I. Cấu tạo và thành phần trứng gà
1. Màng nhầy
– Khi vừa đẻ ra trên bề mặt vỏ trứng có một lớp màng nhầy bảo vệ để tránh các vi khuẩn vào bên trong phá hoại và gây thối trứng. Nếu thấy vỏ trứng bóng là lớp màng nhầy này mất đi do trứng đã được để lâu.
– Độ dầy của màng nhầy khoảng 0,005 – 0,01 mm khi trứng bị dính phân ta không nên rửa trứng mà chỉ nên dùng giẻ mềm lau nhẹ.
2. Vỏ cứng
– Vỏ cứng được tạo thành bởi 93,5% muối canxi (Cacbonat canxi); 4,09% protein; 0,14% chất béo; 1,2% nước; 0,55% ôxit Mg; 0,25% photpho; 12% bioxit Si; 0,03% Na; 0,08% K và các Fe, Al.
– Chức năng của vỏ là bảo vệ các thành phần bên trong của trứng, đồng thời
– Trên bề mặt của vỏ có các lỗ khí kích thước rất nhỏ, người ta đã đếm được 7000 – 7600 lỗ khí trên bề mặt vỏ trứng, độ dày vỏ khoảng 0,2 – 0,4 mm.
3. Màng vỏ
– Có hai lớp màng vỏ được cấu tạo từ sợi Keratin đan chéo vào nhau. Một lớp dính sát vào vỏ còn lớp bên trong dính sát vào lớp lòng trắng ngoài. Độ dày của hai lớp màng này khoảng 0,057 – 0,069 mm, cả hai lớp đều có lỗ cho không khí đi vào bên trong giúp cho phôi hô hấp, phát triển.
– Hai lớp màng dính sát vào nhau chỉ tách ra ở đầu tù của trứng gọi là buồng khí nơi
4. Lòng trắng
– Lòng trắng chiếm 60% trọng lượng trứng, nước chiếm 85 – 89%, 9,7-11% là Protein, còn lại các chất
– Lớp lòng trắng trong cùng sát lòng đỏ là một lớp lòng trắng đặc, bên trong lớp này có sợi dây giữ hai đầu lòng đỏ bằng trục ngang gọi là dây chằng. Tác dụng của dây chằng giữ cho lòng đỏ khỏi bị ảnh hưởng do những tác động bên ngoài và giúp lòng đỏ khỏi dính vào vỏ.
5. Lòng đỏ
– Lòng đỏ là một tế bào khổng lồ được bao bọc bởi lớp màng mỏng có tính đàn hồi lớn, nhờ đó mà lòng đỏ không lẫn vào lòng trắng mà luôn giữ được hình tròn. Trứng để lâu tính đàn hồi mất dần đến lúc nào đó màng bị rách và lòng đỏ, lòng trắng tan dần vào nhau.
– Lòng đỏ có các lớp đậm nhạt khác nhau là nguồn
II. Chuẩn bị trứng ấp
1. Chọn trứng ấp:
a. Chọn trứng theo ngoại hình
– Chọn trứng chú ý loại bỏ các quả trứng quá to, quá nhỏ, quá mỏng, méo mó, xù xì, rạn dập không nên cho vào ấp, vì những trứng này không chỉ nở kém, mà chất lượng gà con thấp sẽ không thể làm giống được.
– Trứng quá dài, quá tròn cũng không nên cho vào ấp vì tỷ lệ lòng đỏ và lòng trắng không cân đối.
b. Chọn theo khối lượng trứng
Chọn những trứng có khối lượng đặc trưng cho từng giống- Khi vừa đẻ ra trên mặt phẳng vỏ trứng có một lớp màng nhầy bảo vệ để tránh những vi trùng vào bên trong phá hoại và gây thối trứng. Nếu thấy vỏ trứng bóng là lớp màng nhầy này mất đi do trứng đã được để lâu. – Độ dầy của màng nhầy khoảng chừng 0,005 – 0,01 mm khi trứng bị dính phân ta không nên rửa trứng mà chỉ nên dùng giẻ mềm lau nhẹ. – Vỏ cứng được tạo thành bởi 93,5 % muối canxi ( Cacbonat canxi ) ; 4,09 % protein ; 0,14 % chất béo ; 1,2 % nước ; 0,55 % ôxit Mg ; 0,25 % photpho ; 12 % bioxit Si ; 0,03 % Na ; 0,08 % K và những Fe, Al. – Chức năng của vỏ là bảo vệ những thành phần bên trong của trứng, đồng thời cung ứng chất can xi cho phôi để tạo xương. Để hình thành xương, phôi nhận 75 % can xi từ vỏ, còn lại 25 % lấy từ lòng trắng. – Trên mặt phẳng của vỏ có những lỗ khí size rất nhỏ, người ta đã đếm được 7000 – 7600 lỗ khí trên mặt phẳng vỏ trứng, độ dày vỏ khoảng chừng 0,2 – 0,4 mm. – Có hai lớp màng vỏ được cấu trúc từ sợi Keratin đan chéo vào nhau. Một lớp dính sát vào vỏ còn lớp bên trong dính sát vào lớp lòng trắng ngoài. Độ dày của hai lớp màng này khoảng chừng 0,057 – 0,069 mm, cả hai lớp đều có lỗ cho không khí đi vào bên trong giúp cho phôi hô hấp, tăng trưởng. – Hai lớp màng dính sát vào nhau chỉ tách ra ở đầu tù của trứng gọi là buồng khí nơi phân phối ôxy cho phôi. – Lòng trắng chiếm 60 % khối lượng trứng, nước chiếm 85 – 89 %, 9,7 – 11 % là Protein, còn lại những chất dinh dưỡng như đường, Vitamin B2 phân phối cho nhu yếu tăng trưởng phôi. Nếu Vitamin B2 bị thiếu, phôi thai sẽ chết vào tuần thứ 2 của quy trình tiến độ ấp. – Lớp lòng trắng trong cùng sát lòng đỏ là một lớp lòng trắng đặc, bên trong lớp này có sợi dây giữ hai đầu lòng đỏ bằng trục ngang gọi là dây chằng. Tác dụng của dây chằng giữ cho lòng đỏ khỏi bị tác động ảnh hưởng do những tác động ảnh hưởng bên ngoài và giúp lòng đỏ khỏi dính vào vỏ. – Lòng đỏ là một tế bào khổng lồ được bảo phủ bởi lớp màng mỏng dính có tính đàn hồi lớn, nhờ đó mà lòng đỏ không lẫn vào lòng trắng mà luôn giữ được hình tròn trụ. Trứng để lâu tính đàn hồi mất dần đến khi nào đó màng bị rách nát và lòng đỏ, lòng trắng tan dần vào nhau. – Lòng đỏ có những lớp đậm nhạt khác nhau là nguồn dinh dưỡng dồi dào cung ứng cho phôi, ngoài những tế bào trứng còn có một mầm sống, mầm này gắn chặt vào lòng đỏ tạo thành đĩa phôi. Đĩa phôi có tỷ trọng nhỏ hơn cực thực vật nên luôn có xu thế nổi lên phía trên, chính vì vậy nếu trứng không được hòn đảo trong thời hạn ấp, phôi sẽ bị dính vào vỏ không sử dụng được những chất dinh dưỡng rồi chết. – Chọn trứng quan tâm vô hiệu những quả trứng quá to, quá nhỏ, quá mỏng dính, méo mó, xù xì, rạn dập không nên cho vào ấp, vì những trứng này không chỉ nở kém, mà chất lượng gà con thấp sẽ không hề làm giống được. – Trứng quá dài, quá tròn cũng không nên cho vào ấp vì tỷ suất lòng đỏ và lòng trắng không cân đối. Chọn những trứng có khối lượng đặc trưng cho từng giống
Giống gà |
Trọng lượng trứng |
Gà Nòi |
40 – 50 g |
Gà nòi chân vàng |
38 – 45 g |
c. Chọn trứng bằng đèn soi
Sau khi kiểm tra ngoại hình để chọn loại bớt trứng không đủ tiêu chuẩn ấp cần soi đèn kiểm tra để phát hiện và loại bỏ những trứng sau đây:
– Trứng rạn dập, vì trong quá trình ấp chỗ rạn nứt sẽ tạo khe hở để vi khuẩn xâm nhập vào bên trong gây thối, đồng thời tỷ lệ mất nước loại trứng này lớn, sẽ dẫn đến tỷ lệ phôi chết cao.
– Trứng có lòng đỏ không nằm ở vị trí giữa, có dị vật, cục máu bên trong.
– Trứng có buồng khí nằm không đúng vị trí (buồng khí không ở đầu to, buồng khí di động hoặc rung động đều), kích thước buồng khí quá lớn.
2. Bảo quản trứng ấp
Trứng trước khi đưa vào bảo quản phải được phân loại, chỉ chọn những trứng đạt tiêu chuẩn ấp mới đưa vào bảo quản. Phòng bảo quản phải tối, không có ánh sáng lọt vào. Đồng thời bảo quản trứng phải đảm bảo các yêu cầu sau:
a. Xếp trứng:
– Trứng cho vào khay chuyên dụng, xếp khay nghiêng góc 300, đầu to (đầu buồng khí) hướng lên trên. Đảo trứng 1 lần/ngày (đảo ngược lại 1800).
– Chọn trứng cùng cở để cùng 1 khay.
– Khay trứng đưa vào bảo quản phải được ghi ngày thu trứng.
b. Nhiệt độ:
– 0C, có thể bảo quản trứng được 7 – 14 ngày. Trong trường hợp bảo quản trứng dưới 3 ngày có thể bảo quản trứng trong điều kiện nhiệt độ phòng.
c. Ẩm độ: Ẩm độ thích hợp để bảo quản trứng là 75% RH.
* Ghi chú: Trứng đưa khỏi phòng bảo quản phải được làm ấm trở lại bằng cách xếp lên giá ở phòng ấp 6-10 giờ trước khi đưa trứng vào máy ấp, nhằm tránh stress do nhiệt độ chênh lệch.
3. Xử lý trứng ấp
Trước khi đưa trứng vào ấp phải xông khử trùng bằng formon, 3), H2S tăng gây ngộ độc cho hàng loạt trứng trong máy ấp.
a. Phương pháp xông trứng
Cho trứng vào khay, xếp vào một khoang kín có cánh cửa hoặc xông vào tủ ấp, 1m3 buồng xông cần 17,5g
b. Xếp trứng vào khay
– Xếp trứng thẳng đứng trong khay, đầu to là đầu có buồng khí được xếp quay lên trên.
– Đối với máy ấp đa kỳ khây trứng ấp trước để phía trên, khây ấp sau để phía dưới.
III. Kỹ thuật ấp trứng
1. Thời gian ấp:
Khi trứng bắt đầu đưa vào ấp đến ngày thứ 21 nở ra gà con. Trứng to nở trễ, trứng nhỏ nở sớm, thời gian nở chênh lệch 5-10 giờ.
2. Chuẩn bị máy ấp, máy nở và xếp trứng vào máy.
– Máy ấp và máy nở phải được
– Đối với máy ấp:
+ Bật máy trước 2 – 4 h để máy đạt nhiệt độ yêu cầu sau đó mới xếp trứng vào ấp.
+ Có thể đưa trứng vào máy trước khi xông khử trùng (phương pháp này vừa xong trứng vừa khử trùng máy ấp nhưng chỉ áp dụng cho máy ấp đơn kỳ). Sau đó bật máy ấp, nhưng thời gian ấp phải được tính từ khi máy đạt nhiệt độ yêu cầu.
– Đối với máy nở: Bật máy trước khi chuyển trứng từ 4 – 5h (đủ nhiệt độ).
– Sau khi gà nở, lấy gà ra khỏi máy thì tiến hành
– Khay trứng đưa vào ấp phải được ghi ngày thu trứng.
3. Các yêu cầu kỹ thuật
a. Nhiệt độ ấp:
– Đối với máy ấp đơn kỳ:Sau khi kiểm tra ngoại hình để chọn loại bớt trứng không đủ tiêu chuẩn ấp cần soi đèn kiểm tra để phát hiện và vô hiệu những trứng sau đây : – Trứng rạn dập, vì trong quy trình ấp chỗ rạn nứt sẽ tạo khe hở để vi trùng xâm nhập vào bên trong gây thối, đồng thời tỷ suất mất nước loại trứng này lớn, sẽ dẫn đến tỷ suất phôi chết cao. – Trứng có lòng đỏ không nằm ở vị trí giữa, có dị vật, cục máu bên trong. – Trứng có buồng khí nằm không đúng vị trí ( buồng khí không ở đầu to, buồng khí di động hoặc rung động đều ), size buồng khí quá lớn. Trứng trước khi đưa vào dữ gìn và bảo vệ phải được phân loại, chỉ chọn những trứng đạt tiêu chuẩn ấp mới đưa vào dữ gìn và bảo vệ. Phòng dữ gìn và bảo vệ phải tối, không có ánh sáng lọt vào. Đồng thời dữ gìn và bảo vệ trứng phải bảo vệ những nhu yếu sau : – Trứng cho vào khay chuyên được dùng, xếp khay nghiêng góc 30, đầu to ( đầu buồng khí ) hướng lên trên. Đảo trứng 1 lần / ngày ( đảo ngược lại 180 ). – Chọn trứng cùng cở để cùng 1 khay. – Khay trứng đưa vào dữ gìn và bảo vệ phải được ghi ngày thu trứng. Nhiệt độ dữ gìn và bảo vệ trứng ấp tốt nhất là 15 – 20C, hoàn toàn có thể dữ gìn và bảo vệ trứng được 7 – 14 ngày. Trong trường hợp dữ gìn và bảo vệ trứng dưới 3 ngày hoàn toàn có thể dữ gìn và bảo vệ trứng trong điều kiện kèm theo nhiệt độ phòng. Ẩm độ thích hợp để dữ gìn và bảo vệ trứng là 75 % RH. : Trứng đưa khỏi phòng dữ gìn và bảo vệ phải được làm ấm trở lại bằng cách xếp lên giá ở phòng ấp 6-10 giờ trước khi đưa trứng vào máy ấp, nhằm mục đích tránh stress do nhiệt độ chênh lệch. Trước khi đưa trứng vào ấp phải xông khử trùng bằng formon, thuốc tím diệt vi trùng, nếu trứng không được xông, vi trùng lưu giữ trên vỏ trứng và trong máy sẽ có điều kiện kèm theo xâm nhập vào trứng gây chết phôi, tỷ suất trứng bị thối tăng, độc tố lây lan sang trứng khác, lượng Amoniac ( NH ), HS tăng gây ngộ độc cho hàng loạt trứng trong máy ấp. Cho trứng vào khay, xếp vào một khoang kín có cánh cửa hoặc xông vào tủ ấp, 1 mbuồng xông cần 17,5 g thuốc tím đổ vào một khay nhỏ có đường kính 30 cm, sau đó đong 35 ml formon và 35 ml nước đổ vào khay đã có thuốc tím, đóng cửa 30 phút rồi từ từ mở cửa ra. – Xếp trứng thẳng đứng trong khay, đầu to là đầu có buồng khí được xếp quay lên trên. – Đối với máy ấp đa kỳ khây trứng ấp trước để phía trên, khây ấp sau để phía dưới. Khi trứng khởi đầu đưa vào ấp đến ngày thứ 21 nở ra gà con. Trứng to nở trễ, trứng nhỏ nở sớm, thời hạn nở chênh lệch 5-10 giờ. – Máy ấp và máy nở phải được vệ sinh trước ( dùng Benkocid lau những khung máy và lau khô ), sau đó xông khử trùng ( dùng thuốc tím và formol giống như phần chiêu thức xông trứng, sau đó Open cho khí formol bay hết ). – Đối với máy ấp : + Bật máy trước 2 – 4 h để máy đạt nhiệt độ nhu yếu sau đó mới xếp trứng vào ấp. + Có thể đưa trứng vào máy trước khi xông khử trùng ( chiêu thức này vừa xong trứng vừa khử trùng máy ấp nhưng chỉ vận dụng cho máy ấp đơn kỳ ). Sau đó bật máy ấp, nhưng thời hạn ấp phải được tính từ khi máy đạt nhiệt độ nhu yếu. – Đối với máy nở : Bật máy trước khi chuyển trứng từ 4 – 5 h ( đủ nhiệt độ ). – Sau khi gà nở, lấy gà ra khỏi máy thì triển khai vệ sinh, xông khử trùng như trên sẵn sàng chuẩn bị cho đợt ấp tiếp theo. – Khay trứng đưa vào ấp phải được ghi ngày thu trứng. – Đối với máy ấp đơn kỳ :
Ngày ấp |
Nhiệt độ máy |
1 – 7 ngày |
37,8 oC |
8 – 18 ngày |
37,6 oC |
19 – 21 ngày |
37,2 oC |
– Đối với máy ấp đa kỳ : Trong máy có nhiều lô trứng được đưa vào với thời hạn khác nhau. Vì vậy phải sử dụng chính sách nhiệt mà tổng thể những lô trứng đều hoàn toàn có thể đồng ý được và cần phải có máy nở riêng. Nhiệt độ được kiểm soát và điều chỉnh như sau :
Lô trứng đầu tiên: từ 1-15 ngày |
37,8 oC |
Sau đó cố định nhiệt độ máy ấp |
37,6 oC |
Lô trứng nào ấp được 18 ngày thì chuyển sang máy nở (từ 19-21 ngày) |
37,2oC |
– Gà bắt đầu nở: giảm nhiệt độ xuống ở 35oC.
b. Độ ẩm:
– Những ngày đầu tiên nhiệt độ ấp cao nên độ ẩm phải cao để giảm bớt sự bốc hơi nước trong trứng.
– Vào vài ngày cuối của thời kỳ ấp, sự trao đổi chất của phôi mạnh nhất, nhiệt độ của trứng tăng lên cao nhất nên nhiệt độ của lò ấp phải giảm, đồng thời ẩm độ của lò phải tăng (phun nước ấm lên trứng) để vừa hạ nhiệt trứng vừa tránh gà nở bị sát vỏ và chết ngạt.
– Ẩm độ thích hợp cho ấp trứng cụ thể như sau:
+ Đối với máy ấp đơn kỳ:
Ngày ấp |
ẩm độ |
1 – 5 ngày |
60 – 61% |
6 – 11 ngày |
55 – 57% |
12 – 18 ngày |
50 – 53% |
19 ngày |
60% |
20 – 21 ngày |
70 – 75% |
+ Đối với máy ấp đa kỳ :
Máy ấp |
Lô trứng đầu tiên: từ 1-7 ngày |
58-60% |
Sau đó ổn định ẩm độ máy |
55-57% |
Máy nở |
19 ngày |
60% |
21 ngày |
70 – 75% |
+ Trước khi ra gà, chú ý cắt ẩm độ trước 6 giờ
* Ghi chú:
– Trong những ngày nóng cần hạ nhiệt độ phòng ấp bằng cách mở cửa, phun nước ấm (35-36oC) làm mát phòng ấp.
– Nếu trong quá trình ấp, độ ẩm quá cao gà con nở ra sẽ nặng bụng, bên trong vỏ dính đầy chất nhớt. Nếu độ ẩm thiếu lông gà sẽ dính vỏ trứng và không thể đạp ra khỏi cơ thể dẫn đến chết trong vỏ, nếu gà nở lông sẽ không bông, khối lượng thấp, có khi có tật ở chân, mỏ và cổ. Ẩm độ thích hợp gà nở có khối lượng đạt 60-61% so với khối lượng trứng.
– Ngoài ra cần tham khảo các vấn đề có thể xảy ra trong ấp trứng (phụ lục 1).
4. Các thao tác kỹ thuật
a. Đảo trứng:
* Mục đích của việc đảo trứng:
– Tránh cho phôi khỏi dính vào vỏ, làm cho quá trình trao đổi chất được cải thiện đồng thời có tác dụng làm cho phôi phát triển tốt nhất, đặc biệt quan tâm ở giai đoạn đầu và giai đoạn giữa. Đảo trứng cũng là cách để điều hòa nhiệt độ, ẩm độ và không khí tại mọi vị trí của trứng.
– Nếu 6 ngày đầu không đảo phôi dính vào vỏ không phát triển và chết.
– Sau 13 ngày không đảo túi niệu không khép kín, lượng abumin không vào được bên trong túi niệu dẫn đến tỷ lệ chết phôi cao, gà mổ vỏ sẽ không đúng vị trí, phôi bị dị hình ở phần mắt, mỏ, đầu.
* Phương pháp đảo trứng:
– Trứng được đảo một góc 900 và đảo 2 giờ/lần.
– Ngưng đảo trứng từ ngày thứ 18 sau khi ấp trứng.
b. Soi trứng:
* Mục đích soi trứng:
Kiểm tra loại bỏ những quả trứng trắng, trứng chết phôi để tiết kiệm diện tích máy, đồng thời tránh ô nhiễm và xác định thời điểm phôi chết để có biện pháp cải thiện chế độ ấp hoặc chất lượng trứng giống tránh thiệt hại không cần thiết.
* Dụng cụ soi trứng:
Bóng đèn 60W, đặt trong một hộp gỗ, hộp carton kín (có lót gấy bạc), riêng mặt trước khoét một lỗ hình tròn đủ để ánh sánh phát ra trùm kín trứng.
* Phương pháp chọn và loại trứng khi soi:
Trong quá trình ấp cần soi trứng 3 lần vào các thời điểm ấp như sau:
– Lần 1: lúc 6 ngày để biết được trứng có phôi (có các mạch máu bên trong trứng tỏa ra ngoài từ một đốm nhỏ đen gọi là phôi, phôi di chuyển bên trong trứng), loại bỏ trứng không phôi và chết phôi qua các đặc điểm sau:
+ Trứng trong suốt, xoay trứng thấy lòng đỏ và lòng trắng lẫn lộn.
+ Phôi nhẹ nằm lên sát mặt vỏ trứng, nhìn rõ tâm phôi.
+ Hệ thống mạch máu phát triển yếu, mờ nhạt
+ Đôi khi buồng khí khá lớn
+ Trứng bị chết phôi, khi xoay trứng phôi di động nhanh, có vết đen nằm sát buồng khí, mạch máu sẫm, vòng máu chạy ngang.
– Lần 2: lúc 11 ngày, phôi sống giống như lúc 6 ngày tuổi tuy nhiên phôi lớn hơn nhiều và di chuyển bên trong trứng với động tác mạnh mẻ hơn, loại tiếp những trứng chết phôi qua các đặc điểm sau:
+ Phôi không chuyển động.
+ Trứng có màu nâu sẫm, do mạch máu bị vỡ, máu đen.
+ Sờ vỏ trứng lạnh.
– Lần 3: lúc 18 ngày loại bỏ những trứng chết phôi và trứng thối qua các đặc điểm sau:
+ Khi soi trứng có màu sáng hơn (trứng không phôi, trứng chết phôi sớm)
+ Các trứng vỏ rạn nứt, vỏ sùi bọt nâu hoặc có màu đen (trứng thối)
– Những điểm cần lưu ý:
+ Lấy khay trứng ra khỏi máy đưa vào phòng kiểm tra (phòng phải tối và kín gió)
+ Đặt khay trứng vào phía bên phải đèn soi, bên trái đặt khay không
+ Loại bỏ trứng chết phôi, trứng dập vào khay không. Soi hết khay trứng, kiểm tra đếm số trứng chết phôi và xếp lại khay trứng có phôi đưa vào máy ấp.
+ Soi trứng phải nhanh, hạn chế trứng bị mất nhiệt, phòng soi trứng phải ấm.
+ Khi soi trứng lúc 6 ngày, khi soi phải xoay quả trứng mới thấy phôi.
+ Khi soi trứng lúc 11 ngày phải soi đầu nhọn của trứng, cần chú ý xem màng niệu nang đã khép kín chưa.
+ Khi soi trứng cần tham khảo quá trình phát triển của phôi (phụ lục 2)
c. Chuyển trứng sang máy nở
– Đối với máy ấp đơn kỳ: Sau khi ấp khoảng 21 ngày trứng bắt đầu khẩy mỏ, khi có khoảng 10% trứng đã khẩy mỏ thì chuyển trứng sang máy nở.
– Đối với máy ấp đa kỳ: Khi trứng đã ấp được 18 ngày, thì chuyển trứng sang máy nở.
d. Lấy gà ra khỏi máy
– Trước khi lấy gà ra khỏi máy cần tắt công tắc cho bộ phận tạo độ ẩm ngừng hoạt động.
– Lần lượt rút khay gà ra khỏi máy, đặt lên bàn rồi tiến hành
– Nhặt trứng không nở ra khay.
– Khi đã đưa hết gà ra khỏi máy thì tắt máy để thu gọn
* Ghi chú: Gà con nở ra để lâu trong máy không cho ăn uống được sẽ khô chân khó nuôi. Do đó ta phải đưa gà con ra khỏi máy ấp sang ô úm trước 6 giờ.
IV. Chọn gà giống
* Chọn gà phải chọn loại cẩn thận dựa vào các tiêu chuẩn sau:
– Chân đứng vững, nhanh nhẹn, ngón chân thẳng
– Mắt tròn, sáng
– Lông bông, khô và sạch, có màu đặc trưng của giống
– Mỏ lành, đều, không lệch, vẹo
– Rốn khô và khép kín, không bị viêm
– Bụng thon, mềm.
* Loại những con: Loại bỏ những con gà có khuyết tật, bết lông, mỏ vẹt, nằm bệt nặng bụng, hở rốn, mắt mù.
V. Chăm sóc gà chờ cung ứng
Trong thời gian khoảng 1-7 ngày tuổi chờ cung ứng gà cần được chăm sóc như sau:
– Úm gà con ở nhiệt độ từ 31-330C, úm cả ngày lẫn đêm, mật độ úm từ 75-85 con/m2, nền chuồng úm phải được lót trấu khoảng 10 cm.
– Cấp
+ Nước uống: Sử dụng nước sạch, đặt máng uống ở nhiều vị trí để gà tiếp cận nguồn nước tốt.
+ Cho ăn 6 lần/ngày, rải
+ Gà bắt đầu nở tăng ẩm độ tối đa (bằng cách phun nước ấm)+ Trước khi ra gà, chú ý cắt ẩm độ trước 6 giờ* Ghi chú:- Trong những ngày nóng cần hạ nhiệt độ phòng ấp bằng cách mở cửa, phun nước ấm (35-36C) làm mát phòng ấp.- Nếu trong quá trình ấp, độ ẩm quá cao gà con nở ra sẽ nặng bụng, bên trong vỏ dính đầy chất nhớt. Nếu độ ẩm thiếu lông gà sẽ dính vỏ trứng và không thể đạp ra khỏi cơ thể dẫn đến chết trong vỏ, nếu gà nở lông sẽ không bông, khối lượng thấp, có khi có tật ở chân, mỏ và cổ. Ẩm độ thích hợp gà nở có khối lượng đạt 60-61% so với khối lượng trứng.- Ngoài ra cần tham khảo các vấn đề có thể xảy ra trong ấp trứng (phụ lục 1).- Tránh cho phôi khỏi dính vào vỏ, làm cho quá trình trao đổi chất được cải thiện đồng thời có tác dụng làm cho phôi phát triển tốt nhất, đặc biệt quan tâm ở giai đoạn đầu và giai đoạn giữa. Đảo trứng cũng là cách để điều hòa nhiệt độ, ẩm độ và không khí tại mọi vị trí của trứng.- Nếu 6 ngày đầu không đảo phôi dính vào vỏ không phát triển và chết.- Sau 13 ngày không đảo túi niệu không khép kín, lượng abumin không vào được bên trong túi niệu dẫn đến tỷ lệ chết phôi cao, gà mổ vỏ sẽ không đúng vị trí, phôi bị dị hình ở phần mắt, mỏ, đầu.- Trứng được đảo một góc 90và đảo 2 giờ/lần.- Ngưng đảo trứng từ ngày thứ 18 sau khi ấp trứng.Kiểm tra loại bỏ những quả trứng trắng, trứng chết phôi để tiết kiệm diện tích máy, đồng thời tránh ô nhiễm và xác định thời điểm phôi chết để có biện pháp cải thiện chế độ ấp hoặc chất lượng trứng giống tránh thiệt hại không cần thiết.Bóng đèn 60W, đặt trong một hộp gỗ, hộp carton kín (có lót gấy bạc), riêng mặt trước khoét một lỗ hình tròn đủ để ánh sánh phát ra trùm kín trứng.Trong quá trình ấp cần soi trứng 3 lần vào các thời điểm ấp như sau:- Lần 1: lúc 6 ngày để biết được trứng có phôi (có các mạch máu bên trong trứng tỏa ra ngoài từ một đốm nhỏ đen gọi là phôi, phôi di chuyển bên trong trứng), loại bỏ trứng không phôi và chết phôi qua các đặc điểm sau:+ Trứng trong suốt, xoay trứng thấy lòng đỏ và lòng trắng lẫn lộn.+ Phôi nhẹ nằm lên sát mặt vỏ trứng, nhìn rõ tâm phôi.+ Hệ thống mạch máu phát triển yếu, mờ nhạt+ Đôi khi buồng khí khá lớn+ Trứng bị chết phôi, khi xoay trứng phôi di động nhanh, có vết đen nằm sát buồng khí, mạch máu sẫm, vòng máu chạy ngang.- Lần 2: lúc 11 ngày, phôi sống giống như lúc 6 ngày tuổi tuy nhiên phôi lớn hơn nhiều và di chuyển bên trong trứng với động tác mạnh mẻ hơn, loại tiếp những trứng chết phôi qua các đặc điểm sau:+ Phôi không chuyển động.+ Trứng có màu nâu sẫm, do mạch máu bị vỡ, máu đen.+ Sờ vỏ trứng lạnh.- Lần 3: lúc 18 ngày loại bỏ những trứng chết phôi và trứng thối qua các đặc điểm sau:+ Khi soi trứng có màu sáng hơn (trứng không phôi, trứng chết phôi sớm)+ Các trứng vỏ rạn nứt, vỏ sùi bọt nâu hoặc có màu đen (trứng thối)- Những điểm cần lưu ý:+ Lấy khay trứng ra khỏi máy đưa vào phòng kiểm tra (phòng phải tối và kín gió)+ Đặt khay trứng vào phía bên phải đèn soi, bên trái đặt khay không+ Loại bỏ trứng chết phôi, trứng dập vào khay không. Soi hết khay trứng, kiểm tra đếm số trứng chết phôi và xếp lại khay trứng có phôi đưa vào máy ấp.+ Soi trứng phải nhanh, hạn chế trứng bị mất nhiệt, phòng soi trứng phải ấm.+ Khi soi trứng lúc 6 ngày, khi soi phải xoay quả trứng mới thấy phôi.+ Khi soi trứng lúc 11 ngày phải soi đầu nhọn của trứng, cần chú ý xem màng niệu nang đã khép kín chưa.+ Khi soi trứng cần tham khảo quá trình phát triển của phôi (phụ lục 2)- Đối với máy ấp đơn kỳ: Sau khi ấp khoảng 21 ngày trứng bắt đầu khẩy mỏ, khi có khoảng 10% trứng đã khẩy mỏ thì chuyển trứng sang máy nở.- Đối với máy ấp đa kỳ: Khi trứng đã ấp được 18 ngày, thì chuyển trứng sang máy nở.- Trước khi lấy gà ra khỏi máy cần tắt công tắc cho bộ phận tạo độ ẩm ngừng hoạt động.- Lần lượt rút khay gà ra khỏi máy, đặt lên bàn rồi tiến hành chọn gà – Nhặt trứng không nở ra khay.- Khi đã đưa hết gà ra khỏi máy thì tắt máy để thu gọn vệ sinh, cọ rửa và xông khử trùng.: Gà con nở ra để lâu trong máy không cho ăn uống được sẽ khô chân khó nuôi. Do đó ta phải đưa gà con ra khỏi máy ấp sang ô úm trước 6 giờ.* Chọn gà phải chọn loại cẩn thận dựa vào các tiêu chuẩn sau:- Chân đứng vững, nhanh nhẹn, ngón chân thẳng- Mắt tròn, sáng- Lông bông, khô và sạch, có màu đặc trưng của giống- Mỏ lành, đều, không lệch, vẹo- Rốn khô và khép kín, không bị viêm- Bụng thon, mềm.* Loại những con: Loại bỏ những con gà có khuyết tật, bết lông, mỏ vẹt, nằm bệt nặng bụng, hở rốn, mắt mù.Trong thời gian khoảng 1-7 ngày tuổi chờ cung ứng gà cần được chăm sóc như sau:- Úm gà con ở nhiệt độ từ 31-33C, úm cả ngày lẫn đêm, mật độ úm từ 75-85 con/m, nền chuồng úm phải được lót trấu khoảng 10 cm.- Cấp thức ăn và nước uống:+ Nước uống: Sử dụng nước sạch, đặt máng uống ở nhiều vị trí để gà tiếp cận nguồn nước tốt.+ Cho ăn 6 lần/ngày, rải thức ăn đều lên giấy báo đã được trải trên nền chuồng úm.
Tuổi gà con |
Cấp thức ăn |
Cấp nước uống |
Sau khi nở -24h |
Không cho ăn |
Nước pha 2g Nova C-Complex và 50g
gluco cho 1 lít nước, pha vừa đủ uống
trong 4h phải thay nước pha mới. |
2-3 ngày |
Cho ăn bắp xây hay tấm mịn
5gr/con/ngày và |
4-7 ngày |
Cho ăn cám hỗn hợp
10gr/con/ngày |
Nước sạch |
Vaccin |
Kháng sinh |
Ngày
tuổi |
Loại |
Cách dùng |
Ngày tuổi |
phòng bệnh |
Kháng sinh |
1 ngày |
Marek |
Tiêm dưới da (phần da lỏng sau cổ gà) |
Từ 2-4 ngày |
Lỵ, CRD, Ecoli |
Nova Enro
10% (1ml/2 lít
nước) |
3 ngày |
New +IB |
Nhỏ mắt mũi |
7 ngày |
Gum |
Cho uống |
– Nếu gà bị hở rốn thì dùng Iodine sát trung rốn cho gà.
* Ghi chú: Khi gà con từ 2 -3 ngày tuổi phải phân chia giờ cho uống nước pha Nova C-Complex + gluco riêng, giờ cho uống kháng sinh phòng bệnh riêng và tính liều lượng hợp lý.
TRUNG TÂM GIỐNG NLNN KG
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Các vấn đề có thể xảy ra trong ấp trứng
Các triệu chứng |
Nguyên nhân có thể |
Trứng soi rõ ràng
Không có vòng máu hoặc sự phát triển phôi thai. |
– Trứng không có trống.
– Đàn bố mẹ thiếu dinh dưỡng.
– Trứng được lưu trữ dưới 4,50C hoặc đã quá cũ trước khi ấp. |
Trứng soi rõ ràng
Nhưng máu hoặc phôi rất nhỏ |
– Máy ấp nhiệt độ quá cao.
– Trứng được lưu trữ dưới 4,50C hoặc trên 260C trước khi ấp. |
Chết phôi
Trước thời gian nở . |
– Trứng không được đảo ít nhất 3 lần một ngày
– Thiếu thông gió.
– Máy ấp nhiệt độ đặt quá cao hoặc quá thấp.
– Gà mẹ ăn không đủ khẩu phần. |
Trứng khẩy mỏ nhưng không nở
– Gà con chết trong vỏ.
– Vỏ gắn với gà con (bị sát). |
– Độ ẩm trung bình thấp.
– Nhiệt độ trung bình thấp.
– Độ ẩm thấp tại thời điểm nở.
– Nhiệt độ cao quá mức trong khoảng thời gian ngắn. |
Nở quá sớm và rốn đẫm máu. |
Nhiệt độ quá cao. |
Trì hoãn nở (thời gian ấp kéo dài)
Trứng không khẩy mỏ cho đến ngày 21 hoặc sau đó. |
Nhiệt độ quá thấp. |
Nở kéo dài (thời gian nở kéo dài)
Một số gà con khẩy mỏ sớm, nhưng nở hoàn thiện kéo dài. |
Nhiệt độ quá cao. |
Gà con bị què |
– Bất thường trong phát triển.
– Gà mái thiếu dinh dưỡng.
– Máy ấp nhiệt độ quá cao. |
Phụ lục 2: Quá trình phát triển của phôi:
– Ngày đầu:
+ 06 giờ sau khi ấp: Phôi dài 5 mm, hình thành nếp thần kinh trên dây sống nguyên thủy.
+ 24 giờ tạo thành ống thần kinh (tubeneurale) và hình thành 5-6 đốt thần kinh.
– Ngày thứ 2: Tạo thành hệ thống mạch máu bên ngoài bào thai, xuất hiện mầm tim; mạch máu bao noãn hoàng; chất
– Ngày thứ 3: Hình thành đầu, cổ và ngực của phôi; nếp đuôi và cánh lớn lên hợp với thân sau của phôi. Màng ối và màng nhung chia thành 2 màng túi; màng nhung ở ngoài; gan và phổi bắt đầu hình thành.
– Ngày thứ 4: Phôi có dạng ở bào thay bậc cao, dài 8mm.
– Ngày thứ 5: Phôi tăng dần, dài 12 mm, có hình dáng loài chim.
– Ngày thứ 6: phôi đạt 16 mm, mạch máu phủ quanh phôi như màng nhện.
Ghi chú: Soi trứng loại bỏ trứng chết phôi: Khi lắc nhẹ quả trứng phôi không ở vị trí cố định.
– Ngày thứ 7: Vòng rốn xuất hiện, màng ối biến thành đa phôi; hình thành huyết quản ở màng ối, cơ trơn xuất hiện để màng ối co bóp được. Phôi màng ối vừa chứa
– Ngày thứ 11: Phôi dài 2,24 cm, đã hình thành chân.
– Ngày thứ 12: Huyết quản túi noãn vàng phát triển mạnh, chuyên vận chuyển chất
– Ngày thứ 13: Đầu phôi xuất hiện lông tơ, móng chân; mỏ hình thành rõ.
– Ngày thứ 14: Phôi chiếm gần hết khoang trứng, cử động, lông phủ kính toàn thân.
– Ngày thứ 15 và 16: Kích thước niệu nang tăng tỷ lệ thuận với kích thước phôi, số lòng đỏ phôi tiêu thụ gần hết. Hô hấp vẫn nhờ mạch máu.
– ngày thứ 17,18 và 19: Phôi chiếm toàn bộ khối lượng trứng (trừ buồng khí).
– Ngày thứ 20: Mỏ phôi mổ thủng buồng khí; gà con lấy oxy từ đường hô hấp, phổi và mạch máu; gà mổ thủng vỏ trứng.
– Ngày 21: gà bắt đầu chui ra khỏi vỏ trứng
Phụ lục 3: Bảng liệt kê những mục cần kiểm tra
Thiết bị:- Ngày đầu : + 06 giờ sau khi ấp : Phôi dài 5 mm, hình thành nếp thần kinh trên dây sống nguyên thủy. + 24 giờ tạo thành ống thần kinh ( tubeneurale ) và hình thành 5-6 đốt thần kinh. – Ngày thứ 2 : Tạo thành mạng lưới hệ thống mạch máu bên ngoài bào thai, Open mầm tim ; mạch máu bao noãn hoàng ; chất dinh dưỡng phân phối cho phôi. – Ngày thứ 3 : Hình thành đầu, cổ và ngực của phôi ; nếp đuôi và cánh lớn lên hợp với thân sau của phôi. Màng ối và màng nhung chia thành 2 màng túi ; màng nhung ở ngoài ; gan và phổi mở màn hình thành. – Ngày thứ 4 : Phôi có dạng ở bào thay bậc cao, dài 8 mm. – Ngày thứ 5 : Phôi tăng dần, dài 12 mm, có hình dáng loài chim. – Ngày thứ 6 : phôi đạt 16 mm, mạch máu phủ quanh phôi như màng nhện. : Soi trứng vô hiệu trứng chết phôi : Khi lắc nhẹ quả trứng phôi không ở vị trí cố định và thắt chặt. – Ngày thứ 7 : Vòng rốn Open, màng ối biến thành đa phôi ; hình thành huyết quản ở màng ối, cơ trơn Open để màng ối co bóp được. Phôi màng ối vừa chứa dinh dưỡng vừa chứa cả amoniac và axituric do phôi thải ra ; hình thành ống ruột và dạ dày. – Ngày thứ 11 : Phôi dài 2,24 cm, đã hình thành chân. – Ngày thứ 12 : Huyết quản túi noãn vàng tăng trưởng mạnh, chuyên luân chuyển chất dinh dưỡng đến phôi. Là quá trình quá độ của hô hấp túi niệu, tế bào cơ, gân phân bổ khắp thành niệu nang. – Ngày thứ 13 : Đầu phôi Open lông tơ, móng chân ; mỏ hình thành rõ. – Ngày thứ 14 : Phôi chiếm gần hết khoang trứng, cử động, lông phủ kính body toàn thân. – Ngày thứ 15 và 16 : Kích thước niệu nang tăng tỷ suất thuận với size phôi, số lòng đỏ phôi tiêu thụ gần hết. Hô hấp vẫn nhờ mạch máu. – ngày thứ 17,18 và 19 : Phôi chiếm hàng loạt khối lượng trứng ( trừ buồng khí ). – Ngày thứ 20 : Mỏ phôi mổ thủng buồng khí ; gà con lấy oxy từ đường hô hấp, phổi và mạch máu ; gà mổ thủng vỏ trứng. – Ngày 21 : gà mở màn chui ra khỏi vỏ trứng
STT |
Trình tự kiểm tra |
1 |
Vệ sinh và xông khử trừng máy ấp |
2 |
Đặt máy áp tránh ánh sáng mặt trời trực tiếp, có lối đi thuận tiện. |
3 |
Điều chỉnh nhiệt độ từ 37,8 0C trong 2-4 giờ trước khi bắt đầu ấp trứng. |
4 |
Để kiểm tra nhiệt độ máy ấp, cần có một nhiệt kế chính xác và nhiệt kế được đặt ở vị trí trứng. |
5 |
Cấp nước vào khay nước ở phía dưới của máy ấp và lưu giữ đầy đủ. |
– Các thông số kỹ thuật và thao tác ấp
STT |
Trình tự kiểm tra |
Ghi chú |
1 |
Rửa tay thật kỹ trước khi đặt trứng trong máy ấp |
|
2 |
Ngày trong tuần để đưa trứng ấp ở ngày thứ 3 hoặc thứ tư. |
|
3 |
Điều chỉnh nhiệt độ |
– Khi có khoảng 10% trứng đã khẩy mỏ thì chuyển trứng sang máy nở.
– Máy nở được vệ sinh, xông khử trùng và bật máy trước khi chuyển trứng 4-5h
– Trước khi ra gà cắt ẩm độ trước 6h |
– |
1 – 7 ngày |
37,8 oC |
– |
8 – 18 ngày |
37,6 oC |
– |
19 – 21 ngày |
37,2 oC |
– |
Khi gà bắt đầu nở |
35 oC |
4 |
Điều chỉnh ẩm độ |
– |
1 – 5 ngày |
60 – 61% |
– |
6 – 11 ngày |
55 – 57% |
– |
12 – 18 ngày |
50 – 53% |
– |
19 ngày |
60% |
– |
20-21 ngày |
70-75% |
– |
Khi gà bắt đầu nở |
Tăng ẩm độ tối đa (75%) |
5 |
Điều chỉnh đảo trứng: (2 giờ/lần) và đảo 1 gốc 900 |
Ngưng đảo trứng từ ngày thứ 18 |
6 |
Rửa tay thật kỹ trước soi trứng và soi 3 lần vào ngày ấp thứ 6, 11 và 18 |
|
7 |
Khi gà con khô và mịn lấy gà ra khỏi máy đưa sang úm |
Trước 6h sau khi nở |
8 |
Phân loại gà và đánh giá kết quả |
|
9 |
Lồng úm |
Sau khi nở chỉ cho uống nước pha Vitamin C, Glucoza, sau 24 h mới cho ăn |
– |
Lót chuồng giấp báo hay trấu khô 10 cm |
– |
Máng ăn, máng uống, thức ăn và nước uống |
– |
Nhiệt độ úm 32-34oC |
10 |
phòng bệnh cho gà con bằng vaccin và kháng sinh |
|