Trong năm 2019, lượng CTR phát sinh ngày càng lớn, có cơ cấu tổ chức thành phần phức tạp, đặc thù nguy cơ tiềm ẩn tăng .
Lượng CTR sinh hoạt tăng nhanh, cơ cấu thành phần phức tạp, tỷ lệ chất thải nhựa cao
Năm 2019, tổng khối lượng CTR hoạt động và sinh hoạt phát sinh trên khoanh vùng phạm vi cả nước khoảng chừng 64.658 tấn / ngày ( số liệu của 63 tỉnh / tp ), trong đó khu vực đô thị phát sinh khoảng chừng 35.623 tấn / ngày ( số liệu của 60 tỉnh / tp ), khu vực nông thôn khoảng chừng 28.394 tấn / ngày ( số liệu của 59 tỉnh / tp ). Có hơn ¼ địa phương có khối lượng phát sinh trên 1.000 tấn / ngày. Các địa phương có khối lượng phát sinh lớn là Tp. Hồ Chí Minh ( 9.400 tấn / ngày ), Tp. TP.HN ( 6.500 tấn / ngày ), Thanh Hóa ( 2.175 tấn / ngày ), Tỉnh Bình Dương ( 2.661 tấn / ngày ). Các địa phương có khối lượng phát sinh ít là Bắc Kạn ( 191 tấn / ngày ), Kon Tum ( 212 tấn / ngày ), Điện Biên ( 253 tấn / ngày ), Lai Châu ( 260 tấn / ngày ) ( Khối lượng CTR hoạt động và sinh hoạt phát sinh năm 2019 của những địa phương tại Phụ lục III kèm theo ) .
Rác thải phát sinh từ hoạt động du lịch, lễ hội trung bình 1,8kg/ngày đêm/người (tăng 0,4kg so với năm 2018), tổng lượng rác thải phát sinh từ khách du lịch khoảng 474.000 tấn (tăng 151.400 tấn so với năm 2018).
Tỷ lệ chất thải nhựa trong CTR hoạt động và sinh hoạt khoảng chừng 10 – 12 %, ước tính có gần 2,6 – 2,8 triệu tấn rác thải nhựa phát sinh trong năm 2019, một lượng lớn trôi nổi trên sông, hồ, vùng đất ngập nước cửa sông, ven biển .
Chất thải rắn y tế phát sinh trong năm 2019 có tăng, vùng Đông Nam Bộ phát sinh chất thải y tế nguy hại lớn nhất
Lượng CTR y tế phát sinh năm 2019 khoảng chừng 96.727 tấn ( tăng 7 % so với năm 2018 ). Tổng lượng chất thải y tế nguy cơ tiềm ẩn phát sinh khoảng chừng 21.810 tấn / năm ( tăng 436 tấn so với năm 2018 ) ; trong đó : chất thải lây nhiễm phát sinh là 20.766 tấn / năm, chất thải y tế nguy cơ tiềm ẩn không lây nhiễm phát sinh 10.442 tấn / năm .
Lượng CTNH y tế phát sinh không đồng đều tại những địa phương, hầu hết tập trung chuyên sâu ở những tỉnh / Tp lớn. Xét theo 07 vùng kinh tế tài chính trong cả nước ( trong đó vùng Đông Bắc và vùng Tây Bắc Bắc Bộ được gộp chung vào 01 vùng ), vùng Đông Nam Bộ phát sinh lượng thải nguy cơ tiềm ẩn lớn nhất trong cả nước ( 32 % ), với tổng lượng thải là 10.502,8 tấn / năm, tiếp đến là vùng Đồng bằng sông Hồng ( chiếm 21 % ). Các tỉnh có mức thải CTNH lớn ( > 500 tấn / năm ) tính trong cả nước theo thứ tự như sau : Tp. Hồ Chí Minh, TP.HN, Thanh Hóa, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Thành Phố Đà Nẵng, Khánh Hòa, Thừa Thiên Huế, An Giang, Cần Thơ, Nghệ An, Phú Thọ, Hải Phòng Đất Cảng, Long An .
Lượng CTR công nghiệp tồn lưu tại các cơ sở sản xuất không tăng do lượng lớn được tái sử dụng làm nguyên liệu cho các ngành sản xuất khác, nhưng lượng CTNH công nghiệp tăng mạnh
Chất thải rắn công nghiệp phát sinh trong năm 2019 khoảng chừng 25 triệu tấn ( tương tự năm 2018 ). Lượng tro, xỉ phát sinh từ những xí nghiệp sản xuất nhiệt điện than khoảng chừng hơn 13 triệu tấn. Lượng tro, xỉ tiêu thụ đạt hơn 6,5 triệu tấn, chiếm hơn 50 % tổng lượng phát sinh ( so với khoảng chừng 39,5 % của năm 2018 ). Nhiều nhà máy sản xuất có vận tốc tiêu thụ tro xỉ tăng cao, như Tỉnh Thái Bình hơn 70 %, Duyên Hải 3 đạt 85 %, Nghi Sơn 1 đạt 85 %, Hải Phòng Đất Cảng, Cần Thơ, Tỉnh Ninh Bình đạt 100 %, Vũng Áng 1 đạt 55 %, riêng Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 tiêu thụ được khoảng chừng 19 % khối lượng phát sinh ( so với khoảng chừng 11 % của năm 2018 ), Vĩnh Tân 1 mới đi vào hoạt động giải trí cuối năm 2018 tiêu thụ khoảng chừng hơn 7 %. Tro xỉ được sử dụng hầu hết để làm nguyên vật liệu trực tiếp cho những xí nghiệp sản xuất xi-măng, sản xuất gạch không nung, phụ gia bê tông, làm vật tư san lấp nền .
Theo báo cáo giải trình của những địa phương, lượng chất thải công nghiệp nguy cơ tiềm ẩn phát sinh trong năm 2019 khoảng chừng 1.133.077 tấn ( tăng 258.688 tấn so với năm 2018 ), tập trung chuyên sâu đa phần ở những ngành công nghiệp nhẹ, luyện kim, điện tử, hóa chất .
Lượng CTR nông nghiệp phát sinh lớn, đa dạng, trong năm có số lượng lớn gia súc phải tiêu hủy do dịch tả lợn Châu Phi bùng phát
Trong năm 2019, ước tính lượng CTR phát sinh từ hoạt động chăn nuôi trâu, bò, lợn, gia cầm của các trang trại và nông hộ trên cả nước khoảng 86,92 triệu tấn (tăng 2,62 triệu tấn so với năm 2018); phụ phẩm từ một số loại cây trồng chính phát sinh khoảng 94.715 nghìn tấn, trong đó cây lúa có lượng phụ phẩm lớn nhất là 52.140 nghìn tấn, cây mía là 16.914 nghìn tấn, các loại khác như sắn, ngô, cà phê, đậu tương khoảng 25.661 nghìn tấn. Chất thải phát sinh từ hoạt động trồng rừng là 676,8 tấn (tăng 21,7 tấn so với năm 2018), trong đó từ rừng phòng hộ, đặc dụng là 33,5 tấn và rừng sản xuất là 643,3 tấn.
Chất thải nông nghiệp nguy cơ tiềm ẩn hầu hết phát sinh từ những hoạt động giải trí sản xuất nông nghiệp ( chai lọ đựng hóa chất BVTV và thuốc trừ sâu, thuốc diệt côn trùng nhỏ ), hoạt động giải trí chăm nom thú y ( chai lọ đựng thuốc thú y, dụng cụ tiêm, mổ ). Năm 2019, số liệu thống kê từ những địa phương cho thấy đã có 438.032 kg bao gói, chai đựng hóa chất thuốc bảo vệ thực vật sau sử dụng được thu gom, trong đó đã tiêu hủy 346.013 kg .
Đặc biệt trong năm 2019, do sự bùng phát của dịch tả lợn Châu Phi, dịch lở mồm long móng và dịch cúm gia cầm nên số lượng gia súc bị tiêu hủy lên đến gần 6 triệu con với tổng khối lượng là 342 nghìn tấn ( chiếm khoảng chừng 9 % tổng khối lượng lợn của cả nước ), số lượng gia cầm bị tiêu hủy là 23.000 con .
Bên cạnh đó, vật chất nạo vét trong năm được cấp phép nhận chìm ở biển khoảng chừng gần 46 triệu m3 ; khối lượng đất, đá bóc phát sinh từ quy trình khai thác than và tài nguyên khoảng chừng 165 triệu m3, trong đó từ khai thác than khoảng chừng 153 triệu m3, khai thác tài nguyên khoảng chừng 12 triệu m3 ; tổng CTR kiến thiết xây dựng phát sinh trong năm khoảng chừng hơn 20 triệu tấn ; hầu hết loại vật chất này được sử dụng san lấp hầm mỏ, mặt phẳng, nhận chìm ở biển .