29 KỸ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC
Kỹ thuật dạy học là những giải pháp, phương pháp hành vi của của giáo viên và học viên trong những trường hợp hành vi nhỏ nhằm mục đích triển khai và tinh chỉnh và điều khiển quy trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học là những đơn vị chức năng nhỏ nhất của chiêu thức dạy học. Có những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ thuật đặc trưng của từng chiêu thức dạy học, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay người ta chú trọng tăng trưởng và sử dụng những kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, phát minh sáng tạo của người học như “ động não ”, “ tia chớp ”, “ bể cá ”, XYZ, Bản đồ tư duy …
Các kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ thuật dạy học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát huy sự tham gia tích cực của HS vào quy trình dạy học, kích thích tư duy, sự phát minh sáng tạo và sự cộng tác thao tác của HS .
Các kỹ thuật dạy học tích cực được trình bày sau đây có thể được áp dụng thuận lợi trong làm việc nhóm. Tuy nhiên chúng cũng có thể được kết hợp thực hiện trong các hình thức dạy học toàn lớp.
Kỹ thuật “ khăn trải bàn ”
Thế nào là kĩ thuật “khăn trải bàn”?
Là hình thức tổ chức triển khai hoạt động giải trí mang tính hợp tác tích hợp giữa hoạt động giải trí cá thể và hoạt động giải trí nhóm nhằm mục đích :
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS
- Phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS
Cách tiến hành kĩ thuật “Khăn trải bàn”
- Hoạt động theo nhóm (4 người / nhóm) (có thể nhiều người hơn)
- Mỗi người ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa
- Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,…)
- Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về chủ đề…). Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút
- Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và thống nhất các câu trả lời
- Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn trải bàn (giấy A0)
Một vài ý kiến về kĩ thuật “Khăn trải bàn”
- Kĩ thuật này giúp cho hoạt động nhóm có hiệu quả hơn, mỗi học sinh đều phải đưa ra ý kiến của mình về chủ đề đang thảo luận, không ỷ lại vào các bạn học khá, giỏi.
- Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với một chủ đề nhỏ trong tiết học, toàn thể học sinh cùng nghiên cứu một chủ đề.
- Sau khi các nhóm hoàn tất công việc giáo viên có thể gắn các mẫu giấy “khăn trải bàn” lên bảng để cả lớp cùng nhận xét. Có thể dùng giấy nhỏ hơn, dùng máy chiếu phóng lớn
- Có thể thay số bằng tên của học sinh để sau đó giáo viên có thể đánh giá được khả năng nhận thức của từng học sinh về chủ đề được nêu.
Kỹ thuật “động não”
1. Khái niệm:
Động não ( công não ) là một kỹ thuật nhằm mục đích kêu gọi những tư tưởng mới lạ, độc lạ về một chủ đề của những thành viên trong luận bàn. Các thành viên được cổ vũ tham gia một cách tích cực, không hạn chế những ý tưởng sáng tạo ( nhằm mục đích tạo ra “ cơn lốc ” những ý tưởng sáng tạo ). Kỹ thuật động não do Alex Osborn ( Mỹ ) tăng trưởng, dựa trên một kỹ thuật truyền thống lịch sử từ Ấn độ .
2. Quy tắc của động não
- Không đánh giá và phê phán trong quá trình thu thập ý tưởng của các thành viên;
- Liên hệ với những ý tưởng đã được trình bày;
- Khuyến khích số lượng các ý tưởng;
- Cho phép sự tưởng tượng và liên tưởng.
Các bước tiến hành
- Người điều phối dẫn nhập vào chủ đề và xác định rõ một vấn đề;
- Các thành viên đưa ra những ý kiến của mình: trong khi thu thập ý kiến, không đánh giá, nhận xét. Mục đích là huy động nhiều ý kiến tiếp nối nhau;
- Kết thúc việc đưa ra ý kiến;
- Đánh giá:
- Lựa chọn sơ bộ các suy nghĩ, chẳng hạn theo khả năng ứng dụng
- Có thể ứng dụng trực tiếp;
- Có thể ứng dụng nhưng cần nghiên cứu thêm;
- Không có khả năng ứng dụng.
- Đánh giá những ý kiến đó lựa chọn* Rút ra kết luận hành động.
3. Ứng dụng
- Dùng trong giai đoạn nhập đề vào một chủ đề;
- Tìm các phương án giải quyết vấn đề;
- Thu thập các khả năng lựa chọn và ý nghĩ khác nhau.
4. Ưu điểm
- Dễ thực hiện;
- Không tốn kém;
- Sử dụng được hiệu ứng cộng hưởng, huy động tối đa trí tuệ của tập thể;
- Huy động được nhiều ý kiến;
- Tạo cơ hội cho tất cả thành viên tham gia.
5. Nhược điểm
- Có thể đi lạc đề, tản mạn;
- Có thể mất thời gian nhiều trong việc chọn các ý kiến thích hợp;
- Có thể có một số HS “quá tích cực”, số khác thụ động. Kỹ thuật động não được áp dụng phổ biến và nguời ta xây dựng nhiều kỹ thuật khác dựa trên kỹ thuật này, có thể coi là các dạng khác nhau của kỹ thuật động não.
Kỹ thuật XYZ
là một kỹ thuật nhằm mục đích phát huy tính tích cực trong tranh luận nhóm. X là số người trong nhóm, Y là số quan điểm mỗi người cần đưa ra, Z là phút dành cho mỗi người .
Ví dụ kỹ thuật 635 thực thi như sau :
- Mỗi nhóm 6 người, mỗi người viết 3 ý kiến trên một tờ giấy trong vòng 5 phút về cách giải quyết 1 vấn đề và tiếp tục chuyển cho người bên cạnh;
- Tiếp tục như vậy cho đến khi tất cả mọi người đều viết ý kiến của mình, có thể lặp lại vòng khác;
- Con số X-Y-Z có thể thay đổi;
- Sau khi thu thập ý kiến thì tiến hành thảo luận, đánh giá các ý kiến.
Kỹ thuật “bể cá”
là một kỹ thuật dùng cho đàm đạo nhóm, trong đó một nhóm HS ngồi giữa lớp và luận bàn với nhau, còn những HS khác trong lớp ngồi xung quanh ở vòng ngoài theo dõi cuộc đàm đạo đó và sau khi kết thúc cuộc tranh luận thì đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những HS luận bàn .
Trong nhóm luận bàn hoàn toàn có thể có một vị trí không có người ngồi. HS tham gia nhóm quan sát hoàn toàn có thể ngồi vào chỗ đó và góp phần quan điểm vào cuộc bàn luận, ví dụ đưa ra một câu hỏi so với nhóm tranh luận hoặc phát biểu quan điểm khi cuộc bàn luận bị chững lại trong nhóm. Cách rèn luyện này được gọi là chiêu thức bàn luận “ bể cá ”, vì những người ngồi vòng ngoài hoàn toàn có thể quan sát những người bàn luận, tương tự như như xem những con cá trong một bể cá cảnh. Trong quy trình đàm đạo, những người quan sát và những người đàm đạo sẽ biến hóa vai trò với nhau .
Bảng câu hỏi dành cho những người quan sát
- Người nói có nhìn vào những người đang nói với mình không?
- Họ có nói một cách dễ hiểu không?
- Họ có để những người khác nói hay không?
- Họ có đưa ra được những luận điểm đáng thuyết phục hay không?
- Họ có đề cập đến luận điểm của người nói trước mình không?
- Họ có lệch hướng khỏi đề tài hay không?
- Họ có tôn trọng những quan điểm khác hay không?
Kỹ thuật “ổ bi”
là một kỹ thuật dùng trong bàn luận nhóm, trong đó HS chia thành hai nhóm ngồi theo hai vòng tròn đồng tâm như hai vòng của một ổ bi và đối lập nhau để tạo điều kiện kèm theo cho mỗi HS hoàn toàn có thể trò chuyện với lần lượt những HS ở nhóm khác .
Cách triển khai :
- Khi thảo luận, mỗi HS ở vòng trong sẽ trao đổi với HS đối diện ở vòng ngoài, đây là dạng đặc biệt của phương pháp luyện tập đối tác;
- Sau một ít phút thì HS vòng ngoài ngồi yên, HS vòng trong chuyển chỗ theo chiều kim đồng hồ, tương tự như vòng bi quay, để luôn hình thành các nhóm đối tác mới.
Kỹ thuật tranh luận ủng hộ – phản đối
Tranh luận ủng hộ – phản đối ( tranh luận chia phe ) là một kỹ thuật dùng trong luận bàn, trong đó đề cập về một chủ đề có tiềm ẩn xung đột. Những quan điểm khác nhau và những quan điểm trái chiều được đưa ra tranh luận nhằm mục đích mục tiêu xem xét chủ đề dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Mục tiêu của tranh luận không phải là nhằm mục đích “ vượt mặt ” quan điểm trái chiều mà nhằm mục đích xem xét chủ đề dưới nhiều phương diện khác nhau .
Cách thực thi :
- Các thành viên được chia thành hai nhóm theo hai hướng ý kiến đối lập nhau về một luận điểm cần tranh luận. Việc chia nhóm có thể theo nguyên tắc ngẫu nhiên hoặc theo nguyên vọng của các thành viên muốn đứng trong nhóm ủng hộ hay phản đối.
- Một nhóm cần thu thập những lập luận ủng hộ, còn nhóm đối lập thu thập những luận cứ phản đối đối với luận điểm tranh luận.
- Sau khi các nhóm đã thu thập luận cứ thì bắt đầu thảo luận thông qua đại diện của hai nhóm. Mỗi nhóm trình bày một lập luận của mình: Nhóm ủng hộ đưa ra một lập luận ủng hộ, tiếp đó nhóm phản đối đưa ra một ý kiến phản đối và cứ tiếp tục như vậy. Nếu mỗi nhóm nhỏ hơn 6 người thì không cần đại diện mà mọi thành viên có thể trình bày lập luận.
- Sau khi các lập luận đã đưa ra thì tiếp theo là giai đoạn thảo luận chung và đánh giá, kết luận thảo luận.
Kỹ thuật thông tin phản hồi trong quá trình dạy học
tin tức phản hồi trong quy trình dạy học là GV và HS cùng nhận xét, nhìn nhận, đưa ra quan điểm so với những yếu tố đơn cử có ảnh hưởng tác động tới quy trình học tập nhằm mục đích mục tiêu là kiểm soát và điều chỉnh, hợp lí hoá quy trình dạy và học .
Những đặc thù của việc đưa ra thông tin phản hồi tích cực là :
- Có sự cảm thông;
- Có kiểm soát;
- Được người nghe chờ đợi;
- Cụ thể;
- Không nhận xét về giá trị;
- Đúng lúc;
- Có thể biến thành hành động;
- Cùng thảo luận, khách quan.
Sau đây là những quy tắc trong việc đưa thông tin phản hồi :
- Diễn đạt ý kiến của Ông/Bà một cách đơn giản và có trình tự (không nói quá nhiều);
- Cố gắng hiểu được những suy tư, tình cảm (không vội vã);
- Tìm hiểu các vấn đề cũng như nguyên nhân của chúng;
- Giải thích những quan điểm không đồng nhất;
- Chấp nhận cách thức đánh giá của người khác;
- Chỉ tập trung vào những vấn đề có thể giải quyết được trong thời điểm thực tế;
- Coi cuộc trao đổi là cơ hội để tiếp tục cải tiến;
Chỉ ra các khả năng để lựa chọn. Có nhiều kỹ thuật khác nhau trong việc thu nhận thông tin phản hồi trong dạy học. Ngoài việc sử dụng các phiếu đánh giá, sau đây là một số kỹ thuật có
Kỹ thuật tia chớp
Kỹ thuật tia chớp là một kỹ thuật kêu gọi sự tham gia của những thành viên so với một câu hỏi nào đó, hoặc nhằm mục đích thu thông tin phản hồi nhằm mục đích cải tổ thực trạng tiếp xúc và không khí học tập trong lớp học, trải qua việc những thành viên lần lượt nêu ngắn gọn và nhanh gọn ( nhanh như chớp ! ) quan điểm của mình về câu hỏi hoặc thực trạng yếu tố .
Quy tắc thực thi :
- Có thể áp dụng bất cứ thời điểm nào khi các thành viên thấy cần thiết và đề nghị;
- Lần lượt từng người nói suy nghĩ của mình về một câu hỏi đã thoả thuận, ví dụ: Hiện tại tôi có hứng thú với chủ đề thảo luận không?
- Mỗi người chỉ nói ngắn gọn 1-2 câu ý kiến của mình;
- Chỉ thảo luận khi tất cả đã nói xong ý kiến.
- thể áp dụng trong dạy học nói chung và trong thu nhận thông tin phản hồi.
Kỹ thuật “3 lần 3”
Kỹ thuật “ 3 lần 3 “ là một kỹ thuật lấy thông tin phản hồi nhằm mục đích kêu gọi sự tham gia tích cực của HS .
Cách làm như sau :
- HS được yêu cầu cho ý kiến phản hồi về một vấn đề nào đó (nội dung buổi thảo luận, phương pháp tiến hành thảo luận…).
- Mỗi người cần viết ra: – 3 điều tốt; – 3 điều chưa tốt; – 3 đề nghị cải tiến.
- Sau khi thu thập ý kiến thì xử lý và thảo luận về các ý kiến phản hồi.
Kỹ thuật lược đồ tư duy
1. Khái niệm
Lược đồ tư duy ( còn được gọi là map khái niệm ) là một sơ đồ nhằm mục đích trình diễn một cách rõ ràng những ý tưởng sáng tạo mang tính kế hoạch hay hiệu quả thao tác của cá thể hay nhóm về một chủ đề. Lược đồ tư duy hoàn toàn có thể được viết trên giấy, trên bản trong, trên bảng hay thực thi trên máy tính .
2. Cách làm
- Viết tên chủ đề ở trung tâm, hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề.
- Từ chủ đề trung tâm, vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết một khái niệm, phản ánh một nội dung lớn của chủ đề, viết bằng CHỮ IN HOA. Nhánh và chữ viết trên đó được vẽ và viết cùng một màu. Nhánh chính đó được nối với chủ đề trung tâm. Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng để viết trên các nhánh.
- Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc nhánh chính đó. Các chữ trên nhánh phụ được viết bằng chữ in thường.
- Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
3. Ứng dụng
Lược đồ tư duy hoàn toàn có thể ứng dụng trong nhiều trường hợp khác nhau như :
- Tóm tắt nội dung, ôn tập một chủ đề;
- Trình bày tổng quan một chủ đề;
- Chuẩn bị ý tưởng cho một báo cáo hay buổi nói chuyện, bài giảng;
- Thu thập, sắp xếp các ý tưởng;
- Ghi chép khi nghe bài giảng.
4. Ưu điểm
- Các hướng tư duy được để mở ngay từ đầu;
- Các mối quan hệ của các nội dung trong chủ đề trở nên rõ ràng;
- Nội dung luôn có thể bổ sung, phát triển, sắp xếp lại;
- Học sinh được luyện tập phát triển, sắp xếp các ý tưởng.
Kỹ thuật KWL – KWLH
KWL do Donna Ogle ra mắt năm 1986, vốn là một hình thức tổ chức triển khai dạy học hoạt động giải trí đọc hiểu. Học sinh mở màn bằng việc động não tổng thể những gì những em đã biết về chủ đề bài đọc. Thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột K của biểu đồ. Sau đó học
sinh nêu lên list những câu hỏi về những điều những em muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận vào cột W của biểu đồ. Trong quy trình đọc hoặc sau khi đọc xong, những em sẽ tự vấn đáp cho những câu hỏi ở cột W. Những thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L. ( Trích từ Ogle, D.M. ( 1986 ). K-W-L : A teaching Model that develops active reading of expository text. Reading Teacher, 39, 564 – 570 )
Biểu đồ KWL
Mục đích sử dụng biểu đồ KWL
Biểu đồ KWL Giao hàng cho những mục tiêu sau :
- Tìm hiểu kiến thức có sẵn của học sinh về bài đọc
- Đặt ra mục tiêu cho hoạt động đọc
- Giúp học sinh tự giám sát quá trình đọc hiểu của các em
- Cho phép học sinh đánh giá quá trình đọc hiểu của các em.
- Tạo cơ hội cho học sinh diễn tả ý tưởng của các em vượt ra ngoài khuôn khổ bài đọc.
Sử dụng biểu đồ KWL như thế nào
1. Chọn bài đọc. Phương pháp này đặc biệt quan trọng có hiệu suất cao với những bài đọc mang ý nghĩa gợi mở, khám phá, lý giải
2. Tạo bảng KWL. Giáo viên vẽ một bảng lên bảng, ngoài những, mỗi học viên cũng có một mẫu bảng của những em. Có thể sử dụng mẫu sau .
3. Đề nghị học viên động não nhanh và nêu ra những từ, cụm từ có tương quan đến chủ đề. Cả giáo viên và học viên cùng ghi nhận hoạt động giải trí này vào cột K. Hoạt động này kết thúc khi học viên đã nêu ra toàn bộ những sáng tạo độc đáo. Tổ chức cho học viên luận bàn về những gì những em đã ghi nhận .
Một số lưu ý tại cột K
Chuẩn bị những câu hỏi để giúp học viên động não. Đôi khi để khởi động, học viên cần nhiều hơn là chỉ đơn thuần nói với những em : “ Hãy nói những gì những em đã biết về … ”
Khuyến khích học viên lý giải. Điều này rất quan trọng vì đôi lúc những điều những em nêu ra hoàn toàn có thể là mơ hồ hoặc không thông thường .
4. Hỏi học sinh xem các em muốn biết thêm điều gì về chủ đề. Cả giáo viên và học sinh ghi nhận câu hỏi vào cột W. Hoạt động này kết thúc khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Nếu học sinh trả lời bằng một câu phát biểu bình thường, hãy biến nó thành câu hỏi trước khi ghi nhận vào cột W.
Một số lưu ý tại cột W
Hỏi những câu hỏi tiếp nối và gợi mở. Nếu chỉ hỏi những em : “ Các em muốn biết thêm điều gì về chủ đề này ? ” Đôi khi học viên vấn đáp đơn thuần “ không biết ”, vì những em chưa có ý tưởng sáng tạo. Hãy thử sử dụng 1 số ít câu hỏi sau :
“ Em nghĩ mình sẽ biết thêm được điều gì sau khi em đọc chủ đề này ? ”
Chọn một ý tưởng sáng tạo từ cột K và hỏi, “ Em có muốn tìm hiểu và khám phá thêm điều gì có tương quan đến sáng tạo độc đáo này không ? ”
Chuẩn bị sẵn 1 số ít câu hỏi của riêng bạn để bổ trợ vào cột W. Có thể bạn mong ước học viên tập trung chuyên sâu vào những sáng tạo độc đáo nào đó, trong khi những câu hỏi của học viên lại không mấy tương quan đến ý tưởng sáng tạo chủ yếu của bài đọc. Chú ý là không được thêm quá nhiều câu hỏi của bạn. Thành phần chính trong cột W vẫn là những câu hỏi của học viên .
5. Yêu cầu học viên đọc và tự điền câu vấn đáp mà những em tìm được vào cột L. Trong quy trình đọc, học viên cũng đồng thời tìm ra câu vấn đáp của những em và ghi nhận vào cột W .
Học sinh hoàn toàn có thể điền vào cột L trong khi đọc hoặc sau khi đã đọc xong .
Một số lưu ý tại cột L
Ngoài việc bổ trợ câu vấn đáp, khuyến khích học viên ghi vào cột L những điều những em cảm thấy thích. Để phân biệt, hoàn toàn có thể ý kiến đề nghị những em ghi lại những sáng tạo độc đáo của những em. Ví dụ những em hoàn toàn có thể đánh dấu tích vào những ý tưởng sáng tạo vấn đáp cho câu hỏi ở cột W, với những sáng tạo độc đáo những em thích, hoàn toàn có thể lưu lại sao .
Đề nghị học viên tìm kiếm từ những tài liệu khác để vấn đáp cho những câu hỏi ở cột W mà bài đọc không phân phối câu vấn đáp. ( Không phải toàn bộ những câu hỏi ở cột W đều được bài đọc vấn đáp hoàn hảo )
6. Thảo luận những thông tin được học viên ghi nhận ở cột L
7. Khuyến khích học viên điều tra và nghiên cứu thêm về những câu hỏi mà những em đã nêu ở cột W nhưng chưa tìm được câu vấn đáp từ bài đọc .
Một ví dụ về biểu đồ KWL
Chủ đề bài đọc : Trọng lực
Câu hỏi của học viên về Newton ở cột W không có câu vấn đáp trong bài đọc, học viên sẽ được khuyến khích tìm kiếm câu vấn đáp từ những tài nguyên khác .
Biểu đồ KWLH
Xuất phát từ biểu đồ KWL, Ogle bổ trợ thêm cột H ở ở đầu cuối, với nội dung khuyến khích học viên xu thế điều tra và nghiên cứu. Sau khi học viên đã hoàn tất nội dung ở cột L, những em hoàn toàn có thể muốn tìm hiểu và khám phá thêm về một thông tin. Các em sẽ nêu giải pháp để tìm thông tin lan rộng ra. Những giải pháp này sẽ được ghi nhận ở cột H .
Một ví dụ về biểu đồ K-W-L-H
Chủ đề : Khủng long
Lưu ý
- Chuẩn bị những câu hỏi để giúp học sinh động não. Đôi khi để khởi động, học sinh cần nhiều hơn là chỉ đơn giản nói với các em : “Hãy nói những gì các em đã biết về…”
- Khuyến khích học sinh giải thích. Điều này rất quan trọng vì đôi khi những điều các em nêu ra có thể là mơ hồ hoặc không bình thường.
- Hỏi những câu hỏi tiếp nối và gợi mở. Nếu chỉ hỏi các em : “Các em muốn biết thêm điều gì về chủ đề này?” – đôi khi học sinh trả lời đơn giản “không biết”, vì các em chưa có ý tưởng.
- Chuẩn bị sẵn một số câu hỏi của riêng bạn để bổ sung vào cột W. Có thể bạn mong muốn học sinh tập trung vào những ý tưởng nào đó, trong khi các câu hỏi của học sinh lại không mấy liên quan đến ý tưởng chủ đạo của bài đọc. Chú ý là không được thêm quá nhiều câu hỏi của bạn. Thành phần chính trong cột W vẫn là những câu hỏi của học sinh.
- Ngoài việc bổ sung câu trả lời, khuyến khích học sinh ghi vào cột L những điều các em cảm thấy thích. Để phân biệt, có thể đề nghị các em đánh dấu những ý tưởng của các em.
- Khuyến khích học sinh nghiên cứu thêm về những câu hỏi mà các em đã nêu ở cột W nhưng chưa tìm được câu trả lời từ bài đọc.
Ưu điểm
- Tạo hứng thú học tập cho học sinh, khi những điều các em cần học có liên quan trực tiếp đến nhu cầu về kiến thức của các em.
- Giúp học sinh dần dần hình thành khả năng tự định hướng học tập, nắm được cách học không chỉ cho môn đọc hiểu mà cho các môn học khác.
- Giúp giáo viên và học sinh tự đánh giá kết quả học tập, định hướng cho các hoạt động học tập kế tiếp.
Hạn chế
Sơ đồ cần phải được tàng trữ cẩn trọng sau khi hoàn thành xong hai bước K và W, vì bước L hoàn toàn có thể sẽ phải mất một thời hạn dài mới hoàn toàn có thể liên tục thực thi .
Kỹ thuật chia sẻ nhóm đôi
Chia sẻ nhóm đôi ( Think, Pair, Share ) là một kỹ thuật do giáo sư Frank Lyman ĐH Maryland trình làng năm 1981. Kỹ thuật này ra mắt hoạt động giải trí thao tác nhóm đôi, tăng trưởng năng lượng tư duy của từng cá thể trong xử lý yếu tố .
Dụng cụ:
Hoạt động này tăng trưởng kỹ năng và kiến thức nghe và nói nên không thiết yếu sử dụng những dụng cụ tương hỗ .
Thực hiện:
- Giáo viên giới thiệu vấn đề, đặt câu hỏi mở, dành thời gian để học sinh suy nghĩ.
- Sau đó học sinh thành lập nhóm đôi và chia sẻ ý tưởng, thảo luận, phân loại.
- Nhóm đôi này lại chia sẻ tiếp với nhóm đôi khác hoặc với cả lớp.
Lưu ý:
- Điều quan trọng là người học chia sẻ được cả ý tưởng mà mình đã nhận được, thay vì chỉ chia sẻ ý kiến cá nhân.
- Giáo viên cần làm mẫu hoặc giải thích.
Ưu điểm:
Thời gian tâm lý được cho phép học viên tăng trưởng câu vấn đáp, có thời hạn tâm lý tốt, học viên sẽ tăng trưởng được những câu vấn đáp tốt, biết lắng nghe, tóm tắt ý của bạn cùng nhóm .
Hạn chế:
Học sinh thuận tiện trao đổi những nội dung không tương quan đến bài học kinh nghiệm do giáo viên không hề bao quát hết hoạt động giải trí của cả lớp .
Kỹ thuật chia nhóm
Khi tổ chức triển khai cho HS hoạt động giải trí theo nhóm, GV nên sử dụng nhiều cách chia nhóm khác nhau để gây hứng thú cho HS, đồng thời tạo thời cơ cho những em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Dưới đây là 1 số ít cách chia nhóm :
Chia nhóm theo số điểm danh, theo các màu sắc, theo các loài hoa, các mùa trong năm,…:
- GV yêu cầu HS điểm danh từ 1 đến 4/5/6…(tùy theo số nhóm GV muốn có là 4,5 hay 6 nhóm,…); hoặc điểm danh theo các màu (xanh, đỏ, tím, vàng,…); hoặc điểm danh theo các loài hoa (hồng, lan, huệ, cúc,…); hay điểm danh theo các mùa (xuân, hạ, thu, đông,…)
- Yêu cầu các HS có cùng một số điểm danh hoặc cùng một mầu/cùng một loài hoa/cùng một mùa sẽ vào cùng một nhóm.
Chia nhóm theo hình ghép
- GV cắt một số bức hình ra thành 3/4/5… mảnh khác nhau, tùy theo số HS muốn có là 3/4/5… HS trong mỗi nhóm. Lưu ý là số bức hình cần tương ứng với số nhóm mà GV muốn có.
- HS bốc ngẫu nhiên mỗi em một mảnh cắt.
- HS phải tìm các bạn có các mảnh cắt phù hợp để ghép lại thành một tấm hình hoàn chỉnh.
- Những HS có mảnh cắt của cùng một bức hình sẽ tạo thành một nhóm.
Chia nhóm theo sở thích
- GV có thể chia HS thành các nhóm có cùng sở thích để các em có thể cùng thực hiện một công việc yêu thích hoặc biểu đạt kết quả công việc của nhóm dưới các hình thức phù hợp với sở trường của các em. Ví dụ: Nhóm Họa sĩ, Nhóm Nhà thơ, Nhóm Hùng biện,…
- Chia nhóm theo tháng sinh: Các HS có cùng tháng sinh sẽ làm thành một nhóm.
Ngoài ra còn có nhiều cách chia nhóm khác như : nhóm cùng trình độ, nhóm hỗn hợp, nhóm theo giới tính, … .
Kỹ thuật giao nhiệm vụ
- Giao nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng:
- Nhiệm vụ giao cho cá nhân/nhóm nào?
- Nhiệm vụ là gì?
- Địa điểm thực hiện nhiệm vụ ở đâu?
- Thời gian thực hiện nhiệm vụ là bao nhiêu?
- Phương tiện thực hiện nhiệm vụ là gì?
- Sản phẩm cuối cùng cần có là gì?
- Cách thức trình bày/ đánh giá sản phẩm như thế nào?
- Nhiệm vụ phải phù hợp với: mục tiêu hoạt động, trình độ HS, thời gian, không gian hoạt động và cơ sở vật chất, trang thiết bị
Kỹ thuật đặt câu hỏi
Trong dạy học theo PP cùng tham gia, GV thường phải sử dụng câu hỏi để gợi mở, dẫn dắt HS tìm hiểu và khám phá, mày mò thông tin, kỹ năng và kiến thức, kĩ năng mới, để nhìn nhận tác dụng học tập của HS ; HS cũng phải sử dụng câu hỏi để hỏi lại, hỏi thêm GV và những HS khác về những ND bài học kinh nghiệm chưa sáng tỏ .
Sử dụng câu hỏi có hiệu suất cao đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa HS * GV và HS * HS. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của HS càng nhiều ; HS sẽ học tập tích cực hơn .
Mục đích sử dụng câu hỏi trong dạy học là để :
- Kích thích, dẫn dắt HS suy nghĩ, khám phá tri thức mới, tạo đ/k cho HS tham gia vào quá trình dạy học
- Kiểm tra, đánh giá KT, KN của HS và sự quan tâm, hứng thú của các em đối với ND học tập
- Thu thập, mở rộng thông tin, kiến thức
Khi đặt câu hỏi cần bảo vệ những nhu yếu sau :
- Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học
- Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu
- Đúng lúc, đúng chỗ
- Phù hợp với trình độ HS
- Kích thích suy nghĩ của HS
- Phù hợp với thời gian thực tế
- Sắp xếp thep trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
- Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xính
- Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc
Kỹ thuật phòng tranh
Kĩ thuật này hoàn toàn có thể sử dụng cho hoạt động giải trí cá thể hoặc hoạt động giải trí nhóm .
- GV nêu câu hỏi/ vấn đề cho cả lớp hoặc cho các nhóm.
- Mỗi thành viên (hoạt động cá nhân) hoặc các nhóm (hoạt động nhóm) phác hoạ những ý tưởng về cách giải quyết vấn đề trên một tờ bìa và dán lên tường xung quanh lớp học như một triển lãm tranh.
- HS cả lớp đi xem “triển lãm” và có thể có ý kiến bình luận hoặc bổ sung.
- Cuối cùng, tất cả các ph¬ương án giải quyết được tập hợp lại và tìm ph¬ương án tối ưu.
Kỹ thuật công đoạn
- HS được chia thành các nhóm, mỗi nhóm được giao giải quyết một nhiệm vụ khác nhau. Ví dụ: nhóm 1- thảo luận câu A, nhóm 2- thảo luận câu B, nhóm 3- thảo luận câu C, nhóm 4- thảo luận câu D,…
- Sau khi các nhóm thảo luận và ghi kết quả thảo luận vào giấy A0 xong, các nhóm sẽ luân chuyển giáy AO ghi kết quả thảo luận cho nhau. Cụ thể là: Nhóm 1 chuyển cho nhóm 2, Nhóm 2 chuyển cho nhóm 3, Nhóm 3 chuyển cho nhóm 4, Nhóm 4 chuyển cho nhóm 1
- Các nhóm đọc và góp ý kiến bổ sung cho nhóm bạn. Sau đó lại tiếp tục luân chuyển kết quả cho nhóm tiếp theo và nhận tiếp kết quả từ một nhóm khác để góp ý.
- Cứ như vậy cho đến khi các nhóm đã nhận lại được tờ giấy A0 của nhóm mình cùng với các ý kiến góp ý của các nhóm khác. Từng nhóm sẽ xem và xử lí các ý kiến của các bạn để hoàn thiện lại kết quả thảo luận của nhóm. Sau khi hoàn thiện xong, nhóm sẽ treo kết quả thảo luận lên tường lớp học.
Kỹ thuật “Trình bày một phút”
Đây là kĩ thuật tạo thời cơ cho HS tổng kết lại kiến thức và kỹ năng đã học và đặt những câu hỏi về những điều còn do dự, vướng mắc bằng những bài trình diễn ngắn gọn và cô đọng với những bạn cùng lớp. Các câu hỏi cũng như những câu vấn đáp HS đưa ra sẽ giúp củng cố quy trình học tập của những em và cho GV thấy được những em đã hiểu yếu tố như thế nào .
Kĩ thuật này hoàn toàn có thể thực thi như sau :
- Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học), GV yêu cầu HS suy nghĩ, trả lời các câu hỏi sau: Điều quan trọng nhất các em học đuợc hôm nay là gì? Theo các em, vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa được giải đáp?…
- HS suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của HS có thể dưới nhiều hình thức khác nhau.
- Mỗi HS trình bày trước lớp trong thời gian 1 phút về những điều các em đã học được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp hay những vấn đề các em muốn được tiếp tục tìm hiểu thêm.
Kỹ thuật “Chúng em biết 3”
- GV nêu chủ đề cần thảo luận.
- Chia HS thành các nhóm 3 người và yêu cầu HS thảo luận trong vòng 10 phút về những gì mà các em biết về chủ đề này.
- HS thảo luận nhóm và chọn ra 3 điểm quan trọng nhất để trình bày với cả lớp.
- Mỗi nhóm sẽ cử một đại diện lên trình bày về cả 3 điểm nói trên.
Kỹ thuật “Hỏi Chuyên gia”
- HS xung phong (hoặc theo sự phân công của GV) tạo thành các nhóm “chuyên gia” về một chủ đề nhất định.
- Các “chuyên gia” nghiên cứu và thảo luận với nhau về những tư liệu có liên quan đến chủ đề mình được phân công.
- Nhóm “chuyên gia” lên ngồi phía trên lớp học
- Một em trưởng nhóm “chuyên gia” (hoặc GV) sẽ điều khiển buổi “tư vấn”, mời các bạn HS trong lớp đặt câu hỏi rồi mời “chuyên gia” giải đáp, trả lời.
Kỹ thuật “Hoàn tất một nhiệm vụ”
- GV đưa ra một câu chuyện/một vấn đề/một bức tranh/một thông điệp/… mới chỉ được giải quyết một phần và yêu cầu HS/nhóm HS hoàn tất nốt phần còn lại.
- HS/nhóm HS thực hiện nhiệm vụ được giao.
- HS/ nhóm HS trình bày sản phẩm.
- GV hướng dẫn cả lớp cùng bình luận, đánh giá
Lưu ý: GV cần hướng dẫn HS cẩn thận và cụ thể để các em hiểu được nhiệm vụ của mình. Đây là một hoạt động tốt giúp các em đọc lại những tài liệu đã học hoặc đọc các tài liệu theo yêu cầu của giáo viên.
Kỹ thuật “ Viết tích cực ”
- Trong quá trình thuyết trình, GV đặt câu hỏi và dành thời gian cho HS tự do viết câu trả lời. GV cũng có thể yêu cầu HS liệt kê ngắn gọn những gì các em biết về chủ đề đang học trong khoảng thời gian nhất định.
- GV yêu cầu một vài HS chia sẻ nội dung mà các em đã viết trước lớp.
Kĩ thuật này cũng hoàn toàn có thể sử dụng sau tiết học để tóm tắt nội dung đã học, để phản hồi cho GV về việc nắm kiến thức và kỹ năng của HS và những chỗ những em còn hiểu sai .
Kỹ thuật “Nói cách khác”
- GV chia HS thành các nhóm, yêu cầu các nhóm hãy liệt kê ra giấy khổ lớn 10 điều không hay mà thỉnh thoảng người ta vẫn nói về một ai đó/việc gì đó.
- Tiếp theo, yêu cầu các nhóm hãy tìm 10 cách hay hơn để diễn đạt cùng những ý nghĩa đó và tiếp tục ghi ra giấy khổ lớn.
- Các nhóm trình bày kết quả và cùng nhau thảo luận về ý nghĩa của việc thay đổi cách nói theo hướng tích cực.
Kỹ thuật phân tích phim Video
Phim video hoàn toàn có thể là một trong những phương tiện đi lại để truyền đạt nội dung bài học kinh nghiệm. Phim nên tương đối ngắn gọn ( 5-20 phút ). GV cần xem qua trước để bảo vệ là phim tương thích để chiếu cho những em xem .
- Trước khi cho HS xem phim, hãy nêu một số câu hỏi thảo luận hoặc liệt kê các ý mà các em cần tập trung. Làm như vây sẽ giúp các em chú ý tốt hơn.
- HS xem phim
- Sau khi xem phim video, yêu cầu HS làm việc một mình hoặc theo cặp và trả lời các câu hỏi hoặc viết tóm tắt những ý cơ bản về nội dung phim đã xem.
Kỹ thuật tóm tắt nội dung tài liệu theo nhóm
Hoạt động này giúp HS hiểu và lan rộng ra hiểu biết của những em về những tài liệu đọc bằng cách bàn luận, nghe, đặt câu hỏi và vấn đáp thắc mắc. Cách triển khai như sau :
- HS làm việc theo nhóm nhỏ, đọc to tài liệu được phát, thảo luận về ý nghĩa của nó, chuẩn bị trả lời các câu hỏi về bài đọc.
- Đại diện nhóm trình bày các ý chính cho cả lớp.
- Sau đó, các thành viên trong nhóm lần lượt trả lời các câu hỏi của các bạn khác trong lớp về bài đọc