Cập nhật vào: Thứ ba – 23/06/2020 01:45
Cỡ chữ
Nước Ta được nhìn nhận là một trong 16 vương quốc trên quốc tế có tiềm năng đa dạng sinh học và là cái nôi thuần hoá gia súc, gia cầm của loài người. Những yếu tố tạo nên sự phong phú vật nuôi ở nước ta đó là sự phong phú về địa lý, có nhiều tộc người, gồm có 54 dân tộc bản địa với sự phong phú về phong tục tập quán và mạng lưới hệ thống chăn nuôi. Các nguồn gen vật nuôi của nước ta tập trung chuyên sâu hầu hết tại những tỉnh miền núi phía Bắc, những tỉnh thuộc khu vực miền trung Trung Bộ và Tây Nguyên .
Việc bảo tồn nguồn gen vật nuôi là một trong những giải pháp lâu dài giúp cho việc chuyển đổi nhanh giống vật nuôi phù hợp với môi trường và góp phần đảm bảo cho nền nông nghiệp bền vững. Điều này càng quan trọng đối với các nước đang phát triển có nền sản xuất nông nghiệp với quy mô sản xuất nhỏ, khả năng đầu tư thấp và hầu như chăn nuôi theo kiểu truyền thống tương tự như nền nông nghiệp ở nước ta. Vì thế, năm 2018, TS. Phạm Công Thiếu và các cộng sự tại Viện Chăn nuôi đã thực hiện đề tài: “Bảo tồn và lưu giữ nguồn gen vật nuôi”
Một số tác dụng nghiên cứu và điều tra điển hình nổi bật của đề tài :1. Bảo tồn và lưu giữ được 14 đối tượng người tiêu dùng nguồn gen vật nuôi, trong đó nhóm gia súc có 7 đối tượng người tiêu dùng ( lợn Cỏ Bình Thuận, lợn Chư Prông, lợn Mường Tè, ngựa Mường Lống, trâu Langbiang, dê đen và thỏ nội ). Nhóm gia cầm có 3 đối tượng người dùng ( gà tây Kỳ Sơn, gà trụi lông cổ và gà lông chân ). Nhóm thủy cầm có 4 đối tượng người dùng 31 ( vịt Mường Khiêng, ngan Xám, ngan Trâu và ngỗng Cỏ ) và 222 liều tinh lợn Ỉ. Nhóm ong có 02 nguồn gen trong đó có 01 nguồn gen Apis cerana indica và 01 nguồn gen Apis cerana cerana. Nhìn chung số lượng những đối tượng người dùng nguồn gen đủ và vượt so với theo kế hoạch được giao với đặc thù ngoại hình và một số ít chỉ tiêu kinh tế tài chính kỹ thuật không thay đổi .
2. Điều tra tìm kiếm và bổ sung nguồn gen tiềm ẩn
– Điều tra tìm kiếm và bổ trợ được 03 nguồn gen vật nuôi, gồm có lợn Kiềng Sắt ( Tỉnh Quảng Ngãi ), gà H’Re ( Tỉnh Quảng Ngãi ) và gà lùn Cao Sơn ( Quảng Ninh ). – Điều tra tích lũy nguồn gen ong tại những tỉnh Hòa Bình, Sơn Là và Hà Giang .3. Đánh giá nguồn gen : đã thực thi nhìn nhận sơ bộ 01 đối tượng người dùng nguồn gen vật nuôi ( vịt Mường Khiêng ). Đánh giá cụ thể 03 đối tượng người tiêu dùng nguồn gen ( lợn cỏ Bình Thuận, gà tây Kỳ Sơn và ngan trâu ) .
– Đã đánh giá được khoảng cách di truyền của trâu Langbiang với các quần thể trâu Bảo Yên và trâu Thanh Chương. Khoảng cách di truyền nhỏ nhất được tìm thấy giữa các cặp trâu Thanh Chương và Bảo Yên (0,1200), tiếp đến là giữa trâu Thanh Chương và Lang Biang (0,1691), cao nhất là trâu Bảo Yên và Lang Biang (0,1767). Các quần thể trâu trong nghiên cứu chia thành hai nhánh: một nhánh là trâu Lang Biang, nhánh còn lại gồm trâu Thanh Chương và trâu Bảo Yên.
4. Tư liệu hóa nguồn gen : đã update bổ trợ thêm thông tin, tư liệu, ảnh của 14 nguồn gen bảo tồn năm 2018 và một số ít nguồn gen địa phương vào ứng dụng Vietgen .Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo hiệu quả điều tra và nghiên cứu của Đề tài ( Mã số 15649 ) tại Cục tin tức Khoa học và Công nghệ Quốc gia .N.P.D ( NASATI )