức triển khai này hoàn toàn có thể áp dung nhữngbiện pháp đánh vào lòng tự ái, tự trọng, tình làng nghĩa xóm, sự nể nang, … vốn là những đặc thù thông dụng của dân cư Việt. Sau đây là một vài ví dụcho những giải pháp làm giảm thực trạng đổ rác bừa bãi : phân loại nghĩa vụ và trách nhiệm giữ gìn vệ sinh xóm ngõ tới từng hộ dân, đơn cử làphân việc làm quét dọn đường đi cho từng nhà ; nhắc nhở những trường hợp vi phạm và tuyên dương những trường hợp thựchiện tốt trên loa phóng thanh của phường ; tổ chức triển khai thi đua giữa những hộ mái ấm gia đình trong việc bảo vệ vệ sinh chung, hoàn toàn có thể tổ chức triển khai những cuộc thi nhỏ về rác thải sinh hoạt ; phân phối cho người dân những hiểu biết về mức độ nguy cơ tiềm ẩn của những loạirác thải nếu không được giải quyết và xử lý đúng cách, những thông tin về tình hình môitrường của quốc tế nói chung cũng như rác thải sinh hoạt của Nước Ta nóiriêng. Các thế hệ sau này đã có điều kiện kèm theo hơn cha ông trong việc tiếp thu nhữngcái mới. Và nếu được giáo dục tốt trên ghế nhà trường họ sẽ trở thành những14công dân có ý thức trong việc bảo vệ thiên nhiên và môi trường đồng thời góp thêm phần tích cựcthay đổi quan niêm của những bậc cha mẹ, những thế hệ đi trước. sách giáokhoa của học viên lúc bấy giờ có đề cập đến yếu tố thiên nhiên và môi trường nhưng mới dừngở mức trình làng, phân phối những nhận thức bắt đầu. Nên chăng cần có mộtmôn hoc chính thức cho yếu tố này nhằm mục đích phân phối cho những em cái nhìn đầyđủ về thực trạng môi trường tự nhiên ngày này, những yếu tố thiên nhiên và môi trường mà loàingười đang phải đương đầu, tầm quan trọng của từng cá thể trong việc bảo vệmôi trường để mỗi em có đựoc cách nhìn đúng về vai trò của mình và cộngđồng với môi trường tự nhiên. Những cuộc thi tranh, ảnh, bài viết, tiểu phẩm, thi kiếnthức về môi trường tự nhiên tự nhiên … cần được khuyến khích hơn nữa. Những hoạtđộng này không riêng gì cung ứng kiến thức và kỹ năng mà còn tạo cho trẻ tình yêu thiênnhiên, sự quý trọng với cảnh sắc vạn vật thiên nhiên, thiên nhiên và môi trường sống trong lành. Bên cạnh việc nâng cao ý thức, nhận thức của người dân thì rất cần sựphối hợp của những cấp quản trị, những ban ngành tương quan. Thành Phố Hà Nội đã bắt đầuthực hiện việc này với sự trợ giúp của Jica. Từ tháng 7/2007, dự án Bất Động Sản phân loạirác tại nguồn 3R – HN, do Cơ quan Hợp tác Quốc tế của chính phủ nước nhà Nhật BảnJica hỗ trợ vốn cho TP TP.HN, đã chính thức bước vào tiến trình ứng dụng thực tếtrên địa phận phường Phan Chu Trinh ( Q. Hoàn Kiếm ). Đại diện Jica cho biết kể từ trung tuần tháng 6/2007, những hộ mái ấm gia đình trênđịa bàn phường Phan Chu Trinh đã được hướng dẫn phân loại rác thành 2 loạingay tại nhà. Thay vì chờ đón người công nhân tới để thu gom rác, những hộ giađình hoàn toàn có thể dữ thế chủ động đổ rác trong khoảng chừng thời hạn từ 16 h – 20 h30 hằng ngàyđối với rác hữu cơ, và 4 ngày / tuần so với rác vô cơ. Các hộ mái ấm gia đình sẽ đổ rác tại những thùng rác thu gom tập trung, theo sựhướng dẫn thân thiện của những người công nhân thu gom. Bên cạnh những hoạtđộng hội thảo chiến lược, thăm quan thực tiễn tại xí nghiệp sản xuất sản xuất phân vi sinh Cầu Diễn, những hộ mái ấm gia đình sẽ được phát những thùng rác có đính tem phân loại, và đượchướng dẫn theo dõi sự biến hóa trong khối lượng rác thải mỗi ngày trước và15sau khi phân loại rác, từ đó thấy được giá trị góp phần của mình cho xã hộithông qua hoạt động giải trí phân loại rác tại mái ấm gia đình. Thực tế ở Nước Ta phân loại rác sinh hoạt không phải là chuyện mới. Từ bao lâu nay nhiều mái ấm gia đình vẫn có ý thức tích trữ giấy, vỏ lon, chai, lọ … để bán đồng nát ve chai. Đây cũng là một hình thức phân loại rác thô sơ songrất hiệu suất cao. Bên cạnh đó, vẫn sống sót những người bới rác. Cần có quy địnhđể bảo vệ họ khỏi những rủi ro đáng tiếc trong khi thao tác. Nếu như việc phân loại rácđược thực thi tốt thì vẫn đề của những người bới rác cũng sẽ được giảiquyết. Họ sẽ tự động hóa chuyển sang việc làm khác khi không còn làm côngviệc này được nữa. 1.2. Vận chuyểnĐể cải tổ khâu luân chuyển rác thải rắn nói chung và rác thải sinh hoạtnói riêng thì yếu tố kinh phí đầu tư cần được xử lý. UBND Thành phố Hà Nộicó kế hoạch biến hóa thời hạn thu gom chất thải từ giữa tháng 10/2007 nhưngđiều này đã gây ra 1 số ít ảnh hưởng tác động không tích cực như làm tăng giá thu gom, tăng lương công nhân đồng thời tăng gánh nặng với những người công nhânphải thao tác ca đêm. Do vậy cần có sự góp vốn đầu tư nhiều hơn nữa của nhà nướcvào công tác làm việc thu gom giải quyết và xử lý rác nhằm mục đích tạo điều kiện kèm theo cho người công nhân cóthu nhập xứng danh, đồng thời nâng cấp cải tiến trang thiết bị thu gom vận chuyểnnhằm giảm thực trạng ô nhiễm tới thiên nhiên và môi trường và ảnh hưởng tác động xấu tới sức khỏecông nhân cũng như người dân. Tăng phí vệ sinh cũng là một giải pháp làmtăng nguồn thu cho công ty Môi trường đô thị TP.HN. Khi nguồn kinh phíđược bảo vệ thì URENCO hoàn toàn có thể triển khai những giải pháp đơn cử như sau : Thay thế những xe chở rác đã hỏng, xuống cấpSử dụng những loại xe mới tiêu tốn ít nguyên vật liệu, thân thiện với môi trườnghơn, thùng xe kínCải tiến những loại xe rác ( cả xe đẩy và xe tải ) Xây dựng những trạm bảo trì, sửa chữa thay thế, rửa xe rác định kỳ …. 162. Khâu xử lýXử lý rác nói chung và rác thải sinh hoạt nói riêng ở Nước Ta chưa phảilà ngành được tư nhân góp vốn đầu tư nhiều. Phương pháp giải quyết và xử lý cho phần đông rác thảisinh hoạt là chôn lấp. Hiện Công ty Môi trường đô thị TP. Hà Nội đang xin thànhphố lan rộng ra thêm 43 ha tại Nam Sơn nữa nhưng đây cũng chỉ là giải pháptình thế. Trung bình góp vốn đầu tư thiết kế xây dựng 1 ô chôn lấp rộng 5 ha phải mất khoảng5 tỷ đồng, chưa kể trung bình mỗi ngày phải giải quyết và xử lý 1000 m3 nước rác đòi hỏiquy trình kỹ thuật phải rất cẩn trọng để tránh thực trạng ô nhiễm thiên nhiên và môi trường, ônhiễm nguồn nước tại những khu vực dân cư. Tuy nhiên đây chỉ là giải pháp tìnhthế. Về lâu bền hơn cần có một giải pháp khác. Trên thực tiễn, đã có 1 số ít doanhnghiệp tư nhân thực sự thành công xuất sắc khi góp vốn đầu tư vào việc giải quyết và xử lý, tái chế rác, cụthể là tái chế những loại nhựa. Khi việc giải quyết và xử lý rác đem lại doanh thu thì việc đầutư vào ngành này không còn là yếu tố đau đầu của riêng những nhà quản trị nữa. Các doanh nghiệp tư nhân thao tác hiệu suất cao hơn, kinh tế tài chính hơn Nhà nước trongviệc thu gom, giải quyết và xử lý rác thải. Họ tự tìm được nguồn vào, đầu ra, công nghệ tiên tiến thíchhợp để giải quyết và xử lý hàng loạt phần rác có năng lực sinh lợi. Công việc của Nhà nướclúc này chỉ còn là giải quyết và xử lý những loại rác ô nhiễm, không có năng lực tái chế haychuyển hóa thành những dạng có ích. Như vậy cần có nhiều giải pháp khuyếnkhích tư nhân góp vốn đầu tư vào rác thải đồng thời cũng cần nhiều giải pháp giảmrác thải từ những doanh nghiệp. Sau đây là một số ít ví dụ về những giải pháp khuyếnkhích đó : Giảm thuế với những mẫu sản phẩm làm từ rácHỗ trợ vốn khởi đầu trải qua chủ trương cho vay ( về thời hạn, lãi suất vay … ) Cử chuyên viên về kỹ thuật trợ giúp, tổ chức triển khai du lịch thăm quan những doanh nghiệpđã thành côngĐặc biệt ưu tiên với những khu vực lượng rác cần giải quyết và xử lý nhiều17Dù là nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân thì cũng cần bảo vệ quytrình giải quyết và xử lý rác được triển khai đúng. 3. Các giải pháp khác : Một yếu tố đang được nhiều nước chăm sóc, kể cả những nước phát triểncũng như đang tăng trưởng là giảm thiểu lượng rác vô cơ thải ra thiên nhiên và môi trường đặcbiệt là túi nilon. Có nhiều cách để giảm loại rác phân hủy đặc biệt quan trọng lâu nàynhư : Cấm sử dụng những túi nilon nhỏSản xuất túi thay thế sửa chữa túi nilon bằng những vật tư dễ phân hủy hơn với giáthành tương tự ( nhà nước hoàn toàn có thể trợ giá cho mẫu sản phẩm này ) Thay thế bắt buộc túi nilon trong nhà hàng bằng cái loại túi hoàn toàn có thể dùngnhiều lầnTuyên truyền về mối đe dọa của túi nilon với môi trường tự nhiên với người dânChiến dịch khuyến khích sử dụng túi cá thể đi chợ thay vì túi nylong – vốn là chất thải vô cơ khó tiêu hủy, cũng là một tiêu điểm điển hình nổi bật của dự án3R. Với việc phân phát 2 nghìn túi đi chợ đến 2 nghìn mái ấm gia đình trong địa bànphường, kèm theo những thông tin tuyên truyền trực tiếp, 3R – HN kỳ vọng sẽdần đổi khác được thói quen sử dụng túi nilông của người dân, vốn là chất rấtkhó phân hủy và không tốt cho môi trường18KẾT LUẬNVới vận tốc tăng trưởng như lúc bấy giờ, TP.HN nói riêng và những đô thị củanước ta nói chung sẽ ngày càng đông hơn, chật hơn, những khoảng chừng khônggian gần với vạn vật thiên nhiên bị giảm đi trong khi nhu yếu sống của con ngườingày càng tăng thêm. Giải quyết được yếu tố rác thải sinh hoạt là đã góp phầnmở rộng khoảng trống sống, cải tổ môi trường tự nhiên sống cho người dân, đồng thờigóp phần bảo vệ thiên nhiên và môi trường cho toàn quốc tế. Giảm thiểu, tái sử dụng và táichế rác thải sinh hoạt là việc mà nhiều vương quốc đã làm được. Việt Nam đangtích cực học hỏi kinh nghiệm tay nghề những nước bạn đồng thời vận dụng phát minh sáng tạo vàohoàn cảnh riêng của mình nhằm mục đích đem lại cho đô thị Nước Ta nói riêng vàtoàn quốc gia việt Nam nói chung một bộ mặt mới. Việt Nam được thế giớiđánh giá là điểm đến bảo đảm an toàn, thành phố TP.HN được gọi là Thành phố vì hòabình. Với một thiên nhiên và môi trường trong sáng, Nước Ta sẽ càng có thêm điều kiệnphát triển. Trên đây là một số ít tình hình và giải pháp cho yếu tố rác thải sinhhoạt Thành Phố Hà Nội. Nhóm em lựa chọn đề tài này với mong ước góp phần mộtphần nhỏ bé cho một Thành Phố Hà Nội xanh hơn, một Nước Ta sạch hơn, một môitrường trong lành hơn cho tổng thể mọi người. Dù đã nỗ lực nhưng do trình độcòn hạn chế nên bài làm của nhóm chắc như đinh còn sống sót nhiều thiếusót. Chúng em rất mong nhận sự hướng dẫn thêm của thầy cô để có những đề tàithiết thực hơn, những bài viết tốt hơn nữa. Chúng em rất cám ơn thầy Hoàng đã hướng dẫn, giúp sức nhóm hoànthành đề tài này. Chúng em xin cảm ơn19DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Luật bảo vệ môi trường2. Báo Thành Phố Hà Nội mới3. Thời báo kinh tế tài chính Việt Nam4. hanoinet.vn5.nld.com.vn6.vietnamnet.vn7.vtc. vn20MỤC LỤCTrangI. Tổng quan về rác thải 31. Khái niệm – phân loại : 32. Đặc điểm 43. Các phương pháp giải quyết và xử lý rác thải 54. Quy định của Nhà nước về rác thải sinh hoạt 5II. Thực trạng rác thải sinh hoạt TP.HN 71. Tình trạng chung 72. Quá trình thu gom ( phân loại và luân chuyển ) rác thải sinh hoạt 93. Quá trình giải quyết và xử lý rác thải sinh hoạt 114. Nguyên nhân 11III. Giải pháp 131. Khâu thu gom 131.1. Phân loại 131.2. Vận chuyển 162. Khâu giải quyết và xử lý 173. Các giải pháp khác : 18K ẾT LUẬN 19DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 2021