Suy thoái nghiêm trọng
Theo Báo cáo thực trạng môi trường tự nhiên biển và hải đảo vương quốc quy trình tiến độ năm nay – 2020 cho thấy, thực trạng rạn san hô ở vùng biển Việt Nam đã bị suy thoái và khủng hoảng từ mức rạn tăng trưởng trung bình ( bậc 3 ) xuống mức rạn tăng trưởng nghèo nàn ( bậc 1, bậc 2 ). Điều này bộc lộ xu thế suy thoái và khủng hoảng rạn san hô đang diễn ra trên toàn vùng từ khu vực phía Bắc đến phía Nam biển Việt Nam. Đối với những khu bảo tồn biển luôn cho thấy sự suy thoái và khủng hoảng nhẹ hơn những khu vực khác khoảng chừng 2 – 3 lần. Một số khu bảo tồn biển rạn san hô ở mức duy trì hoặc có xu thế tăng nhẹ trong 4 năm gần đây. Tuy nhiên, có nhiều nguyên do dẫn đến thực trạng suy thoái và khủng hoảng san hô như do điều kiện kèm theo tự nhiên, ảnh hưởng tác động của biến hóa khí hậu, ảnh hưởng tác động của ô nhiễm cục bộ …
Kết quả điều tra và nghiên cứu mới nhất của Viện Sinh Thái học và Tiến hóa – Viện Hàn lâm Khoa học Nga, Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga tại Nha Trang và Viện Hải dương học do Giáo sư Konstantin Tkachenko đứng đầu và tập sự thực thi khảo sát san hô ở 10 điểm trong khoảng chừng 3 năm ( 2016 – 2019 ). Độ bao trùm san hô trung bình giảm 64,4 %, trong đó mức giảm mạnh nhất là hai chi san hô Acropora và Montipora, vốn là thành phần hầu hết của rạn san hô ở vịnh Nha Trang ( Khánh Hòa ), suy giảm lần lượt mức 80,6 % và 82,3 %. Mức độ suy giảm của san hô ở những điểm khảo sát trên đều nghiêm trọng. Tại hòn đảo Hòn Một, loài san hô này đã mất trọn vẹn hay độ bao trùm giảm 4 – 8 lần .
Tại tỉnh Quảng Ninh, ghi nhận không còn rạn nào thuộc loại tốt, độ phủ của những rạn tốt nhất là dưới 50 % và độ phủ trung bình trên toàn vịnh chỉ còn khoảng chừng 20 %. Sự phân bổ số lượng loài tại những rạn cũng thấp hơn so trước đây rất nhiều. Một số rạn có số loài cao là Cọc Chèo, Cống Đỏ, Áng Dù, Cống Đầm, Lưỡi Liềm, Vung Viêng cũng chỉ có từ 31 – 37 loài, giảm 50 % số loài so 10 năm trước. Nguyên nhân của tình hình này, theo ông Đỗ Đình Minh, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Quảng Ninh, sự suy giảm về độ phủ và số loài san hô xuất phát từ nhiều nguyên do tích hợp, phần đông do những nguyên do từ việc khai thác thủy hải sản trái phép dưới nhiều hình thức. Đó là khai thác bằng những nghề cấm như nghề cào, cào xới đáy biển làm gãy san hô ; tạo lớp bùn trầm tích phủ lên những rạn san hô, phát tán chất ô nhiễm trong nền đáy, ngày càng tăng độ đục là nguyên do chính làm suy giảm số lượng loài và độ phủ san hô. Rồi nghề lặn phối hợp hóa chất khi trước đây, ngư dân thường sử dụng lặn khai thác thủy hải sản tích hợp hóa chất xianua, gây chết san hô ; sử dụng mìn, chất nổ để khai thác thủy hải sản trái phép, có tác động ảnh hưởng xấu đến sự tăng trưởng của rạn san hô, thậm chí còn dẫn đến diệt trừ san hô .
Nhanh chóng phục hồi
Năm 2019, Sở NN&PTNT Quảng Ninh đã quản lý, triển khai thực hiện dự án: “Tạo dựng bãi rạn nhân tạo vùng biển đảo Cô Tô nhằm bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2018 – 2019”, hoàn thành vào tháng 12/2020. Cùng đó, UBND tỉnh đã phê duyệt Quy hoạch chi tiết Khu bảo tồn biển Cô Tô, đảo Trần và dự kiến đến năm 2030 sẽ thành lập Khu bảo tồn biển Vịnh Hạ Long với tổng diện tích đề xuất khoảng 55.000 ha. Các giải pháp này, hy vọng sẽ góp phần phục hồi hệ sinh thái bền vững, trong đó có các rạn san hô.
Để bảo vệ môi trường biển trong đó bảo tồn và phát triển rạn san hô trên vùng biển Việt Nam, Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã nêu rõ quan điểm đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hóa sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng.
Sau khi Nghị quyết số 36 – NQ / TW được phát hành, nhằm mục đích cụ thể hóa những quan điểm, tiềm năng, chủ trương lớn, khâu nâng tầm và giải pháp hầu hết đã được đề ra, ngày 5/3/2020, nhà nước đã có Nghị quyết số 26 / NQ-CP phát hành Kế hoạch tổng thể và toàn diện và kế hoạch 5 năm tiến hành triển khai Nghị quyết số 36 – NQ / TW. Kế hoạch xác lập rõ những trách nhiệm trọng tâm, lộ trình triển khai và phân công cụ thể cho những bộ, ngành và địa phương có tương quan thực thi. Kế hoạch đã đề ra 6 nhóm nội dung, giải pháp đơn cử. Theo đó, nhóm kế hoạch về thiên nhiên và môi trường, ứng phó với thiên tai, biến hóa khí hậu và nước biển dâng cũng đã đưa ra những nội dung, giải pháp đơn cử cùng với hạng mục đề án, trách nhiệm theo lộ trình ( đến năm 2025 và tiến trình 2026 – 2030 ). Trong đó, quy trình tiến độ đến năm 2025 sẽ thực thi Đề án lan rộng ra, xây dựng mới những khu bảo tồn biển, khu bảo vệ nguồn lợi thủy hải sản, hồi sinh những hệ sinh thái biển đến năm 2025, để bảo vệ diện tích quy hoạnh những khu bảo tồn biển, ven biển đạt 3 % diện tích quy hoạnh những vùng biển Việt Nam .
Ngoài ra, Dự thảo Chiến lược vương quốc về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Bộ Tài nguyên và Môi trường kiến thiết xây dựng, đang trình Thủ tướng nhà nước cũng đưa ra quan điểm chỉ huy, tầm nhìn và tiềm năng đơn cử về bảo tồn đa dạng sinh học trong đó có đa dạng sinh học hệ sinh thái rạn san hô .
Theo đó, tầm nhìn đến năm 2050 đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái được coi trọng, bảo tồn, phục sinh, tăng trưởng và sử dụng hiệu suất cao tạo nền tảng tăng trưởng vững chắc kinh tế tài chính – xã hội và mang lại quyền lợi cho mọi người dân .
>> Môi trường biển có hệ sinh thái rạn san hô rất quan trọng, là cơ sở để giữ cho vùng biển giàu có về nguồn lợi hải sản, tạo ra quần thể sinh vật biển phong phú, được coi là ngôi nhà chung của các loài hải sản. Mất rạn san hô, sinh vật biển không còn nơi sinh sản, sinh sống từ đó dẫn đến hệ sinh thái mất đi. Phải mất rất lâu, trong môi trường tự nhiên san hô mới có thể phát triển lại bình thường vì mỗi năm chúng chỉ phát triển 1 – 2 cm. |