Theo Cục trưởng Cục Bảo vệ thiên nhiên và môi trường miền trung và Tây Nguyên ( Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường ) Phạm Hồng Sơn, những năm qua, khối lượng chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt phát sinh ngày càng tăng, đặc thù và thành phần phức tạp, trong đó thành phần chất thải nhựa cao. Trong tiến trình năm nay – 2021, lượng chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt phát sinh liên tục ngày càng tăng trên khoanh vùng phạm vi cả nước. Ước tính lượng chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt phát sinh ở những đô thị trên toàn nước tăng trung bình 10-16 % mỗi năm. Năm 2021, tổng khối lượng chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt phát sinh trên địa phận 45/63 tỉnh, thành phố là khoảng chừng 51.586 tấn / ngày ; trong đó khu vực đô thị phát sinh khoảng chừng 30.807 tấn / ngày và khu vực nông thôn khoảng chừng 20.778 tấn / ngày ; tỷ suất chất thải nhựa khoảng chừng 10-12 %. Đối với khu vực miền trung và Tây Nguyên, theo thống kê năm 2021, tổng lượng chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt trên địa phận phát sinh khoảng chừng 8.500 tấn / ngày. Riêng TP. Đà Nẵng, năm 2021, tổng lượng chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt trên địa phận thành phố phát sinh khoảng chừng 1.027 tấn / ngày. Tuy nhiên, rác thải hoạt động và sinh hoạt, đặc biệt quan trọng là rác thải hoạt động và sinh hoạt tại nông thôn hầu hết chưa được phân loại tại nguồn ; mới chỉ được triển khai tại 1 số ít địa phương và vẫn mang tính khuyến khích. Một số địa phương triển khai thử nghiệm phân loại tại nguồn với quy mô lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ ( riêng khu vực miền trung và Tây Nguyên mới chỉ có 4/14 tỉnh, thành phố gồm Thành Phố Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Tỉnh Bình Định và Quảng Nam đã từng thử nghiệm phân loại rác tại nguồn ). Rác thải hoạt động và sinh hoạt chưa được thu gom, xử lý hiệu suất cao ; vẫn còn 17 % lượng rác thải nông thôn chưa được thu gom và thải bỏ ra môi trường tự nhiên chung quanh. Chôn lấp vẫn là giải pháp được vận dụng phổ cập ; 70 % tổng lượng chất thải được xử lý bằng giải pháp chôn lấp, nhưng chỉ có khoảng chừng 20 % là bãi chôn lấp hợp vệ sinh, còn lại là những bãi chôn lấp không hợp vệ sinh hoặc những bãi tập kết chất thải cấp xã ; 16 % tổng lượng chất thải được xử lý tại những nhà máy sản xuất chế biến phân compost và khoảng chừng 13 % tổng lượng chất thải được xử lý bằng giải pháp đốt. Rác thải điện tử, chất thải nhựa sử dụng một lần, túi ni-lông chưa được thu gom, xử lý đúng cách ; Ước tính có gần ba triệu tấn rác thải nhựa phát sinh trong năm 2020, một lượng lớn trôi nổi trên sông, hồ, vùng đất ngập nước cửa sông, ven biển. Tại Thành Phố Hà Nội, theo số liệu của Viện Quy hoạch thiết kế xây dựng TP. Hà Nội, mỗi ngày TP. Hà Nội phát sinh gần 5.400 tấn chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt, trong đó khu vực những Q., thị xã là 3.200 tấn, còn lại trên địa phận những huyện. Tuy nhiên, năng lượng thu gom, luân chuyển chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt đến những khu xử lý tập trung chuyên sâu chỉ được gần 3.900 tấn ( chiếm 72 % ). Một số huyện như : Phúc Thọ, Quốc Oai, Ba Vì, Chương Mỹ …, việc thu gom và xử lý chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt mới thực thi ở những thị xã và một số ít xã lân cận, những xã xa TT chưa thu gom được rác thải về xử lý tập trung chuyên sâu. Lượng rác thải chôn lấp tại chỗ nằm rải rác tại những khu dân cư, gây ô nhiễm thiên nhiên và môi trường. Tại 18 huyện, vẫn còn khoảng chừng 304 điểm rác tồn dư, với tổng lượng rác thải lưu cữu ước 65.000 tấn. Thêm nữa, thực trạng vứt rác bừa bãi ra đường làng, ngõ xóm, ao hồ vẫn diễn ra hằng ngày. Ngay tại TT TP. Hà Nội, khi thử nghiệm thu rác bằng xe cơ giới, vẫn còn 10 % số hộ dân chưa cho rác vào túi kín ; vẫn còn hộ bỏ rác không đúng giờ, vứt ra hè khi xe thu gom đã đi qua.
Thực tế nêu trên đang tồn tại mâu thuẫn đáng lo ngại, đó là lượng rác thải ngày càng tăng, trong khi công nghệ, hạ tầng, quy mô thu gom và xử lý rác thì chưa đáp ứng được nhu cầu, trong khi hệ thống công trình hạ tầng đô thị chưa được phát triển đồng bộ; trình độ và năng lực quản lý chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của quá trình đô thị hóa, làm nảy sinh nhiều áp lực đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng, nhất là tại các bãi chôn lấp. Gần đây, Nhà nước đã ban hành bốn văn bản pháp luật gồm: Luật Bảo vệ môi trường năm 2020; Nghị định số 08/2022/NÐ-CP quy định một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020; Nghị định số 45/2022/NÐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT quy định thực hiện một số điều của Luật Bảo vệ môi trường. Theo ý kiến đánh giá của các chuyên gia bốn văn bản pháp luật nêu trên đề ra hai chính sách về “giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt từ hộ gia đình, cá nhân được tính dựa trên khối lượng hoặc thể tích rác thải sau khi đã phân loại; hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan, đơn vị thải dưới 300kg/ngày phải phân rác thành ba loại (hữu cơ, vô cơ và độc hại); sẽ xử phạt hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan, đơn vị không phân loại rác và không xử dụng bao bì chứa theo đúng quy định thì bị phạt từ 500 nghìn đến 1triệu đồng. Như vậy, hộ gia đình, cá nhân và cơ quan, đơn vị phải thực hiện ba việc, cụ thể gồm: Mua bao bì chứa rác theo quy định; phân loại rác tại nguồn và chuyển giao rác thải cho đơn vị dịch vụ.
Khảo sát sơ bộ cho thấy, mục tiêu đến năm 2024 khó thực hiện được việc phân loại rác tại nguồn, xử phạt vi phạm hành chính việc không phân loại rác và không sử dụng bao bì chứa rác đúng quy định. Nguyên do người dân chưa có nhận thức đầy đủ về thu gom phân loại rác tại nguồn. Từ đó sẽ phát sinh các hiện tượng đổ rác sang nhà khác, đổ ra đường giao thông, ao hồ, sông suối, nơi công cộng…; UBND cấp xã/phường thiếu nguồn lực để theo dõi, phát hiện, lập biên bản, xử phạt người vi phạm; Ðơn vị dịch vụ phải xây dựng nhiều điểm tập kết rác, có nhân lực cân rác, viết hóa đơn thu tiền theo khối lượng hoặc trọng lượng…
Ðể khắc phục những bất cập về cơ chế, chính sách trong công tác thu gom xử lý chất thải rắn sinh hoạt, rất cần được triển khai đồng bộ các giải pháp. Nhà nước và các địa phương cần thống nhất đầu mối huy động hiệu quả các đơn vị áp dụng những công nghệ xử lý tiên tiến tham gia đầu tư xây dựng các khu xử lý chất thải rắn quy mô lớn phục vụ chung cho các đô thị. Cần xác định lộ trình từ nay đến năm 2024 tổ chức thực hiện phân loại rác tại nguồn, thu tiền theo khối lượng hoặc trọng lượng rác và xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm không phân loại rác. Quy hoạch xây dựng các điểm thu gom rác hợp lý, thuận tiện và bảo đảm cảnh quan môi trường; phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân trong tuyên truyền vận động đoàn viên, hội viên và người dân nâng cao ý thức, trách nhiệm thực hiện thu gom, phân loại rác tại nguồn, góp phần bảo vệ môi trường.
Quá trình phát triển kinh tế, đô thị hóa diễn ra rất nhanh, khiến tỷ lệ lượng rác thải tăng 10-16%/năm, trong khi hạ tầng chưa theo kịp. Thí dụ, về khâu quy hoạch, khâu dự báo để quy hoạch, các khâu từ tập kết, đưa về các điểm trung chuyển ở đô thị không có mái che, mưa gió khiến rác rò rỉ ảnh hưởng đến nguồn nước ngầm, hoặc phát tán, gây ô nhiễm không khí.
Nguyễn Thượng Hiền
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường,
Bộ Tài nguyên và Môi trường