BÀI TIỂU LUẬN vấn đề BẢO vệ môi TRƯỜNG 2
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.48 KB, 14 trang )
BÀI TIỂU LUẬN VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
A.MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
B.NỘI DUNG
Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay trên thế giới và Việt Nam
C.KẾT LUẬN
Nhận xét chung
Tài liệu tham khảo
Thế giới của chúng ta hiện nay đã có những thành tựu vĩ đại về
khoa học và công nghệ mà nhờ đó loài người đã đạt được sự tăng trưởng kinh tế
không ngừng.Song bên cạnh những thành tựu to lớn đó,thế giới ngày nay đang
phải đối mặt với những vấn đề hết sức nghiêm trọng, có tính toàn cầu.Một trong
những vấn đề đó là vấn đề bảo vệ môi trường.
Việc con người khai thác thiên nhiên một cách bừa bãi, lực lượng
sản xuất phát triển không gắn liền với những giá trị đạo đức và nhânvăn đã đặt
con người ngày càng đối lập với tự nhiên. Nhiều hiện tượng của vấn đề môi
trường như: sự ô nhiễm môi trường, ô nhiễm đất và nước, sự cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên, khoáng sản, nạn phá rừng, lụt lội, hiệu ứng nhà kính, lỗ thủng
ôzôn… đang đặt loài người trước sự “trả thù của tự nhiên” như từ lâu
Ph.Ăngghen đã từng cảnh cáo, đang đe dọa chính sự tồn tại của bản thân trái
1
đất. Vì vậy, muốn tồn tại và phát triển một cách bền vững, loài người cần phải
có giải pháp kịp thời và hữu hiệu để giải quyết những vấn đề về môi trường
Bài tiểu luận sẽ cung cấp đầy đủ về vấn đề bảo vệ môi trường với tư
cách là một vấn đề toàn cầu.
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
1.Khái niệm môi trường
Môi trường là một khái niệm gắn liền với sự sống, bao gồm những thực
thể và hiện tượng của tự nhiên, bảo đảm cho sự phát sinh và phát triển của sự
sống. Nói cách khác, môi trường là toàn bộ các điều kiện tự nhiên tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của sinh vật.
Tài nguyên và môi trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong một hệ
sinh thái xác định, cũng có quan niệm cho rằng khi đề cập tới bảo vệ môi trường
cũng có nghĩa bao hàm cả bảo vệ tài nguyên. Tuy nhiên khi nói tới tài nguyên
thường gắn với hoạt động kinh tế, là yếu tố đầu vào của hệ thống kinh tế, chúng
có thể đo đếm và hạch toán được trong sổ sách kế toán, còn môi trường bao
gồm hệ thống tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quan con người ảnh hưởng tới
đời sống và hoạt động của con người. Như vậy trong môi trường có cả tài
nguyên và người ta thường sử dụng cụm từ “Môi trường thiên nhiên”.
Từ sơ đồ 1 cho thấy, yếu tố đầu vào R (Resource) tài nguyên từ môi
trường tự nhiên và W (Waste) chất thải đầu ra của hệ thống kinh tế đưa vào môi
trường.
2
Để bảo vệ tài nguyên và môi trường, trước hết phải bảo vệ môi trường
thiên nhiên, vì vậy kinh nghiệm quốc tế cho thấy thường người ta đề cập tới
cụm từ “Bảo vệ môi trường” là chính, còn đối với tài nguyên thường sử dụng
cụm từ “Khai thác và sử dụng tiết kiệm tài nguyên”, xét về bản chất kinh tế,
trong bối cảnh thể chế kinh tế thị trường, thường dùng cụm từ “Khai thác và sử
dụng hiệu quả tài nguyên”. Như vậy bảo vệ tài nguyên và môi trường như thế
nào là tốt nhất cần phải xem xét những cách thức mà các quốc gia trên thế giới
đã làm, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam làm cơ sở cho
định hướng đúng trong chỉ đạo điều hành về lĩnh vực này.
I. Nhìn nhận trước đây
Để bảo vệ tài nguyên và môi trường, kinh nghiệm thế giới cho thấy phải
nhìn nhận một cách khá toàn diện nhìn từ góc độ quản lý hệ sinh thái.
Ơ Mỹ từ cuối thế kỷ XIX người ta đã bắt đầu nhận thấy sự lãng phí và sử
dụng quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, một cách tiếp cận mới trong
bảo vệ tài nguyên và môi trường được ra đời, tác giả đầu tiên phải kể đến là
Theodore Roosevelt, ông đánh giá cao về “bảo tồn” cần phải được ưu tiên cao
hơn trong hoạt động hành chính của mình, tiếp đó Gifford Pinchot, ông chủ đầu
tiên của cơ quan dịch vụ rừng của Mỹ đã có một cách tiếp cận mới đối với tài
nguyên thiên nhiên. Mục tiêu hướng tới của ông ta là đạo đức sử dụng dựa trên
thuyết vị lợi nhằm đạt được mục tiêu “hàng hóa tốt nhất với số lượng lớn nhất
cho thời gian dài nhất”. Đây gọi là đạo đức bảo tồn tài nguyên (resource
conservation ecthic), với cách nhìn nhận này, nó đã hướng dẫn rất nhiều cho
việc quản lý tài nguyên thiên nhiên trong nửa đầu thế kỷ XIX ở Mỹ. Theo
Pinchot, bảo tồn cũng có nghĩa là khôn ngoan và cẩn trọng trong việc sử dụng
tài nguyên thiên nhiên. Ông cho rằng “Thực tế đầu tiên của sự bảo tồn là chứa
đựng sự phát triển” và “nhiệm vụ đầu tiên của con người về khía cạnh vật chất
là kiểm soát việc sử dụng trái đất và tất cả những gì có trên trái đất”. Với sự
thúc đẩy của ông với tính hiệu quả và hợp lý trong sử dụng tài nguyên thiên
nhiên cho cả thế hệ hiện tại và tương lai đã dẫn đến khái niệm mới được sử
3
dụng trong cơ quan quản lý lâm nghiệp và đất đai ở Mỹ. Sử dụng và kiểm soát
bền vững là trọng tâm trong cách nhìn nhận của Pinchot từ thế kỷ XIX ở Mỹ.
Cũng trong thế kỷ XIX, một viễn cảnh nhìn nhận mới gọi là lãng mạnđạo đức bảo tồn vượt trội (romantic-transcendental conservation ethic), trong
cách nhìn nhận này cho rằng tài nguyên có những giá trị sử dụng khác, hơn cả
những lợi ích mà con người thu được và trong thực tế cho thấy tài nguyên có
những giá trị vốn có mang tính độc lập không phụ thuộc vào con người.
Một viễn cảnh thứ ba về quan điểm nhìn nhận của thế giới trong thế kỷ
XX đối với bảo vệ tài nguyên và môi trường dựa trên cơ sở hệ sinh thái, đó là
tiến hóa-đạo đức đất sinh thái (evolutionary-ecological land ethic), đã được giới
thiệu bởi tác giả Aldo Leopold vào những năm thập kỷ 1930 và 1940 của thế kỷ
XX. Ông cho rằng cùng với sự phát triển của hệ sinh thái và tiến bộ khoa học kỹ
thuật của con người, thiên nhiên không đơn giản là sự thu thập các thành phần
của chúng, một số được sử dụng, còn một số khác vứt bỏ dựa trên tính hữu ích
của chúng đối với con người, thiên nhiên cũng không phải là ngôi chùa để thờ
cúng và không được chạm tới. Leopold cho rằng thiên nhiên là sự cấu thành
phức tạp của các thành phần kết nối với nhau, hệ thống chức năng của chúng là
kết quả của tiến trình thay đổi trong dài hạn. Mỗi thành phần như là cấu trúc
một bộ phận của cỗ máy mà chúng ta chưa hiểu hết, chẳng hạn như cơ chế đất
cần sử dụng do con người, nhưng cấu trúc chủ yếu của chúng không nên thay
đổi một cách cơ bản. Quan điểm này được ông tuyên bố một câu nói khá nổi
tiếng giống như “Giữ từng bánh răng và bánh xe là sự phòng ngừa đầu tiên của
người thợ sửa máy thông minh”.
Vào giữa những năm 1960-1970, bảo vệ tài nguyên và môi trường đã có
nhìn nhận sát thực hơn, quản lý tài nguyên thay đổi theo hướng bền vững, dựa
trên tiếp cận mới gắn với khai thác trong môi trường như: Giải trí, bảo tồn các
loài có nguy cơ tuyệt chủng, hiệu ứng tích lũy và gía trị thẩm mỹ. Những vấn đề
ô nhiễm không khí, nguồn nước, mất đa dạng sinh học đe dọa tới môi trường
sống của con người được thế giới chú trọng hơn.
4
Đến những năm thập kỷ 80 của thế kỷ XX, bảo vệ tài nguyên và môi
trường tiến thêm một bước đó là quy định mới của thế giới về bảo tồn sinh vật
như là một triết lý trong thực hiện quản lý hệ sinh thái. Người ta đã bắt đầu nhìn
thấy những rối loạn của hệ thống tự nhiên, và đến những năm đầu thập kỷ 90 đã
thay đổi cơ bản cách nhìn nhận trong bảo vệ tài nguyên và môi trường, đối
tượng quản lý chính là hệ sinh thái, nhằm hướng tới “Phát triển bền vững”, lần
đầu tiên hội nghị thượng đỉnh thế giới 1992 đã đưa ra chủ đê “Môi trường và
phát triển”.
II. Nhìn nhận hiện nay
Một trong những cách nhìn nhận mới đáng lưu ý đó là theo công điện số
197 của phái đoàn thường trực CHXHCNVN tại Liên Hợp Quốc ngày
23/04/2012 gửi Bộ ngoại giao và Bộ Tài Nguyên Môi trường. Nhân ngày trái
đất 22/4 và triển khai Nghị quyết 65/164 của đại Hội đồng (ĐHĐ) về hài hòa
với thiên nhiên do Bolivia khởi xướng, Đại hội đồng LHQ đã tổ chức thảo luận
chuyên đề “Hài hòa với thiên nhiên, những phát kiến khoa học về tác động của
con người đối với hoạt động của hệ thống Trái đất”, trong đó đề cập tới cách
nhìn nhận mới, “Trái đất không phải là của con người mà con người thuộc về
Trái đất cùng với các sinh vật khác trong khí quyển, thủy quyển và địa quyển.
Phải thay đổi mô hình phát triển hiện nay của chủ nghĩa tư bản. Không thể có
mô hình tăng trưởng mãi mãi mà không ảnh hưởng tới bền vững của thiên
nhiên; Không thể giải quyết vấn đề “hài hòa với thiên nhiên” bằng các quy luật
của thị trường tự do lấy lợi nhuận làm mục tiêu và dựa trên thúc đẩy tiêu dùng”.
Mặt khác trong công điện cũng chỉ ra từ cách nhìn nhận của LHQ đối với các
quốc gia “phải phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý, giám sát, điều tiết,
đồng thời xây dựng nhận thức chung, thúc đẩy sự đóng góp của toàn xã hội”,
bên cạnh đó trong nội dung công điện cũng đưa ra cảnh báo “Nhà nước phải hỗ
trợ và có đầu tư thích đáng cho khoa học, chứ không phải dựa vào tư nhân.
Đáng lưu ý cách nhìn nhận mới, với tuyên bố của phó tổng thư ký LHQ, đồng
thời cũng là Tổng thư ký Hội nghị LHQ về phát triển bền vững đã diễn ra tháng
5
06/2012 (RiO+20) cho rằng “đã đến lúc phải nói lời tạm biệt với mô hình phát
triển cũ của chúng ta dựa vào bóc lột tài nguyên không hiệu quả, lãng phí, gây
hại cho phát triển bền vững của môi trường và xã hội”.
Từ năm 2010, chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) đã có
những tiếp cận mới trong bảo vệ tài nguyên và môi trường, đó là quản trị môi
trường (Environmental Governance) và kinh tế xanh (Green Economy) nhằm
thay đổi cách nhìn nhận và tiếp cận mới về tài nguyên và môi trường phù hợp
với xu thế phát triển hiện nay trên quy mô toàn cầu.
Về quản trị môi trường được hiểu “Quản trị môi trường là sự tương tác
đa cấp (địa phương, vùng, quốc gia, toàn cầu) giữa nhà nước, thị trường và xã
hội trong tiến trình xây dựng và thực hiện các chính sách về quản lý môi trường
nhằm đạt được sự phát triển bền vững”, đã có nhiều quốc gia như Anh (2004),
Úc (2009), các nước Đông Á (2009)… áp dụng quản trị môi trường trong quá
trình thực thi chính sách liên quan đến quản lý môi trường.
Về kinh tế xanh: UNEP đã đưa ra khái niệm ban đầu cho rằng: “Nền kinh
tế xanh là kết quả mang lại phúc lợi cho con người và công bằng xã hội, nó có ý
nghĩa giảm những rủi ro môi trường và khan hiếm sinh thái”. Từ khái niệm đó
cho thấy, phát triển một nền kinh tế xanh thực chất là vì con người, đảm bảo
phúc lợi cao nhất, đạt mục tiêu công bằng về mặt xã hội và hạn chế tối đa những
rủi ro cho môi trường và hệ sinh thái, tôn tạo và phát triển hệ sinh thái tự nhiên.
Theo kết qủa nghiên cứu của các tác giả trong tài liệu “Hướng tới nền kinh tế
xanh” do chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) công bố năm 2011,
mô hình kịch bản đầu tư xanh với số vốn khoảng 2% GDP toàn cầu (Khoảng
1300 tỷ USD), trong đó khoảng một phần tư của tổng số (0,5% GDP) tương
đương với số tiền 350 tỷ USD được đầu tư cho các lĩnh vực sử dụng nhiều vốn
tự nhiên như các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, nước sạch và thủy sản. Trong
mô hình kinh tế vĩ mô, các tác giả cũng đã tính toán và chỉ ra rằng, xét trong dài
hạn, đầu tư vào nền kinh tế xanh sẽ cải thiện hiệu quả kinh tế và tăng tổng
lượng của cải trên toàn cầu.
6
Từ khởi xướng của UNEP, Trung Quốc là một trong những quốc gia tiếp
cận sớm ý tưởng này để đưa vào hoạch định chính sách nhằm chuyển từ phương
thức phát triển kinh tế kiểu tiêu hao nhiều tài nguyên sang phương thức phát
triển kinh tế kiểu tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Một là, lấy việc ưu tiên tiết kiệm và hiệu quả làm gốc để làm nòng cốt
cho việc xây dựng hệ thống kinh tế quốc dân (KTQD) kiểu tiết kiệm tài nguyên
toàn diện, nâng cao vị trí quan trọng của việc tiết kiệm tài nguyên trong chiến
lược phát triển Kinh tế-xã hội, nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên, thêm một
bước nữa tăng cường hướng dẫn về chính sách cho việc tiết kiệm tài nguyên, ra
sức điều chỉnh và tối ưu hóa kết cấu ngành nghề, ra sức khai thác và phổ biến
kỹ thuật tiết kiệm tài nguyên, loại bỏ công nghệ và thiết bị lạc hậu, tăng cường
quản lý các khâu về sản xuất, vận chuyển, tiêu dùng tài nguyên.
Hai là, lấy việc ra sức phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế sản sinh lượng
Carbon thấp làm con đường cơ bản xây dựng hệ thống kinh tế quốc dân kiểu tiết
kiệm tài nguyên.
Ba là, lấy việc tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm nước, tiết kiệm nguyên
liệu, tiết kiệm đất và sử dụng tổng hợp nguồn tài nguyên làm trọng điểm cho
việc xây dựng hệ thống kinh tế quốc dân kiểu tiết kiệm tài nguyên, cố gắng tiết
kiệm nguồn năng lượng, tiết kiệm nước, tiết kiệm nguyên vật liệu, tiết kiệm và
sử dụng hợp lý tài nguyên đất, thúc đẩy sử dụng tổng hợp tài nguyên.
Bốn là, lấy việc bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh làm nhu cầu cơ bản
cho việc xây dựng hệ thống KTQD kiểu tiết kiệm nguồn tài nguyên, một mặt
phải điều chỉnh và cải thiện kết cấu tiêu dùng nguồn tài nguyên, nhất là kết cấu
tiêu dùng nguồn năng lượng, cố gắng giảm thiểu tác động xấu của việc khai thác
và sử dụng nguồn tài nguyên đối với môi trường, nỗ lực thực hiện sự hòa hợp
giữa tài nguyên và môi trường; Mặt khác, phải đảm bảo an ninh tài nguyên, xây
dựng và hoàn thiện dự trữ chiến lược dầu mỏ thích ứng với sức mạnh của đất
nước, tích cực quán triệt chiến lược “Bước ra ngoài”, thực hiện mục tiêu đa
dạng hóa con đường nhập khẩu nguồn năng lượng, khai thác kỹ thuật thay thế
7
và tiết kiệm dầu mỏ, đảm bảo sự cung cấp dầu khí, nắm lấy thời cơ để khai thác
và sử dụng nguồn năng lượng.
Thực tiễn đã đầu tư cho kinh tế xanh cũng cho thấy, vào năm 2009 UNEP
đã thống kê và tính toán Cộng đồng chấu Âu và Bắc Mỹ đã đầu tư vào xây dựng
các tòa nhà xanh và tạo ra được khoảng 2-3,5 triệu việc làm, riêng Trung Quốc
đầu tư vào lĩnh vực tái chế và năng lượng tái tạo đã tạo ra 10 triệu việc làm và
doanh thu khoảng 17 tỷ đô la Mỹ/năm. Đối với các nước đang phát triển, theo
đánh giá của ngân hàng thế giới (WB), nhu cầu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
cho kinh tế xanh như các ngành xây dựng, năng lượng, giao thông vận tải có thể
lên tới 563 tỷ đô la Mỹ vào năm 2030 và 100 tỷ đô la Mỹ cho thích ứng với biến
đổi khí hậu. Như vậy so với mức độ đầu tư toàn cầu, đầu tư cho kinh
tế xanh và thích ứng biến đổi khí hậu ở các nước đang phát triển chiếm
khoảng 50% tổng nguồn vốn đầu tư vào kinh tế xanh của toàn cấu.
Ơ Mỹ, kể từ sau khủng hoảng tài chính năm 2008 đang có một sự xem
xét lại chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, tăng việc làm, áp dụng chiến lược “Tái công nghiệp hóa”. Tháng 11
năm 2009 tổng thống Obama đưa ra mô hình tăng trưởng của Mỹ phải chuyển
sang mô hình tăng trưởng bền vững. Trong chiến lược “Tái công nghiệp hóa”
cho giai đoạn 10 năm tới nhằm phát triển công nghệ mới dự kiến đầu tư
15.000.000 USD hỗ trợ cho các nguồn năng lượng mới, khuyến khích các
doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tiết kiệm năng lượng, nhất là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, Mỹ muốn trở thành nhà lãnh đạo sạch trong công nghệ.
Hướng tiếp cận mới theo cách “Kinh tế các bon thấp”, giảm thiểu phát thải khí
nhà kính. Cách tiếp cận ở Mỹ luôn lấy tiêu chí hiệu quả Kinh tế để thực thi
chính sách, động lực thị trường thúc đẩy đổi mới công nghệ. Thực thi bảo vệ
môi trường có khoa học và kế hoạch rõ ràng chia theo giai đoạn, trước hết người
dân phải hiểu, thứ đến phải có can thiệp khoa học và cuối cùng thực hiện theo
chương trình kế hoạch đã có. Tuy nhiên tuỳ theo đặc trưng từng vùng có kế
hoạch khác nhau, ví dụ vùng cần bảo vệ nguồn nước có chương trình riêng của
lĩnh vực này, bảo vệ đất hay duy trì đa dạng sinh học có chương trình cụ thể
8
thích hợp cho từng loại đất. Trong nông nghiệp, sản xuất sản phẩm hữu cơ và
kết hợp nhiều loại sản phẩm khác nhau trong một trang trại sản xuất được chủ
trang trại phát huy cao độ. Cây trồng vật nuôi được kết hợp và phù hợp với đặc
điểm sinh thái của nơi sản xuất, duy trì chất lượng đất. Tại trang trại sản xuất
nông nghiệp, xu hướng tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng mặt trời khá
phổ biến. Chủ trang trại luôn tính toán hiệu quả kinh tế của các phương án sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm, gắn sản xuất với tiêu thụ thông qua việc hoàn thiện
sản phẩm từ khâu thu hoạch đến đóng gói, đưa trực tiếp sản phẩm tới các siêu
thị để đến người tiêu dùng nhanh nhất, hạn chế chi phí qua trung gian, tăng lợi
nhuận. Việc sử dụng hầm Biogas, trợ cấp cho năng lượng sạch được thực hiện ở
các vùng sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi quy mô lớn. Cơ quan dịch vụ sản
xuất nông trại- FSA (Farm Service Agency) khuyến khích trang trại không sử
dụng hoá chất diệt côn trùng và các dịch vụ hỗ trợ khoa học kỹ thuật khác.
Trong công nghiệp, vấn đề được chú trọng nhất là tiết kiệm năng lượng và sử
dụng năng lượng thay thế nhằm hạn chế sử dụng nhiên liệu hoá thạch. Để quyết
định lựa chọn theo hướng nào, bài toán kinh tế được tính toán theo vận hành của
cơ chế thị trường theo phương án trước mắt và dài hạn. Xu hướng sử dụng năng
lượng mặt trời từ việc sản xuất ra nhiều tấm pin đã và đang được triển khai, hiện
nay có khoảng 22 thành phố đã sản xuất và sử dụng, không chỉ giải quyết công
ăn việc làm, mà còn tiết kiệm năng lượng, mang lại hiệu quả và tiếp cận theo
hướng cac bon thấp. Những nơi chịu nhiều rủi ro của thiên nhiên và con người
như New Olean, sau cơn bão Cachina, nhiều vùng không có người quay lại sinh
sống ở các ngôi nhà cũ. Chính quyền địa phương đã thiết lập lại quy hoạch khu
dân cư mới với nguồn đóng góp vốn của chính phủ, cộng đồng và các nhà tài
trợ khác, quy hoạch mới tính tới ảnh hưởng của bão, lụt và phù hợp hơn với
điều kiện sinh thái tự nhiên của vùng. Từ hướng tiếp cận kinh tế Cac bon thấp,
đối với phát triển đô thị, những khu đô thị mới, chẳng hạn khu vực sân bay cũ
nay không còn sử dụng ở gần thành phố Austin thuộc bang Taxes, được quy
hoạch lại chuyển đổi sang phát triển khu dân cư sinh sống, một tổ chức phi lợi
9
nhuận với sự tài trợ của Chính phủ và tham gia của nhiều doanh nghiệp, tiến
hành quy hoạch, thiết kế các ngôi nhà và toàn bộ khu dân cư thân thiện môi
trường, các ngôi nhà xanh được hình thành (Green houses). Những ngôi nhà đó
so với các kiểu nhà trước đây sẽ tiết kiệm năng lượng nhiều hơn, sử dụng năng
lượng mặt trời, mang lại lợi ích nhiều hơn cho chủ hộ sử dụng. Hệ thống hạ tầng
đồng bộ từ đường sá, thu gom phân loại và xử lý rác, các công nghệ mới được
đưa vào ngôi nhà, không gian xanh phù hợp. Khái niệm “Nhà không dây điện”
đã xuất hiện. Xu hướng mới xây dựng nhà công sở cũng đã được thiết kế và xây
dựng ở thành phố Austin, thuộc bang Texat, một ngôi nhà công sở được thiết kế
theo dạng ngôi nhà xanh, tiết kiệm năng lượng, sử dụng được nước mưa thiên
nhiên, các vật dụng trang trí tận dụng chất thải và nhiều sáng kiến khác được
đưa vào là hướng tiếp cận mới đã được thực hiện ở Mỹ. Hệ thống giao thông,
nhất là đối với các đường cao tốc quy hoạch giải phân cách xanh là yêu cầu bắt
buộc. Mặc dù cách giải quyết ở Mỹ theo kiểu “Kinh tế Các bon thấp”, nhưng
với cách tiếp cận đó cũng là nội dung hướng tới phát triển “Nền kinh tế xanh”.
Các nước Tây Âu và Nhật bản, xu hướng phát triển cũng hướng tới “Nền
kinh tế sạch”, “Kinh tế Cac bon thấp” và phát triển “Nền kinh tế xanh”, các
nước này đã trải qua một thời kỳ dài của quá trình công nghiệp hóa và cũng đã
phải trả giá cho suy giảm tài nguyên và chất lượng môi trường. Từ thập kỷ 70
của thế kỷ XX, xu hướng phát triển đã có sự thay đổi, quan điểm thân thiện với
môi trường và duy trì hệ sinh thái tự nhiên thông qua chuyển đổi mô hình phát
triển đầu tư vào khoa học công nghệ, xử lý ô nhiễm, giảm thiểu, tái chế và tái sử
dụng chất thải (3R). Hiện nay đang hướng tới lộ trình thực hiện và thúc đẩy các
ngành sản xuất sạch và phát triển các ngành cac bon thấp mới hình thành, nằm
trong hệ thống kinh tế toàn cầu của nhóm nước công nghiệp phát triển (OECD),
Tây Âu ra sức thúc đẩy đưa các chỉ tiêu về cac bon thấp vào hệ thống quy định
quốc tế, với sự ra đời của tiêu chuẩn chứng nhận quốc tế về “Dấu chân cac bon”
đã mở màn cho quá trình này. Còn Nhật bản tích cực xu hướng giảm thiểu cac
bon thông qua Nghị định thư Kyoto, thực hiện triệt để chiến lược 3R “Giảm
10
thiểu, tái sử dụng và tái chế chất thải” và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi
trường. EU dự kiến trước năm 2013 sẽ đầu tư 105.000.000.000 € để phát triển
“nền kinh tế sạch”. Còn Nhật bản từ cuối năm 2009 phát động chiến lược tăng
trưởng mới, tập trung vào hai ngành công nghiệp mới là ngành môi trường và
năng lượng, ngành y tế, với việc đầu tư vào hai ngành này dự kiến đến năm
2020 tạo ra thị trường mới tương đương 1 triệu tỷ Yên. Ở Autralia, bảo vệ tài
nguyên và môi cơ bản dựa trên đặc thù của hệ sinh thái, dựa trên tiếp cận biên
và khả năng chịu đựng của hệ sinh thái để có phương án khai thác sử dụng, quy
hoạch và bảo vệ hợp lý.
Nhóm các nước mới nổi lên nhờ quá trình công nghiệp hóa như Hàn
quốc, Singapore. Từ những năm 80 của thế kỷ XX họ không phải trả giá nhiều
cho môi trường nhờ tiếp nhận công nghệ mới của các nước công nghiệp phát
triển và những bài học kinh nghiệm của các nước đó trước đây. Mô hình phát
triển của các nước này ngay từ đầu đã chú trọng tới môi trường và tiết kiệm tài
nguyên, chính vì vậy họ đã rút ngắn khoảng cách phát triển không chỉ đạt mục
tiêu kinh tế mà chú trọng tới môi trường. Hiện nay các nước này tiếp tục phát
triển theo xu hướng “Tăng trưởng xanh”, “Kinh tế cac bon thấp” và hướng tới
nền kinh tế xanh.
Các nước đang phát triển, nhất là các nước nghèo và trình độ phát triển
trung bình ở châu Á, châu Phi và châu mỹ La Tinh. Ở các nước này trình độ
công nghệ thấp hơn các nước phát triển, sản xuất chủ yếu dựa vào nông nghiệp,
khai thác và xuất khẩu thô tài nguyên thiên nhiên, lao động giá rẻ, sẽ bị lôi kéo
vào xu thế phát triển mới. Tuy nhiên theo nội hàm phát triển “Kinh tế xanh”,
đây sẽ là cơ hội cho các nước này tham gia để khôi phục nguồn tài nguyên tái
tạo, duy trì và phát triển hệ sinh thái tự nhiên và bảo vệ môi trường, tăng phúc
lợi và giảm nghèo. Việc tiếp cận mô hình phát triển “kinh tế xanh” sẽ đặt ra
nhiều thách thức, nhất là nguồn vốn đầu tư, công nghệ và năng lực thực thi. Để
vượt qua được những thách thức đó, các nước đang phát triển không chỉ phải
11
phát huy nội lực mà còn cần có sự trợ giúp của các nước phát triển, nhất là
nguồn vốn, công nghệ và nâng cao năng lực thực thi.
Về lý luận và thực tiễn đã cho thấy, thế giới đang có những sự thay đổi
mới trong định hướng phát triển, nhất là sau khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế từ năm 2008 đến nay, đó là cấu trúc lại nền kinh tế, hướng tới xây dựng
một nền kinh tế xanh
III. Từ kinh nghiệm quốc tế, rút ra bài học cho Việt Nam trong bảo
vệ tài nguyên và môi trường.
Để bảo vệ tài nguyên và môi trường rút ra từ những bài học kinh nghiệm
của các quốc gia trên thế giới, Việt Nam cần có những thay đổi trong cách tiếp
cận mới sau đây.
– Thứ nhất, thay đổi cách nhìn nhận mới có tính tổng hợp, bảo vệ tài
nguyên và môi trường phải dựa trên cơ sở nền tảng của hệ sinh thái, nghĩa là
không quản lý đơn lẻ một thành phần nào mà tiếp cận dựa trên tính đặc thù của
từng hệ sinh thái để đảm bảo sự liên kết và cân đối hài hòa của các thành phần
tự nhiên trong hệ sinh thái vốn có của nó, không phá vỡ thành phần cấu trúc
cũng như chức năng vốn có của hệ sinh thái. Một tiếp cận quản lý mới cần dựa
trên bối cảnh mẫu của quản lý hệ sinh thái như sau.
Trong đó: A là khu vực quy định của nha quản lý hoặc quyền lực quản lý;
B là khu vực nghĩa vụ xã hội trong phát triển kinh tế; C là khu vực ảnh hưởng;
D là khu vực các bên đều có lợi (win-win-win partnerships).
12
– Thứ hai, thay đổi cách thức nhìn nhận trong quản lý đối với bảo vệ tài
nguyên và môi trường so với trước đây giữa cách nhìn nhận quản lý truyền
thống với cách nhìn nhận quản lý mới đối với hệ sinh thái thể hiện quan bảng so
sánh sau đây.
C:KẾT LUẬN
Hiện nay vấn đề bảo vệ môi trường luôn là mối quan tâm hàng đầu của
nhiều quốc gia trên thế giới. Như sự kiện “Giờ Trái Đất” khi tất cả các nước
cùng hưởng ứng việc tắt đèn vì môi trường. Được tổ chức vài năm gần đây và
được nhiều nước ủng hộ như Mỹ, Sydney, Anh, London, Bangkok, Thái Lan,
Chicago để kêu gọi mọi người trên toàn thế giới hãy tắt điện và các thiết bị điện
trong vòng một giờ.
Do hiểu biết của con người được nâng cao và tính cấp thiết của việc bảo
vệ môi trường cho nên ngày nay đã có rất nhiều chương trình, các dự án như
“hành trình xanh”, “ngày môi trường thế giới”,được mở ra nhằm bảo vệ môi
trường và tuyên truyền giúp mọi người hiểu tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ
môi trường. Vấn đề bảo vệ môi trường không còn là vấn đề riêng của mỗi con
người, mỗi quốc gia mà nó là vấn đề chung cấp bách của toàn nhân loại, toàn
thể các nước trên thế giới để bảo vệ chung ngôi nhà của chúng ta luôn được
xanh sạch đẹp.Tuy nhiên, bên cạnh những hành động thiết thực góp phần cải
13
thiện môi trường thì vẫn còn rất nhiều hành động của con người vẫn diễn ra
từng ngày gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường như: chặt phá rừng bừa
bãi, xả thác bừa bãi ra môi trường, các chất thải, khí độc không được xử lí mà
thải trực tiếp ra môi trường…
Vấn đề bảo vệ môi trường cũng đặt ra vấn đề đó là sự chung tay,góp sức
cùng nhau đoàn kết giữa các quốc gia trên thế giới.Vấn đề môi trường không
phải là vấn đề nhỏ, ngày một ngày hai giải quyết là xong mà yêu cầu tất cả các
nước cùng hợp tác với nhau thì mới đạt kết quả tốt nhất.Chúng ta cần nỗ lực
nhiều hơn nữa trong việc giải quyết và bảo vệ các vấn đề môi trường,hạn chế
nán phá rừng,xử lí rác thải, chất độc hại, nguồn nước trước khi xả ra môi trường
bên ngoài…nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người.
14
Môi trường là một khái niệm gắn liền với sự sống, gồm có những thựcthể và hiện tượng kỳ lạ của tự nhiên, bảo vệ cho sự phát sinh và tăng trưởng của sựsống. Nói cách khác, môi trường là hàng loạt những điều kiện kèm theo tự nhiên ảnh hưởng tác động trựctiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của sinh vật. Tài nguyên và môi trường có mối quan hệ ngặt nghèo với nhau trong một hệsinh thái xác lập, cũng có ý niệm cho rằng khi đề cập tới bảo vệ môi trườngcũng có nghĩa bao hàm cả bảo vệ tài nguyên. Tuy nhiên khi nói tới tài nguyênthường gắn với hoạt động giải trí kinh tế tài chính, là yếu tố nguồn vào của mạng lưới hệ thống kinh tế tài chính, chúngcó thể đo đếm và hạch toán được trong sổ sách kế toán, còn môi trường baogồm mạng lưới hệ thống tự nhiên và vật chất tự tạo bao quan con người tác động ảnh hưởng tớiđời sống và hoạt động giải trí của con người. Như vậy trong môi trường có cả tàinguyên và người ta thường sử dụng cụm từ “ Môi trường vạn vật thiên nhiên ”. Từ sơ đồ 1 cho thấy, yếu tố nguồn vào R ( Resource ) tài nguyên từ môitrường tự nhiên và W ( Waste ) chất thải đầu ra của mạng lưới hệ thống kinh tế tài chính đưa vào môitrường. Để bảo vệ tài nguyên và môi trường, trước hết phải bảo vệ môi trườngthiên nhiên, thế cho nên kinh nghiệm tay nghề quốc tế cho thấy thường người ta đề cập tớicụm từ “ Bảo vệ môi trường ” là chính, còn so với tài nguyên thường sử dụngcụm từ “ Khai thác và sử dụng tiết kiệm chi phí tài nguyên ”, xét về thực chất kinh tế tài chính, trong toàn cảnh thể chế kinh tế thị trường, thường dùng cụm từ “ Khai thác và sửdụng hiệu suất cao tài nguyên ”. Như vậy bảo vệ tài nguyên và môi trường như thếnào là tốt nhất cần phải xem xét những phương pháp mà những vương quốc trên thế giớiđã làm, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm kinh nghiệm tay nghề cho Nước Ta làm cơ sở chođịnh hướng đúng trong chỉ huy quản lý về nghành này. I. Nhìn nhận trước đâyĐể bảo vệ tài nguyên và môi trường, kinh nghiệm tay nghề quốc tế cho thấy phảinhìn nhận một cách khá tổng lực nhìn từ góc nhìn quản trị hệ sinh thái. Ơ Mỹ từ cuối thế kỷ XIX người ta đã mở màn nhận thấy sự tiêu tốn lãng phí và sửdụng quá mức những nguồn tài nguyên vạn vật thiên nhiên, một cách tiếp cận mới trongbảo vệ tài nguyên và môi trường được sinh ra, tác giả tiên phong phải kể đến làTheodore Roosevelt, ông nhìn nhận cao về “ bảo tồn ” cần phải được ưu tiên caohơn trong hoạt động giải trí hành chính của mình, tiếp đó Gifford Pinchot, ông chủ đầutiên của cơ quan dịch vụ rừng của Mỹ đã có một cách tiếp cận mới so với tàinguyên vạn vật thiên nhiên. Mục tiêu hướng tới của ông ta là đạo đức sử dụng dựa trênthuyết vị lợi nhằm mục đích đạt được tiềm năng “ sản phẩm & hàng hóa tốt nhất với số lượng lớn nhấtcho thời hạn dài nhất ”. Đây gọi là đạo đức bảo tồn tài nguyên ( resourceconservation ecthic ), với cách nhìn nhận này, nó đã hướng dẫn rất nhiều choviệc quản trị tài nguyên vạn vật thiên nhiên trong nửa đầu thế kỷ XIX ở Mỹ. TheoPinchot, bảo tồn cũng có nghĩa là khôn ngoan và thận trọng trong việc sử dụngtài nguyên vạn vật thiên nhiên. Ông cho rằng “ Thực tế tiên phong của sự bảo tồn là chứađựng sự tăng trưởng ” và “ trách nhiệm tiên phong của con người về góc nhìn vật chấtlà trấn áp việc sử dụng toàn cầu và tổng thể những gì có trên toàn cầu ”. Với sựthúc đẩy của ông với tính hiệu suất cao và hài hòa và hợp lý trong sử dụng tài nguyên thiênnhiên cho cả thế hệ hiện tại và tương lai đã dẫn đến khái niệm mới được sửdụng trong cơ quan quản trị lâm nghiệp và đất đai ở Mỹ. Sử dụng và kiểm soátbền vững là trọng tâm trong cách nhìn nhận của Pinchot từ thế kỷ XIX ở Mỹ. Cũng trong thế kỷ XIX, một viễn cảnh nhìn nhận mới gọi là lãng mạnđạo đức bảo tồn tiêu biểu vượt trội ( romantic-transcendental conservation ethic ), trongcách nhìn nhận này cho rằng tài nguyên có những giá trị sử dụng khác, hơn cảnhững quyền lợi mà con người thu được và trong thực tiễn cho thấy tài nguyên cónhững giá trị vốn có mang tính độc lập không phụ thuộc vào vào con người. Một viễn cảnh thứ ba về quan điểm nhìn nhận của quốc tế trong thế kỷXX so với bảo vệ tài nguyên và môi trường dựa trên cơ sở hệ sinh thái, đó làtiến hóa-đạo đức đất sinh thái xanh ( evolutionary-ecological land ethic ), đã được giớithiệu bởi tác giả Aldo Leopold vào những năm thập kỷ 1930 và 1940 của thế kỷXX. Ông cho rằng cùng với sự tăng trưởng của hệ sinh thái và văn minh khoa học kỹthuật của con người, vạn vật thiên nhiên không đơn thuần là sự tích lũy những thành phầncủa chúng, một số ít được sử dụng, còn 1 số ít khác vứt bỏ dựa trên tính hữu íchcủa chúng so với con người, vạn vật thiên nhiên cũng không phải là ngôi chùa để thờcúng và không được chạm tới. Leopold cho rằng vạn vật thiên nhiên là sự cấu thànhphức tạp của những thành phần liên kết với nhau, mạng lưới hệ thống công dụng của chúng làkết quả của tiến trình biến hóa trong dài hạn. Mỗi thành phần như là cấu trúcmột bộ phận của cỗ máy mà tất cả chúng ta chưa hiểu hết, ví dụ điển hình như chính sách đấtcần sử dụng do con người, nhưng cấu trúc hầu hết của chúng không nên thayđổi một cách cơ bản. Quan điểm này được ông công bố một câu nói khá nổitiếng giống như “ Giữ từng bánh răng và bánh xe là sự phòng ngừa tiên phong củangười thợ sửa máy mưu trí ”. Vào giữa những năm 1960 – 1970, bảo vệ tài nguyên và môi trường đã cónhìn nhận sát thực hơn, quản trị tài nguyên đổi khác theo hướng vững chắc, dựatrên tiếp cận mới gắn với khai thác trong môi trường như : Giải trí, bảo tồn cácloài có rủi ro tiềm ẩn tuyệt chủng, hiệu ứng tích góp và gía trị nghệ thuật và thẩm mỹ. Những vấn đềô nhiễm không khí, nguồn nước, mất đa dạng sinh học rình rập đe dọa tới môi trườngsống của con người được quốc tế chú trọng hơn. Đến những năm thập kỷ 80 của thế kỷ XX, bảo vệ tài nguyên và môitrường tiến thêm một bước đó là lao lý mới của quốc tế về bảo tồn sinh vậtnhư là một triết lý trong thực thi quản trị hệ sinh thái. Người ta đã mở màn nhìnthấy những rối loạn của mạng lưới hệ thống tự nhiên, và đến những năm đầu thập kỷ 90 đãthay đổi cơ bản cách nhìn nhận trong bảo vệ tài nguyên và môi trường, đốitượng quản trị chính là hệ sinh thái, nhằm mục đích hướng tới “ Phát triển bền vững và kiên cố ”, lầnđầu tiên hội nghị thượng đỉnh quốc tế 1992 đã đưa ra chủ đê “ Môi trường vàphát triển ”. II. Nhìn nhận hiện nayMột trong những cách nhìn nhận mới đáng chú ý quan tâm đó là theo công điện số197 của phái đoàn thường trực CHXHCNVN tại Liên Hiệp Quốc ngày23 / 04/2012 gửi Bộ ngoại giao và Bộ Tài Nguyên Môi trường. Nhân ngày tráiđất 22/4 và tiến hành Nghị quyết 65/164 của đại Hội đồng ( ĐHĐ ) về hài hòavới vạn vật thiên nhiên do Bolivia khởi xướng, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã tổ chức triển khai thảo luậnchuyên đề “ Hài hòa với vạn vật thiên nhiên, những phát kiến khoa học về tác động ảnh hưởng củacon người so với hoạt động giải trí của mạng lưới hệ thống Trái đất ”, trong đó đề cập tới cáchnhìn nhận mới, “ Trái đất không phải là của con người mà con người thuộc vềTrái đất cùng với những sinh vật khác trong khí quyển, thủy quyển và địa quyển. Phải biến hóa quy mô tăng trưởng lúc bấy giờ của chủ nghĩa tư bản. Không thể cómô hình tăng trưởng mãi mãi mà không ảnh hưởng tác động tới bền vững và kiên cố của thiênnhiên ; Không thể xử lý yếu tố “ hài hòa với vạn vật thiên nhiên ” bằng những quy luậtcủa thị trường tự do lấy doanh thu làm tiềm năng và dựa trên thôi thúc tiêu dùng ”. Mặt khác trong công điện cũng chỉ ra từ cách nhìn nhận của Liên Hiệp Quốc so với cácquốc gia “ phải phát huy vai trò của Nhà nước trong quản trị, giám sát, điều tiết, đồng thời kiến thiết xây dựng nhận thức chung, thôi thúc sự góp phần của toàn xã hội ”, cạnh bên đó trong nội dung công điện cũng đưa ra cảnh báo nhắc nhở “ Nhà nước phải hỗtrợ và có góp vốn đầu tư thích đáng cho khoa học, chứ không phải dựa vào tư nhân. Đáng chú ý quan tâm cách nhìn nhận mới, với công bố của phó tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, đồngthời cũng là Tổng thư ký Hội nghị Liên Hiệp Quốc về tăng trưởng bền vững và kiên cố đã diễn ra tháng06 / 2012 ( RiO + 20 ) cho rằng “ đã đến lúc phải nói lời tạm biệt với quy mô pháttriển cũ của tất cả chúng ta dựa vào bóc lột tài nguyên không hiệu suất cao, tiêu tốn lãng phí, gâyhại cho tăng trưởng bền vững và kiên cố của môi trường và xã hội ”. Từ năm 2010, chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc ( UNEP ) đã cónhững tiếp cận mới trong bảo vệ tài nguyên và môi trường, đó là quản trị môitrường ( Environmental Governance ) và kinh tế tài chính xanh ( Green Economy ) nhằmthay đổi cách nhìn nhận và tiếp cận mới về tài nguyên và môi trường phù hợpvới xu thế tăng trưởng lúc bấy giờ trên quy mô toàn thế giới. Về quản trị môi trường được hiểu “ Quản trị môi trường là sự tương tácđa cấp ( địa phương, vùng, vương quốc, toàn thế giới ) giữa nhà nước, thị trường và xãhội trong tiến trình thiết kế xây dựng và triển khai những chủ trương về quản trị môi trườngnhằm đạt được sự tăng trưởng vững chắc ”, đã có nhiều vương quốc như Anh ( 2004 ), Úc ( 2009 ), những nước Đông Á ( 2009 ) … vận dụng quản trị môi trường trong quátrình thực thi chủ trương tương quan đến quản trị môi trường. Về kinh tế tài chính xanh : UNEP đã đưa ra khái niệm khởi đầu cho rằng : “ Nền kinhtế xanh là tác dụng mang lại phúc lợi cho con người và công minh xã hội, nó có ýnghĩa giảm những rủi ro đáng tiếc môi trường và khan hiếm sinh thái xanh ”. Từ khái niệm đócho thấy, tăng trưởng một nền kinh tế tài chính xanh thực ra là vì con người, đảm bảophúc lợi cao nhất, đạt tiềm năng công minh về mặt xã hội và hạn chế tối đa nhữngrủi ro cho môi trường và hệ sinh thái, tôn tạo và tăng trưởng hệ sinh thái tự nhiên. Theo kết qủa nghiên cứu và điều tra của những tác giả trong tài liệu “ Hướng tới nền kinh tếxanh ” do chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc ( UNEP ) công bố năm 2011, quy mô ngữ cảnh góp vốn đầu tư xanh với số vốn khoảng chừng 2 % GDP toàn thế giới ( Khoảng1300 tỷ USD ), trong đó khoảng chừng một phần tư của tổng số ( 0,5 % GDP ) tươngđương với số tiền 350 tỷ USD được góp vốn đầu tư cho những nghành nghề dịch vụ sử dụng nhiều vốntự nhiên như những ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, nước sạch và thủy hải sản. Trongmô hình kinh tế tài chính vĩ mô, những tác giả cũng đã thống kê giám sát và chỉ ra rằng, xét trong dàihạn, góp vốn đầu tư vào nền kinh tế tài chính xanh sẽ cải tổ hiệu suất cao kinh tế tài chính và tăng tổnglượng của cải trên toàn thế giới. Từ khởi xướng của UNEP, Trung Quốc là một trong những vương quốc tiếpcận sớm sáng tạo độc đáo này để đưa vào hoạch định chủ trương nhằm mục đích chuyển từ phươngthức tăng trưởng kinh tế tài chính kiểu tiêu tốn nhiều tài nguyên sang phương pháp pháttriển kinh tế tài chính kiểu tiết kiệm ngân sách và chi phí tài nguyên và bảo vệ môi trường. Một là, lấy việc ưu tiên tiết kiệm chi phí và hiệu suất cao làm gốc để làm nòng cốtcho việc kiến thiết xây dựng mạng lưới hệ thống kinh tế tài chính quốc dân ( KTQD ) kiểu tiết kiệm ngân sách và chi phí tài nguyêntoàn diện, nâng cao vị trí quan trọng của việc tiết kiệm ngân sách và chi phí tài nguyên trong chiếnlược tăng trưởng Kinh tế-xã hội, nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên, thêm mộtbước nữa tăng cường hướng dẫn về chủ trương cho việc tiết kiệm ngân sách và chi phí tài nguyên, rasức kiểm soát và điều chỉnh và tối ưu hóa cấu trúc ngành nghề, ra sức khai thác và phổ biếnkỹ thuật tiết kiệm chi phí tài nguyên, vô hiệu công nghệ tiên tiến và thiết bị lỗi thời, tăng cườngquản lý những khâu về sản xuất, luân chuyển, tiêu dùng tài nguyên. Hai là, lấy việc ra sức tăng trưởng kinh tế tài chính tuần hoàn, kinh tế tài chính sản sinh lượngCarbon thấp làm con đường cơ bản kiến thiết xây dựng mạng lưới hệ thống kinh tế tài chính quốc dân kiểu tiếtkiệm tài nguyên. Ba là, lấy việc tiết kiệm ngân sách và chi phí nguồn năng lượng, tiết kiệm chi phí nước, tiết kiệm chi phí nguyênliệu, tiết kiệm chi phí đất và sử dụng tổng hợp nguồn tài nguyên làm trọng điểm choviệc thiết kế xây dựng mạng lưới hệ thống kinh tế tài chính quốc dân kiểu tiết kiệm chi phí tài nguyên, cố gắng nỗ lực tiếtkiệm nguồn nguồn năng lượng, tiết kiệm ngân sách và chi phí nước, tiết kiệm ngân sách và chi phí nguyên vật liệu, tiết kiệm ngân sách và chi phí vàsử dụng hài hòa và hợp lý tài nguyên đất, thôi thúc sử dụng tổng hợp tài nguyên. Bốn là, lấy việc bảo vệ môi trường, bảo vệ bảo mật an ninh làm nhu yếu cơ bảncho việc kiến thiết xây dựng mạng lưới hệ thống KTQD kiểu tiết kiệm chi phí nguồn tài nguyên, một mặtphải kiểm soát và điều chỉnh và cải tổ cấu trúc tiêu dùng nguồn tài nguyên, nhất là kết cấutiêu dùng nguồn nguồn năng lượng, nỗ lực giảm thiểu ảnh hưởng tác động xấu của việc khai thácvà sử dụng nguồn tài nguyên so với môi trường, nỗ lực triển khai sự hòa hợpgiữa tài nguyên và môi trường ; Mặt khác, phải bảo vệ bảo mật an ninh tài nguyên, xâydựng và triển khai xong dự trữ kế hoạch dầu mỏ thích ứng với sức mạnh của đấtnước, tích cực không cho kế hoạch “ Bước ra ngoài ”, triển khai tiềm năng đadạng hóa con đường nhập khẩu nguồn nguồn năng lượng, khai thác kỹ thuật thay thếvà tiết kiệm ngân sách và chi phí dầu mỏ, bảo vệ sự phân phối dầu khí, nắm lấy thời cơ để khai thácvà sử dụng nguồn nguồn năng lượng. Thực tiễn đã góp vốn đầu tư cho kinh tế tài chính xanh cũng cho thấy, vào năm 2009 UNEPđã thống kê và thống kê giám sát Cộng đồng chấu Âu và Bắc Mỹ đã góp vốn đầu tư vào xây dựngcác tòa nhà xanh và tạo ra được khoảng chừng 2-3, 5 triệu việc làm, riêng Trung Quốcđầu tư vào nghành nghề dịch vụ tái chế và nguồn năng lượng tái tạo đã tạo ra 10 triệu việc làm vàdoanh thu khoảng chừng 17 tỷ đô la Mỹ / năm. Đối với những nước đang tăng trưởng, theođánh giá của ngân hàng nhà nước quốc tế ( WB ), nhu yếu góp vốn đầu tư tăng trưởng cơ sở hạ tầngcho kinh tế tài chính xanh như những ngành kiến thiết xây dựng, nguồn năng lượng, giao thông vận tải vận tải đường bộ có thểlên tới 563 tỷ đô la Mỹ vào năm 2030 và 100 tỷ đô la Mỹ cho thích ứng với biếnđổi khí hậu. Như vậy so với mức độ góp vốn đầu tư toàn thế giới, góp vốn đầu tư cho kinhtế xanh và thích ứng biến đổi khí hậu ở những nước đang tăng trưởng chiếmkhoảng 50 % tổng nguồn vốn góp vốn đầu tư vào kinh tế tài chính xanh của toàn cấu. Ơ Mỹ, kể từ sau khủng hoảng cục bộ kinh tế tài chính năm 2008 đang có một sự xemxét lại quy đổi phương pháp tăng trưởng kinh tế tài chính nhằm mục đích thôi thúc tăng trưởngkinh tế, tăng việc làm, vận dụng kế hoạch “ Tái công nghiệp hóa ”. Tháng 11 năm 2009 tổng thống Obama đưa ra quy mô tăng trưởng của Mỹ phải chuyểnsang quy mô tăng trưởng bền vững và kiên cố. Trong kế hoạch “ Tái công nghiệp hóa ” cho quá trình 10 năm tới nhằm mục đích tăng trưởng công nghệ tiên tiến mới dự kiến đầu tư15. 000.000 USD tương hỗ cho những nguồn nguồn năng lượng mới, khuyến khích cácdoanh nghiệp thay đổi công nghệ tiên tiến, tiết kiệm ngân sách và chi phí nguồn năng lượng, nhất là những doanhnghiệp vừa và nhỏ, Mỹ muốn trở thành nhà chỉ huy sạch trong công nghệ tiên tiến. Hướng tiếp cận mới theo cách “ Kinh tế những bon thấp ”, giảm thiểu phát thải khínhà kính. Cách tiếp cận ở Mỹ luôn lấy tiêu chuẩn hiệu suất cao Kinh tế để thực thichính sách, động lực thị trường thôi thúc thay đổi công nghệ tiên tiến. Thực thi bảo vệmôi trường có khoa học và kế hoạch rõ ràng chia theo tiến trình, trước hết ngườidân phải hiểu, thứ đến phải có can thiệp khoa học và ở đầu cuối thực thi theochương trình kế hoạch đã có. Tuy nhiên tuỳ theo đặc trưng từng vùng có kếhoạch khác nhau, ví dụ vùng cần bảo vệ nguồn nước có chương trình riêng củalĩnh vực này, bảo vệ đất hay duy trì đa dạng sinh học có chương trình cụ thểthích hợp cho từng loại đất. Trong nông nghiệp, sản xuất mẫu sản phẩm hữu cơ vàkết hợp nhiều loại loại sản phẩm khác nhau trong một trang trại sản xuất được chủtrang trại phát huy cao độ. Cây trồng vật nuôi được phối hợp và tương thích với đặcđiểm sinh thái xanh của nơi sản xuất, duy trì chất lượng đất. Tại trang trại sản xuấtnông nghiệp, xu thế tiết kiệm ngân sách và chi phí nguồn năng lượng, sử dụng nguồn năng lượng mặt trời kháphổ biến. Chủ trang trại luôn thống kê giám sát hiệu suất cao kinh tế tài chính của những giải pháp sảnxuất và tiêu thụ loại sản phẩm, gắn sản xuất với tiêu thụ trải qua việc hoàn thiệnsản phẩm từ khâu thu hoạch đến đóng gói, đưa trực tiếp loại sản phẩm tới những siêuthị để đến người tiêu dùng nhanh nhất, hạn chế ngân sách qua trung gian, tăng lợinhuận. Việc sử dụng hầm Biogas, trợ cấp cho nguồn năng lượng sạch được thực thi ởcác vùng sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi quy mô lớn. Cơ quan dịch vụ sảnxuất nông trại – FSA ( Farm Service Agency ) khuyến khích trang trại không sửdụng hoá chất diệt côn trùng nhỏ và những dịch vụ tương hỗ khoa học kỹ thuật khác. Trong công nghiệp, yếu tố được chú trọng nhất là tiết kiệm ngân sách và chi phí nguồn năng lượng và sửdụng nguồn năng lượng sửa chữa thay thế nhằm mục đích hạn chế sử dụng nguyên vật liệu hoá thạch. Để quyếtđịnh lựa chọn theo hướng nào, bài toán kinh tế tài chính được đo lường và thống kê theo quản lý và vận hành củacơ chế thị trường theo giải pháp trước mắt và dài hạn. Xu hướng sử dụng nănglượng mặt trời từ việc sản xuất ra nhiều tấm pin đã và đang được tiến hành, hiệnnay có khoảng chừng 22 thành phố đã sản xuất và sử dụng, không riêng gì xử lý côngăn việc làm, mà còn tiết kiệm ngân sách và chi phí nguồn năng lượng, mang lại hiệu suất cao và tiếp cận theohướng cac bon thấp. Những nơi chịu nhiều rủi ro đáng tiếc của vạn vật thiên nhiên và con ngườinhư New Olean, sau cơn bão Cachina, nhiều vùng không có người quay lại sinhsống ở những ngôi nhà cũ. Chính quyền địa phương đã thiết lập lại quy hoạch khudân cư mới với nguồn góp phần vốn của cơ quan chính phủ, hội đồng và những nhà tàitrợ khác, quy hoạch mới tính tới ảnh hưởng tác động của bão, lụt và tương thích hơn vớiđiều kiện sinh thái xanh tự nhiên của vùng. Từ hướng tiếp cận kinh tế tài chính Cac bon thấp, so với tăng trưởng đô thị, những khu đô thị mới, ví dụ điển hình khu vực trường bay cũnay không còn sử dụng ở gần thành phố Austin thuộc bang Taxes, được quyhoạch lại quy đổi sang tăng trưởng khu dân cư sinh sống, một tổ chức triển khai phi lợinhuận với sự hỗ trợ vốn của nhà nước và tham gia của nhiều doanh nghiệp, tiếnhành quy hoạch, phong cách thiết kế những ngôi nhà và hàng loạt khu dân cư thân thiện môitrường, những ngôi nhà xanh được hình thành ( Green houses ). Những ngôi nhà đóso với những kiểu nhà trước đây sẽ tiết kiệm ngân sách và chi phí nguồn năng lượng nhiều hơn, sử dụng nănglượng mặt trời, mang lại quyền lợi nhiều hơn cho chủ hộ sử dụng. Hệ thống hạ tầngđồng bộ từ đường sá, thu gom phân loại và giải quyết và xử lý rác, những công nghệ tiên tiến mới đượcđưa vào ngôi nhà, khoảng trống xanh tương thích. Khái niệm “ Nhà không dây điện ” đã Open. Xu hướng mới thiết kế xây dựng nhà văn phòng cũng đã được phong cách thiết kế và xâydựng ở thành phố Austin, thuộc bang Texat, một ngôi nhà văn phòng được thiết kếtheo dạng ngôi nhà xanh, tiết kiệm chi phí nguồn năng lượng, sử dụng được nước mưa thiênnhiên, những đồ vật trang trí tận dụng chất thải và nhiều ý tưởng sáng tạo khác đượcđưa vào là hướng tiếp cận mới đã được thực thi ở Mỹ. Hệ thống giao thông vận tải, nhất là so với những đường cao tốc quy hoạch giải ngăn cách xanh là nhu yếu bắtbuộc. Mặc dù cách xử lý ở Mỹ theo kiểu “ Kinh tế Các bon thấp ”, nhưngvới cách tiếp cận đó cũng là nội dung hướng tới tăng trưởng “ Nền kinh tế tài chính xanh ”. Các nước Tây Âu và Nhật bản, xu thế tăng trưởng cũng hướng tới “ Nềnkinh tế sạch ”, “ Kinh tế Cac bon thấp ” và tăng trưởng “ Nền kinh tế tài chính xanh ”, cácnước này đã trải qua một thời kỳ dài của quy trình công nghiệp hóa và cũng đãphải trả giá cho suy giảm tài nguyên và chất lượng môi trường. Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX, khuynh hướng tăng trưởng đã có sự đổi khác, quan điểm thân thiện vớimôi trường và duy trì hệ sinh thái tự nhiên trải qua quy đổi quy mô pháttriển góp vốn đầu tư vào khoa học công nghệ tiên tiến, giải quyết và xử lý ô nhiễm, giảm thiểu, tái chế và tái sửdụng chất thải ( 3R ). Hiện nay đang hướng tới lộ trình triển khai và thôi thúc cácngành sản xuất sạch và tăng trưởng những ngành cac bon thấp mới hình thành, nằmtrong mạng lưới hệ thống kinh tế tài chính toàn thế giới của nhóm nước công nghiệp tăng trưởng ( OECD ), Tây Âu ra sức thôi thúc đưa những chỉ tiêu về cac bon thấp vào mạng lưới hệ thống quy địnhquốc tế, với sự sinh ra của tiêu chuẩn ghi nhận quốc tế về “ Dấu chân cac bon ” đã mở màn cho quy trình này. Còn Nhật bản tích cực khuynh hướng giảm thiểu cacbon trải qua Nghị định thư Kyoto, triển khai triệt để kế hoạch 3R “ Giảm10thiểu, tái sử dụng và tái chế chất thải ” và tiết kiệm chi phí tài nguyên, bảo vệ môitrường. EU dự kiến trước năm 2013 sẽ góp vốn đầu tư 105.000.000.000 € để tăng trưởng “ nền kinh tế tài chính sạch ”. Còn Nhật bản từ cuối năm 2009 phát động kế hoạch tăngtrưởng mới, tập trung chuyên sâu vào hai ngành công nghiệp mới là ngành môi trường vànăng lượng, ngành y tế, với việc góp vốn đầu tư vào hai ngành này dự kiến đến năm2020 tạo ra thị trường mới tương tự 1 triệu tỷ Yên. Ở Autralia, bảo vệ tàinguyên và môi cơ bản dựa trên đặc trưng của hệ sinh thái, dựa trên tiếp cận biênvà năng lực chịu đựng của hệ sinh thái để có giải pháp khai thác sử dụng, quyhoạch và bảo vệ hài hòa và hợp lý. Nhóm những nước mới nổi lên nhờ quy trình công nghiệp hóa như Hànquốc, Nước Singapore. Từ những năm 80 của thế kỷ XX họ không phải trả giá nhiềucho môi trường nhờ đảm nhiệm công nghệ tiên tiến mới của những nước công nghiệp pháttriển và những bài học kinh nghiệm kinh nghiệm tay nghề của những nước đó trước đây. Mô hình pháttriển của những nước này ngay từ đầu đã chú trọng tới môi trường và tiết kiệm chi phí tàinguyên, chính vì thế họ đã rút ngắn khoảng cách tăng trưởng không chỉ đạt mụctiêu kinh tế tài chính mà chú trọng tới môi trường. Hiện nay những nước này liên tục pháttriển theo khuynh hướng “ Tăng trưởng xanh ”, “ Kinh tế cac bon thấp ” và hướng tớinền kinh tế tài chính xanh. Các nước đang tăng trưởng, nhất là những nước nghèo và trình độ phát triểntrung bình ở châu Á, châu Phi và châu mỹ La Tinh. Ở những nước này trình độcông nghệ thấp hơn những nước tăng trưởng, sản xuất đa phần dựa vào nông nghiệp, khai thác và xuất khẩu thô tài nguyên vạn vật thiên nhiên, lao động giá rẻ, sẽ bị lôi kéovào xu thế tăng trưởng mới. Tuy nhiên theo nội hàm tăng trưởng “ Kinh tế xanh ”, đây sẽ là thời cơ cho những nước này tham gia để Phục hồi nguồn tài nguyên táitạo, duy trì và tăng trưởng hệ sinh thái tự nhiên và bảo vệ môi trường, tăng phúclợi và giảm nghèo. Việc tiếp cận quy mô tăng trưởng “ kinh tế tài chính xanh ” sẽ đặt ranhiều thử thách, nhất là nguồn vốn góp vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến và năng lượng thực thi. Đểvượt qua được những thử thách đó, những nước đang tăng trưởng không riêng gì phải11phát huy nội lực mà còn cần có sự trợ giúp của những nước tăng trưởng, nhất lànguồn vốn, công nghệ tiên tiến và nâng cao năng lượng thực thi. Về lý luận và thực tiễn đã cho thấy, quốc tế đang có những sự thay đổimới trong khuynh hướng tăng trưởng, nhất là sau khủng hoảng cục bộ kinh tế tài chính và suy thoáikinh tế từ năm 2008 đến nay, đó là cấu trúc lại nền kinh tế tài chính, hướng tới xây dựngmột nền kinh tế tài chính xanhIII. Từ kinh nghiệm tay nghề quốc tế, rút ra bài học kinh nghiệm cho Nước Ta trong bảovệ tài nguyên và môi trường. Để bảo vệ tài nguyên và môi trường rút ra từ những bài học kinh nghiệm kinh nghiệmcủa những vương quốc trên quốc tế, Nước Ta cần có những biến hóa trong cách tiếpcận mới sau đây. – Thứ nhất, biến hóa cách nhìn nhận mới có tính tổng hợp, bảo vệ tàinguyên và môi trường phải dựa trên cơ sở nền tảng của hệ sinh thái, nghĩa làkhông quản trị đơn lẻ một thành phần nào mà tiếp cận dựa trên tính đặc trưng củatừng hệ sinh thái để bảo vệ sự link và cân đối hòa giải của những thành phầntự nhiên trong hệ sinh thái vốn có của nó, không phá vỡ thành phần cấu trúccũng như tính năng vốn có của hệ sinh thái. Một tiếp cận quản trị mới cần dựatrên toàn cảnh mẫu của quản trị hệ sinh thái như sau. Trong đó : A là khu vực pháp luật của nha quản trị hoặc quyền lực tối cao quản trị ; B là khu vực nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội trong tăng trưởng kinh tế tài chính ; C là khu vực tác động ảnh hưởng ; D là khu vực những bên đều có lợi ( win-win-win partnerships ). 12 – Thứ hai, đổi khác phương pháp nhìn nhận trong quản trị so với bảo vệ tàinguyên và môi trường so với trước đây giữa cách nhìn nhận quản trị truyềnthống với cách nhìn nhận quản trị mới so với hệ sinh thái biểu lộ quan bảng sosánh sau đây. C : KẾT LUẬNHiện nay yếu tố bảo vệ môi trường luôn là mối chăm sóc số 1 củanhiều vương quốc trên quốc tế. Như sự kiện “ Giờ Trái Đất ” khi toàn bộ những nướccùng hưởng ứng việc tắt đèn vì môi trường. Được tổ chức triển khai vài năm gần đây vàđược nhiều nước ủng hộ như Mỹ, Sydney, Anh, London, Bangkok, Vương Quốc của nụ cười, Chicago để lôi kéo mọi người trên toàn quốc tế hãy tắt điện và những thiết bị điệntrong vòng một giờ. Do hiểu biết của con người được nâng cao và tính cấp thiết của việc bảovệ môi trường cho nên vì thế thời nay đã có rất nhiều chương trình, những dự án Bất Động Sản như “ hành trình dài xanh ”, “ ngày môi trường quốc tế ”, được mở ra nhằm mục đích bảo vệ môitrường và tuyên truyền giúp mọi người hiểu tầm quan trọng của yếu tố bảo vệmôi trường. Vấn đề bảo vệ môi trường không còn là yếu tố riêng của mỗi conngười, mỗi vương quốc mà nó là yếu tố chung cấp bách của toàn trái đất, toànthể những nước trên quốc tế để bảo vệ chung ngôi nhà của tất cả chúng ta luôn đượcxanh sạch sẽ và đẹp mắt. Tuy nhiên, bên cạnh những hành vi thiết thực góp thêm phần cải13thiện môi trường thì vẫn còn rất nhiều hành vi của con người vẫn diễn ratừng ngày gây tác động ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường như : chặt phá rừng bừabãi, xả thác bừa bãi ra môi trường, những chất thải, khí độc không được xử lí màthải trực tiếp ra môi trường … Vấn đề bảo vệ môi trường cũng đặt ra yếu tố đó là sự chung tay, góp sứccùng nhau đoàn kết giữa những vương quốc trên quốc tế. Vấn đề môi trường khôngphải là yếu tố nhỏ, ngày một ngày hai xử lý là xong mà nhu yếu tổng thể cácnước cùng hợp tác với nhau thì mới đạt tác dụng tốt nhất. Chúng ta cần nỗ lựcnhiều hơn nữa trong việc xử lý và bảo vệ những yếu tố môi trường, hạn chếnán phá rừng, xử lí rác thải, chất ô nhiễm, nguồn nước trước khi xả ra môi trườngbên ngoài … nâng cao ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người. 14