Bếp lửa là bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Bằng Việt, đã được đưa vào chương trình ngữ văn lớp 9. Sau đây hãy cùng Luật Minh Khuê nghiên cứu và phân tích bài thơ Bếp lửa nhé !
– Dẫn dắt đi vào yêu cầu của đề bài
1.2. Thân bài
Phân tích bài thơ ( theo mạch cảm hứng – bố cục tổng quan bài thơ )
a. 3 câu đầu: khơi nguồn dòng hồi tưởng cảm xúc:
– Hình ảnh bếp lửa được tưởng tượng trong trí nhớ của tác giả ( nghiên cứu và phân tích từ láy ” chờn vờn “, ” ấp iu ” )
– Từ hình ảnh bếp lửa liên tưởng tới ngời nhóm lửa-người bà ( nghiên cứu và phân tích hình ảnh ẩn dụ ” biết mấy nắng mưa ” )
b. Khổ thơ thứ 2: (năm câu tiếp theo): Kỷ niệm tuổi thơ, kỷ niệm buồn khó quên “Lên bốn tuổi…sống mũi còn cay”
– Nhớ lại quá khứ : nhớ những năm tháng cuộc chiến tranh chống Pháp khó khăn ( đói mòn đói mỏi, … khô rạc ngựa gầy )
– Hình ảnh cụ thể ám ảnh mãi đến giờ đây : mùi khói bếp ( đến giờ đây sống mũi còn cay )
c. Khổ 3: (11 câu: “Tám năm ròng…trên những cánh đồng xa”):
– Chi tiết tiếp theo hiện lên trong hồi ức của cháu : tiếng chim tu hú kêu trong ngày hè, là âm thanh của đồng quê .
– Tiếng chim tu hú vang vọng giúp tác giả lại nhớ về bà .
d. Đoạn tiếp theo: (10 câu: Năm giặc đốt làng… niềm tin dai dẳng): Những phẩm chất cao quý của bà:
– Vững lòng tin trước mọi tai ương thử thách ( ” Vẫn vững lòng … được bình an ” ) .
– Bếp lửa thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình thương .
=> ý chí, bản lĩnh sống của bà, của người phụ nữ Nước Ta .
đ. Đoạn thơ: “Lận đận đời bà…thiêng liêng – bếp lửa” (8 câu): những suy ngẫm về người bà kính yêu, về bếp lửa trong mỗi gia đình Việt Nam:
– Điệp từ ” nhóm ”
– Lời khẳng định chắc chắn ca tụng : ” Ôi kỳ diệu và thiêng liêng – bếp lửa ”
e. Bốn câu cuối:Tình thương nhớ,lòng kính yêu và biết ơn của đứa cháu nay đã đi xa.
1.3. Kết bài
– Ý nghĩa của bài thơ .
– Nét rực rỡ về thẩm mỹ và nghệ thuật .
2. Phân tích bài thơ Bếp lửa
Viết về người bà trong mái ấm gia đình, với tình thương và đức quyết tử cao quý, bài thơ ” Bếp lửa ” của Bằng Việt là một trong những bài thơ lắng sâu trong tâm hồn tuổi thơ mỗi tất cả chúng ta. Bài thơ đã cho thấy tình yêu quê nhà quốc gia chan hòa với bao kỷ niệm tuổi thơ vô cùng thiết tha về người bà kính yêu, người bà đôn hậu và tần tảo sớm khuya sáng bừng lên như một ngọn lửa thần kỳ và thiêng liêng .
Bài thơ mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi ấu thơ sống với bà, làm hiện lên hình ảnh bà chăm nom, lo toan khó khăn vất vả với tình thương yêu vô bờ dành cho cháu. Đứa cháu nay trưởng thành, từ nơi xa suy ngẫm, đồng cảm về bà. Cuối cùng người cháu gởi niềm thương nỗi nhớ về với bà. Vậy mạch xúc cảm của bài thơ là đi từ quá khứ đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm theo dòng hồi tưởng. Cảm hứng chủ yếu của bài thơ là tình cảm bà cháu, là nỗi nhớ, lòng kính yêu và biết ơn vô hạn của người cháu với bà mình cũng là với mái ấm gia đình và quê nhà quốc gia .
Hình ảnh tiên phong hiện lên trong trí nhớ của tác giả là hình ảnh bếp lửa ở một làng quê Nước Ta từ thời thơ ấu :
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
” Chờn vờn ” là từ láy tượng hình vừa giúp ta tưởng tượng làn sương sớm đang bay nhè nhẹ quanh bếp lửa vừa gợi cái mờ nhòa của hình ảnh ký ức theo thời hạn. Từ ” ấp iu ” là một phát minh sáng tạo mới lạ của nhà thơ. Đó không phải là từ láy, từ ghép đơn thuần mà là sự tích hợp và biến thể của hai từ ” ấp ủ ” và ” nâng niu “. ” Ấp iu ” gợi đến bàn tay kiên trì, khôn khéo và tấm lòng chi chút của người nhóm bếp. Từ hình ảnh bếp lửa liên tưởng tự nhiên đến người nhóm lửa, nhóm bếp – đến nỗi nhớ, tình thương với bà của đứa cháu đang ở xa :
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
” Biết mấy nắng mưa ” là một cách nói ẩn dụ gợi ra phần nào cuộc sống khó khăn vất vả lo toan của bà. Cả cuộc sống bà đã lo toan cho con, cho cháu, chịu biết bao khó khăn vất vả, nhọc nhằn .
Khổ thơ thứ hai nói về thời thơ ấu rất xa, đó là kỉ niệm buồn khó quên :
Lên bốn tuổi, cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn, đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ đây sống mũi còn cay !
Hình ảnh những năm tháng cuộc chiến tranh chống Pháp gian nan được hiện về qua thành ngữ ” đói mòn, đói mỏi ” – cái đói lê dài làm căng thẳng mệt mỏi, kiệt sức ( cuối năm 1944 đầu năm 1945, nạn đói kinh điển đã xảy ra, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói ). Hình ảnh con ngựa gầy rạc thì chắc người bố đánh xe cũng gầy khô … Nhưng ấn tượng sâu đậm nhất vẫn là mùi khói bếp : khói hun nhèm mắt cháu, khói nhiều cay khét. Đó là kỷ niệm về ” mùi khói “, về ” khói hun “, một cảnh đời bần hàn gắn liền với bếp lửa mái ấm gia đình trước cách mạng. Vần thơ là tiếng lòng thời thơ ấu gian nan, rất chân thực cảm động. ” Nghĩ lại đến giờ “, 19 năm đã trôi qua, mà đứa cháu vẫn cảm thấy ” sống mũi còn cay ! ” Kỷ niệm buồn, vết thương lòng, khó quên là vậy !
Đoạn thơ thứ ba gồm 11 câu, nhắc lại một vài kỷ niệm thâm thúy về bà trong suốt thời hạn ” Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa “. Hình ảnh, cụ thể tiếp theo chợt đến trong hồi ức của nhân vật trữ tình là tiếng chim tu hú :
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Chim tu hú kêu những ngày hè, tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng xa cứ khắc khoải kêu mãi, kêu hoài, trong hiện thực đã tha thiết, trong nỗi nhớ lại càng trở nên da diết hơn. Tiếng chim tu hú là âm thanh đồng quê thật tha thiết. Tiếng chim tu hú trở thành một mảnh tâm hồn tuổi thơ. Tiếng chim tu hú, những chuyện kể của bà về Huế thân yêu đã trở thành kỷ niệm :
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !
Tám năm ấy, quốc gia có cuộc chiến tranh ” Mẹ cùng cha bận công tác làm việc không về “, cháu ở cùng bà, cháu lớn lên trong tình thương và sự chăm nom nuôi dưỡng của bà :
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Hai câu thơ 16 chữ mà chữ bà, chữ cháu đã chiếm đúng 50%. Ngôn từ đã quy tụ tổng thể tình thương của bà dành cho cháu, gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thương, một tình thương ấp ủ, chở che. Hay nhất, hàm súc nhất là từ ngữ ” cháu ở cùng bà “, ” bà bảo “, ” bà dạy “, ” bà chăm ” đã diễn đạt một cách thâm thúy tấm lòng đôn hậu, tình thương bát ngát, sự chăm chút của bà so với cháu nhỏ. Trong nhiều mái ấm gia đình Nước Ta, do nhiều cảnh ngộ khác nhau, mà vai trò của người bà đã thay thế sửa chữa vai trò của người mẹ hiền .
Năm tháng đã trôi qua thế mà bà vẫn ” khó nhọc “, khó khăn vất vả ” nhóm bếp lửa “. Nghĩ về ngọn lửa hồng của bếp lửa, nghĩ về tiếng chim tu hú gọi bầy, đứa cháu gọi nhắn thiết tha chim tu hú ” kêu chi hoài “. Câu thơ cảm thán và câu hỏi tu từ diễn đạt nỗi thương nhớ bà bồi hồi tha thiết. Nhà thơ đắm chìm trong suy tưởng để trò chuyện với con chim quê nhà, trách nó không đến ở với bà để bà đỡ nhớ cháu, đỡ đơn độc tuổi già. Câu thơ thật tự nhiên, cảm động, chân thành :
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
Năm chữ ” nghĩ thương bà khó nhọc ” nói lên lòng biết ơn bà của đứa cháu đã và mang nặng trong trái tim mình tình thương của bà dành cho cháu .
Miên man theo dòng cảm hứng hồi tưởng, hình ảnh bà càng hiện lên rõ nét, đơn cử với những phẩm chất cao quý : Bình tĩnh, vững lòng, đinh ninh vượt qua mọi thử thách quyết liệt của cuộc chiến tranh, làm trọn trách nhiệm hậu phương để người đi xa công tác làm việc được yên lòng. Bà là chỗ dựa niềm tin vững chãi. Sống trong những năm cuộc chiến tranh, khi ” giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi ” được sự ” đỡ đần ” của bà con hàng xóm, hai bà cháu mới dựng lại được túp lều tranh, thế nhưng bà vẫn ” vững lòng ” trước mọi tai ương thử thách :
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh :
” Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên ! ”
Lời dặn trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố không chỉ giúp ta tưởng tượng giọng nói, lời nói, tình cảm và tâm lý của bà mà còn làm sáng lên phẩm chất của người bà, người mẹ Nước Ta yêu nước, đầy lòng quyết tử, kiên trì nhóm lửa, giữ lửa
Từ ” bếp lửa “, đứa cháu nghĩ về ” ngọn lửa “. Một hình tượng rất trang trọng. ” Bếp lửa bà nhen ” sớm sớm chiều chiều đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình thương ” luôn ủ sẵn “, ngọn lửa của niềm tin vô cùng ” dai dẳng ” bền chắc và bất diệt. Cùng với hình tượng ” ngọn lửa “, những từ ngữ chỉ thời hạn : ” rồi sớm rồi chiều “, những động từ : ” nhen, ủ sẵn, chứa ” ( chứa niềm tin dai dẳng ) đã chứng minh và khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Nước Ta giữa thời loạn lạc :
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Điệp ngữ ” một ngọn lửa ” và cấu trúc song hành đã làm cho giọng thơ vang lên can đảm và mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào .
Tám câu thơ tiếp theo là những suy ngẫm thâm thúy của nhà thơ, của đứa cháu về người bà yêu kính, về bếp lửa trong mỗi mái ấm gia đình Việt nam tất cả chúng ta. Cuộc đời bà nhiều ” lận đận “, trải qua nhiều ” nắng mưa ” khó khăn vất vả. Bà cần mẫn lo toan, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu trong mái ấm gia đình. Vần thơ tiềm ẩn bao nghĩa nặng tình sâu. Cháu vô cùng cảm phục và biết ơn bà :
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận giờ đây
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Bà không chỉ là người giữ bếp giữ lửa mà còn là người nhóm bếp, nhóm lửa :
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Điệp từ ” nhóm ” trong 4 câu thơ có điểm chung là cùng gắn với hành vi nhóm bếp. nhóm lửa của bà nhưng lại khác nhau ở những ý nghĩa đơn cử : khi thì nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh của sương sớm ; đến câu tiếp theo thì đã vừa nhóm bếp luộc khoai, luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng mà như còn đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình thương vô hạn của bà. Đến câu tiếp theo thì lòng bà còn lan rộng ra hơn cùng với nồi xôi gạo mới là tình cảm xóm làng đoàn kết, gắn bó, chia ngọt sẻ bùi và đến câu thứ tư thì trọn vẹn mang nghĩa trừu tượng : nhóm dậy tâm tình tuổi nhỏ. Tâm hồn và khát vọng tuổi thơ đã sáng bừng lên từ ngọn lửa do bà nhóm suốt mất chục năm trời .
Chính từ đó mà, theo mạch suy ngẫm, nhà thơ đi lên khái quát rất tự nhiên và hài hòa và hợp lý : ” Ôi kỳ diệu và thiêng liêng – bếp lửa “. Đúng vậy, vì bếp lửa thật đơn giản và giản dị, thông thường và thông dụng trong mọi mái ấm gia đình Nước Ta, nhưng bếp lửa cũng thật cao quý, kỳ diệu và thiêng liêng vì nó luôn gắn liền với bà – người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người tạo nên tuổi thơ của cháu. Bếp lửa trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không hề thiếu trong đời sống ý thức của cháu .
Bốn câu kết bộc lộ một cách đằm thắm tình thương nhớ, lòng kính yêu và biết ơn của đứa cháu nhỏ xíu nay đã đi xa :
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng khi nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?
Cuộc đời mới thật vui, thật đẹp vì đã ” có ngọn khói trăm tàu “, đã ” có ngọn lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả “, nhưng cháu vẫn không nguôi nhớ bà, nhớ bếp lửa mái ấm gia đình yêu quý. Không gian và thời hạn xa cách, và dù cuộc sống có thay đổi, nhưng tình thương nhớ bà vẫn thiết tha mãnh liệt. Trở về thời hiện tại, nhà thơ lại muốn hỏi bà, nhắc bà việc nhóm bếp để nói cái ý không khi nào quên quá khứ, không khi nào quên được hình ảnh bà với bếp lửa của một thời thơ ấu nghèo khó, nguy hiểm mà ấm cúng nghĩa tình. Như vậy, hình ảnh TT ( bếp lửa ) mở màn, khơi nguồn mạch xúc cảm của bài thơ, của dòng hồi tưởng đã được khép lại bằng chính hình ảnh ấy .
” Bếp lửa ” là một bài thơ hay và độc lạ. Bài thơ không chỉ nói về bà, về tình bà cháu mà còn có ý nghĩa triết lý thầm kín. Những gì là thân thiện nhất của tuổi thơ mỗi người đều có lúc tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt cả cuộc sống. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là một biểu lộ của tình yêu thương, gắn bó với mái ấm gia đình, quê nhà và đó cũng là khởi đầu của tình người, tình yêu nước. Lời thơ đẹp, chất thơ trong trẻo, tươi tắn. Hình tượng thơ : ” bếp lửa “, ” khói hun “, ” ngọn lửa “, ” tiếng chim tu hú ” bổ trợ phối hợp thật tự nhiên giữa kể và tả bằng dòng hồi tưởng và suy ngẫm rất thơ và đầy ấn tượng .
Trên đây là dàn ý và mẫu nghiên cứu và phân tích bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt. Xin chân thành cảm ơn bạn đọc đã theo dõi !