Thực trạng xu hướng nghề của học sinh trung học phổ thông – Tài liệu text

Thực trạng xu hướng nghề của học sinh trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.91 KB, 4 trang )

Bạn đang đọc: Thực trạng xu hướng nghề của học sinh trung học phổ thông – Tài liệu text

KHOA HỌC GIÁO DỤC

THỰC TRẠNG XU HƯỚNG NGHỀ

CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TS. Lê Thị Xuân Thu
Trung Tâm Nghiên cứu Giáo dục,
Văn hóa & Nghệ Thuật

TÓM TẮT
Bài báo đề cập đến xu hướng chọn nghề nghiệp tương lai của học sinh trung học phổ thông (THPT) tỉnh
Phú Thọ. Số liệu nghiên cứu được thực hiện với 389 học sinh trung học tại tỉnh Phú Thọ trong năm học 2015
– 2016. Kết quả cho thấy có 91,7% học sinh THPT sẽ tiếp tục học để thi tuyển vào các trường cao đẳng – đại
học hoặc trung học chuyên nghiệp. Ngoài ra, 71,0% học sinh cho rằng, việc hướng nghiệp cho học sinh nên
thực hiện ở giai đoạn cuối cấp Trung học cơ sở (THCS) là rất cần thiết và đáng được quan tâm.
Từ khóa: Nghề nghiệp, xu hướng chọn nghề nghiệp, xu hướng chọn nghề nghiệp của học sinh.

1. Đặt vấn đề
Công tác tư vấn chọn ngành nghề, chọn khối,
môn thi ngoài các môn thi bắt buộc trong Kỳ thi
THPT quốc gia  để xét tuyển vào Đại học, Cao
đẳng (ĐH, CĐ) của học sinh (HS) hiện đang được
các nhà trường thực hiện linh hoạt, dù gặp phải
rất nhiều khó khăn. Nhưng với HS, vấn đề này
thực sự là một “bài toán khó” khi mà bản thân
HS không có nhiều thông tin về việc quy hoạch
nhu cầu nguồn nhân lực ở địa phương, hay những
thông tin có tính cơ sở thực tiễn về nhu cầu ngành
nghề lao động trong tương lai. Công tác tư vấn
chọn nghề cho HS của các trường học cũng chỉ
dừng lại ở việc tổ chức giới thiệu các ngành nghề

để HS xem xét lựa chọn hoặc phối hợp với các cơ
sở đào tạo trên địa bàn đến tư vấn, giới thiệu về
các ngành nghề đào tạo của đơn vị đó. Đây chỉ
là giải pháp tình thế, thực sự chưa mang lại hiệu
quả cao trong việc định hướng HS chọn lựa được
ngành học phù hợp. Chính vì vậy, việc chọn các
môn thi vào các khối ngành ĐH, CĐ của HS vẫn
chỉ dựa vào cảm tính cá nhân trên cơ sở phù hợp
với năng lực học tập, có đến 34% trường hợp chọn
lầm nghề, 42% trường hợp chỉ phù hợp gượng nên
đã có đến 90% sinh viên tốt nghiệp bị thất nghiệp
mà nguyên nhân chính là không phù hợp với
nghề [1]. Đã có rất nhiều người phải thất nghiệp
hay phải làm việc không đúng với chuyên môn là
khá phổ biến, họ thấy khó khăn trong việc đáp

ứng những yêu cầu của nghề đặt ra, không cảm
thấy hứng thú và muốn gắn bó với nghề nghiệp
mà mình đã chọn.
Thực tế trên khiến chúng ta cần xem xét thêm việc
thực hiện công tác hướng nghiệp ở các trường phổ
thông nói chung, hướng nghiệp cho học sinh THPT
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng. Nhà trường đã
thực sự “đóng vai trò chủ đạo nhằm hướng dẫn và
chuẩn bị cho thế hệ trẻ cả về tâm thế và kỹ năng để
các em có thể sẵn sàng đi vào lao động hoặc tự tạo việc
làm ở các ngành nghề xã hội đang cần phát triển, đồng
thời phù hợp với hứng thú, năng lực của cá nhân cũng
như hoàn cảnh gia đình” hay chưa? Câu hỏi này dành
cho tất cả các trường THPT trên cả nước nói chung và

các trường THPT trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói riêngmột tỉnh trung du miền núi có nhiều nét đặc trưng
về lịch sử phát triển, vị trí địa lý, quy hoạch phát triển
kinh tế và điều kiện giáo dục.

2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Khách thể nghiên cứu: 389 học sinh lớp 12
trường THPT Việt Trì.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp
được sử dụng trong nghiên cứu này chủ yếu là
phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp
phỏng vấn sâu. Kết quả tính toán được thực hiện
trong bảng phần mềm bảng tính Microsoft Excel
đảm bảo độ tin cậy và khách quan trong nghiên
cứu này.
Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) – 2015

21

KHOA HỌC GIÁO DỤC

3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Thực trạng xu hướng nghề của học Trung học
phổ thông Việt Trì – tỉnh Phú Thọ
3.1.1. Dự định của học sinh sau khi tốt nghiệp THPT
Chọn nghề là một nhiệm vụ quan trọng, chi phối
phần lớn suy nghĩ và hoạt động của các em học
sinh cuối cấp THPT. Thông qua việc lựa chọn nghề
nghiệp, các em học sinh tỏ rõ sự trưởng thành về
năng lực lựa chọn của mình. Điều này được các em

thể hiện trước nhất qua những dự định cho tương
lai. Hầu hết học sinh lớp 12 THPT đều có những dự
định trước cho tương lai và những dự định này của
các em cũng khá đa dạng. Dự định chọn nghề của
các em thể hiện ở bảng 3.1.

đảm bảo sự thành công của các em trong công việc
hay trong cuộc sống, mà còn phụ vào rất nhiều yếu
tố khác, và nhất là trong tình trạng thừa thầy thiếu
thợ như hiện nay. Và đa số học sinh lớp 12 đã chọn
được một nghề cụ thể cho bản thân.
3.1.2. Dự định chọn nghề của học sinh
Bảng 3.2. Nhóm nghề học sinh dự định chọn
(n=389)
STT

Bảng 3.1: Dự định tương lai của học sinh (n=389)
Dự định
Học ĐH, CĐ, THCN

Số lượng
chọn

Tỉ lệ

357

91.7%

Học nghề

6

1.5%

Đi làm ngay

2

0,5%

Vừa học vừa làm

8

2,1%

Làm kinh tế tại gia đình

1

0,3%

Chưa có dự định

10

2,6%

Lựa chọn khác

Tổng cộng

5

1,3%

389

100%

Có tới 97,4% tổng số học sinh đã có dự định
tương lai cho mình, chỉ có 2,6% học sinh là chưa
có dự định gì cho tương lai. Trong đó, có đến 91,7%
học sinh lớp 12 đã chọn sẽ tiếp tục học Đại học, Cao
đẳng sau khi tốt nghiệp THPT. Có 2,1% học sinh
chọn sẽ vừa học vừa làm. Chỉ có 1,5% học sinh chọn
con đường đi học nghề. Những dự định khác chiếm
tỉ lệ không đáng kể 1,3%.
Như vậy, đi học tiếp Đại học, Cao đẳng được
các em chọn chủ yếu, chiếm tỉ lệ % cao nhất. Một
thực tế để chúng ta cần quan tâm trong công tác tư
vấn hướng nghiệp là hầu hết học sinh sau khi tốt
nghiệp trung học phổ thông đều đổ xô đi thi đại học,
chỉ có những học sinh trượt tốt nghiệp hay đại học
mới tính đến chuyện học trung cấp, tuy nhiên trong
những em học sinh này có rất nhiều em vẫn cố thi lại
đại học vào năm sau. Tâm lý chuộng bằng cấp, thích
làm thầy không thích làm thợ đã ăn sâu vào suy nghĩ
của các em học sinh và cả phụ huynh, chính vì vậy
mà các em nhất định phải thi vào đại học mà không

cần quan tâm đến năng lực bản thân có hay không.
Các em xem nhẹ việc học nghề, trong khi đó học Đại
học không phải là yếu tố duy nhất quyết định hay
22

Nhóm nghề

Số lượng
lựa chọn

Tỉ lệ %

1

Sư phạm

98

25,2%

2

Kinh tế

81

20,8%

3

Kỹ thuật

30

7,7%

4

Nông- Lâm- Ngư

28

7,2%

5

Nghệ thuật

0

0%

6

Ngành khác

72

18,5%

7

Chưa lựa chọn

80

20,6%

389

100

Tổng

Số liệu ở bảng 3.2 cho thấy, nghề giáo viên được
học sinh lựa chọn nhiều nhất 25,2% học sinh dự
định chọn. Có nhiều lý do để các em lựa chọn nghề
sư phạm, có em cho rằng, nghề giáo rất gần gũi với
học sinh vì hàng ngày các em được tiếp xúc trực
tiếp với các thầy cô của mình. Trong quá trình học,
các em nhận được sự chỉ bảo nhiệt tình của thầy,
cô. Từ đó, nhiều em xây dựng hình mẫu lý tưởng
về người giáo viên và muốn trở thành những người
thầy, người cô để truyền đạt kiến thức của mình đến
các thế hệ học sinh. Ngoài ra, có em chọn nghề giáo
vì là “nghề cao quí nhất trong những nghề cao quí”,
được sự tôn trọng của xã hội. Một số em khác lại
chọn nghề giáo với lý do, không phải đóng học phí…
Theo dự báo của UNESCO, “Sư phạm và Giáo dục”
là nhóm nghề có nhu cầu cao về nhân lực trong thế

kỷ XXI trong số các nghề thuộc lĩnh vực khoa học
nhân văn[8]. Tuy nhiên trong những năm gần đây,
nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực sư phạm gần như
bão hòa. Hiện, các em tốt nghiệp sư phạm ra tìm việc
rất khó. Phân tích sâu thì thấy 1 sản phẩm được đào
tạo thành giáo viên thì được sử dụng 30 năm trong
ngành. Trong khi tăng dân số và tăng trường học ở
các địa phương thì ít. Mặt khác, đối với các ngành
khác nhân lực có sự linh hoạt hơn, sự dao động của
lực lượng lao động là thường xuyên, nếu sinh viên ra
trường không làm nghề này có thể “nhảy” sang nghề
khác, còn với ngành sư phạm rất khó để “nhảy” sang
ngành khác được. Ví dụ, tốt nghiệp sư phạm lý thì
phải dạy Lý 30 năm – chứ không thể dạy Lý mà nhảy
sang Văn được… Cho nên nghề sư phạm tốt nghiệp

Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) – 2015

KHOA HỌC GIÁO DỤC
ra chôn chân người lao động rất dài là một nguyên
nhân dẫn đến nhiều sinh viên ra trường chưa xin
được việc. Chính vì vậy, bên cạnh việc xác định lại
việc đào tạo nguồn nhân lực sư phạm cho các địa
phương, hệ thống lại các trường đào tạo nguồn về sư
phạm cho toàn quốc, thì việc hướng nghiệp cho các
em là rất quan trọng giúp các em chọn đúng nghề
mà xã hội có nhu cầu.
Những nghề thuộc lĩnh vực kinh tế (Quản
trị kinh doanh; nhân viên kế toán; tài chính ngân

hàng) xếp thứ 2 trong dự định chọn nghề của các
em, chiếm 20,8%. Thực tế trong những năm gần đây,
nhóm ngành Kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của
học sinh khi chọn ngành nghề. Tuy nhiên, hiện nay
do nền kinh tế đang suy thoái nên tình hình chung
ngành này cũng rất khó tìm việc, Việt Nam đang
hội nhập thế giới nên vài năm nữa, nhân lực trong
lĩnh vực này, không chỉ cạnh tranh với nguồn nhân
lực trong nước mà còn ở các nước trong khu vực và
trên thế giới nên phải thật sự yêu thích ngành học
này và phải có sự tích lũy kiến thức ở trường, có kỹ
năng nghề nghiệp như kỹ năng thuyết phục, làm
việc nhóm, tin học, ngoại ngữ… thì mới có thể tham
gia vào các lĩnh vực công việc của nhóm ngành này.
Theo suy nghĩ cảm tính của một số học sinh trong
mẫu được khảo sát, do nghề này “dễ làm giàu”, lại
rất “sang” và “oai” nên các em dự định lựa chọn. Tuy
nhiên, cơ hội việc làm lĩnh vực này là do chính bản
thân người học quyết định. Tình trạng thất nghiệp
hiện nay là có thật nhưng không đồng đều. Xã hội
đang thừa người có bằng đại học nhưng thiếu người
có bằng đại học giỏi thực sự. Các ngân hàng vẫn
tuyển dụng dù quy mô có hạn chế hơn. Do vậy, quan
trọng là phải kiên định và chuẩn bị hành trang tìm
việc của mình theo đúng yêu cầu xã hội đặt ra. Ngoài
ra sinh viên cần trang bị các kỹ năng ngoại ngữ và kỹ
năng ngoại khóa.
Các nhóm nghề: Nghệ thuật, kỹ thuật, bác sĩ
thú y, chăn nuôi, trồng trọt, có ít học sinh dự định
chọn. Đặc biệt là nhóm ngành nghệ thuật (ca sĩ,

họa sĩ, diễn viên 0%), lý do các em đưa ra cũng dễ
hiểu vì nó phụ thuộc vào tố chất năng khiếu của
bản thân, mà năng khiếu hội họa, múa hát, diễn
kịch không phải ai cũng có. Trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, một số nghề
thuộc lĩnh vực kỹ thuật như kỹ thuật điện tử, kỹ
thuật cơ khí, xây dựng… đang có nhu cầu nhân
lực lớn nhưng cũng ít học sinh dự định chọn,chỉ
có 7,7% số mẫu nghiên cứu chọn ngành này. Có
thể là vì học sinh ít hứng thú, nhưng cũng có thể

vì thiếu thông tin về các ngành nghề đó, các em
không biết đây là những nghề xã hội đang cần.
Đặc biệt, trong các đợt tuyển sinh những năm gần
đây cho thấy, ngành nông – lâm – ngư rất ít được
thí sinh quan tâm, chỉ có 7,2 số mẫu nghiên cứu
chọn nhóm ngành này. Thực tế cho thấy nhóm
ngành này có rất nhiều cơ hội kiếm việc bởi Nhà
nước đầu tư rất lớn cho lĩnh vực Chăn nuôi và
Thú y để thúc đẩy sản xuất. Nhóm ngành này sinh
viên ra trường sẽ rất dễ xin việc, bởi vì theo phân
tích nhu cầu lao động đến năm 2020, nguồn nhân
lực trong ngành nông – lâm – ngư sẽ thiếu khoảng
3,2 triệu lao động qua đào tạo. Sinh viên ra trường
sẽ có nhiều cơ hội việc làm và được tham gia vào
các công việc như nghiên cứu, chế tạo… [9]
Có 18,5% số khách thể chọn ngành khác (công
an, bộ đội, thiết kế thời trang, du lịch, kiến trúc sư,
y, dược, công tác xã hội, phóng viên, luật sư…). Có
20,6% (80/389) các em học sinh còn băn khoăn chưa

biết chọn ngành gì.
Thực tế cho thấy rằng, mỗi học sinh có một
mức độ nhận thức về nghề nghiệp là khác nhau, nó
phụ thuộc vào trình độ nhận thức của mỗi người,
đồng thời phụ thuộc vào tính tích cực hoạt động
nhận thức của mỗi người trong việc chiếm lĩnh
tri thức. Sự hiểu biết của học sinh về nghề, về các
yêu cầu của nghề là rất ít và chung chung, chính vì
vậy mà các em rất cần được tư vấn, nhưng thực tế
thì các em lại không nhận được sự tư vấn đầy đủ
từ các đối tượng mà các em tìm đến tư vấn, từ đó
đã dẫn đến việc học sinh có sự nhận thức mơ hồ,
khiến học sinh chọn nghề không chính xác, dẫn
đến một hệ quả là sinh viên khi ra trường không
tìm được việc làm phù hợp với chuyên ngành đào
tạo, không đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng của
các doanh nghiệp, công ty… Song đó cũng tồn tại
một nghịch lý là nhiều cơ quan, doanh nghiệp lại
gặp khó khăn trong việc tuyển đủ nhân lực có chất
lượng phù hợp. Từ đó đã gây nên sự lãng phí rất
lớn cản trở sự phát triển của mỗi cá nhân cũng
như sự phát triển chung của xã hội.
3.2. Thời điểm học sinh mong muốn được tư vấn
hướng nghiệp
Đại đa số học sinh trong mẫu nghiên cứu có nhu
cầu được tư vấn hướng nghiệp, các em mong muốn
được hướng nghiệp từ cuối bậc THCS để chọn ban,
chọn nghề. Mong muốn này của các em được thể
hiện ở bảng 3.3.

Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) – 2015

23

KHOA HỌC GIÁO DỤC
Bảng 3.3. Thời điểm nên thực hiện hoạt động
hướng nghiệp (n= 389)
STT

Số lượng

Tỉ lệ %

1

Cuối cấp THCS

Thời điểm

276

71,0%

2

Đầu cấp THCS

20

5,1%

3

Đầu cấp THPT

70

18,0%

4

Cuối cấp THPT

8

2,0%

5

Cuối cấp tiểu học
Tổng

15

3,9%

389

100%

Có 71,0% (276/389) học sinh trong mẫu nghiên
cứu cho rằng, việc hướng nghiệp cho học sinh nên
thực hiện ở giai đoạn cuối cấp THCS, chỉ có 2,0%
(8/389) học sinh cho rằng nên hướng nghiệp ở cuối
bậc THPT. Như vậy, có thể khẳng định: Hoạt động
hướng nghiệp đưa vào trường trung học càng sớm
càng tốt. Đó là điều mà học sinh đang mong mỏi.
Có thể cần chọn lọc nội dung với những học sinh
đầu cấp THCS, nhưng đối với những học sinh lớp
9 thì rất cần thiết. Đây cũng là cột mốc quan trọng
không kém bởi từ giai đoạn này, các em bắt đầu có
thể chủ động quyết định hướng đi cho mình: Học
tiếp lên THPT, học nghề hay chuẩn bị vào đời để đi
làm. Chính những định hướng kịp thời sẽ tạo tiền đề
rất quan trọng cũng như là một sự động viên, khích
lệ để các em đi đúng hướng mà không bị loay hoay
trong mê cung “nghề – học” của mình.

4. Kết luận
Sự hiểu về nghề nghiệp, hiểu về thị trường lao
động, hiểu về nghề định chọn…, của học sinh rất mơ
hồ và không đầy đủ. Như vậy, mặc dù lý do chọn
nghề là hợp lý nhưng với sự hiểu biết về nghề nghiệp
không đầy đủ sẽ làm cho học sinh nhận thức lệch
lạc và lựa chọn thiếu chính xác. Vì thế, nội dung tư
vấn hướng nghiệp cho học nên quan tâm đến: Điểm

chuẩn, điểm thi tuyển của các năm trước, chỉ tiêu
tuyển sinh, cơ hội việc làm, nhu cầu tuyển dụng, uy

tín cơ sở đào tạo… để tránh sự nhận thức lệch lạc
trong lựa chọn nghề của học sinh.
Tuy nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh
rất cao, nhưng mức độ đáp ứng nhu cầu này thì chưa
đủ vì hầu hết các hoạt động tư vấn trong thời gian
qua chưa đạt hiệu quả. Xuất phát từ điều đó, học
sinh có nhu cầu được hướng nghiệp càng sớm càng
tốt. Cụ thể là 71,0% học sinh cho rằng, việc hướng
nghiệp cho học sinh nên thực hiện ở giai đoạn cuối
cấp THCS. Đó là mong mỏi hết sức chính đáng, cần
được quan tâm một cách nghiêm túc và nên đề xuất
những biện pháp khả thi.

Tài liệu tham khảo
1. Đặng Danh Ánh (2003), Những nẻo đường lập
nghiệp, NXB Lao động Xã hội.
2. Climov E.A., (1971), Nay đi học, mai làm gì? NXB
Đại học Sư phạm Hà Nội.
3. Phạm Tất Dong (chủ biên) (2002), Hoạt động
giáo dục hướng nghiệp (Sách giáo khoa thí điểm), NXB
Giáo dục.
4. Phạm Tất Dong (1989), Giúp bạn chọn nghề, NXB
Giáo dục.
5. Nguyễn Hữu Dũng (2005), Thị trường lao động và
định hướng nghề nghiệp cho thanh niên, NXB Lao động
Xã hội.
6. Phạm Thành Nghị (2013), Tâm lý học giáo dục, NXB
Đại học Quốc Gia Hà Nôi.
7. Nguyễn Xuân Thức (2010), Tâm lý học đại cương,
NXB Đại học Sư phạm Hà Nội

8. Đào Thị Oanh, (2004), Nghiên cứu xu hướng nghề
nghiệp của học sinh trung học, Tạp chí Tâm lý học, số 7,
tr.21-27
9.

SUMMARY
THE CURRENT TRENDS OF CAREER CHOICE BY HIGH SCHOOL STUDENTS
Le Thị Xuan Thu
Center for Education research, Culture and Art
The article is about the current trends of the career choice by secondary high school students in Phú Thọ
province. The survey is conducted with 389 students in the school year of 2015-20016. The findings show that
91,7% of secondary high school students continue their College – University or Vocational education; What’s
more, 71,0% of the students think that it is necessary and attentive for schools to carry out the vocational
education for students at the end of the junior high school education period.
Keywords: Career, trends of career choice, trends of career choice by students.
24

Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) – 2015

để HS xem xét lựa chọn hoặc phối hợp với những cơsở giảng dạy trên địa phận đến tư vấn, trình làng vềcác ngành nghề huấn luyện và đào tạo của đơn vị chức năng đó. Đây chỉlà giải pháp tình thế, thực sự chưa mang lại hiệuquả cao trong việc khuynh hướng HS lựa chọn đượcngành học tương thích. Chính thế cho nên, việc chọn cácmôn thi vào những khối ngành ĐH, CĐ của HS vẫnchỉ dựa vào cảm tính cá thể trên cơ sở phù hợpvới năng lượng học tập, có đến 34 % trường hợp chọnlầm nghề, 42 % trường hợp chỉ tương thích gượng nênđã có đến 90 % sinh viên tốt nghiệp bị thất nghiệpmà nguyên do chính là không tương thích vớinghề [ 1 ]. Đã có rất nhiều người phải thất nghiệphay phải thao tác không đúng với trình độ làkhá phổ cập, họ thấy khó khăn vất vả trong việc đápứng những nhu yếu của nghề đặt ra, không cảmthấy hứng thú và muốn gắn bó với nghề nghiệpmà mình đã chọn. Thực tế trên khiến tất cả chúng ta cần xem xét thêm việcthực hiện công tác làm việc hướng nghiệp ở những trường phổthông nói chung, hướng nghiệp cho học sinh THPTtrên địa phận tỉnh Phú Thọ nói riêng. Nhà trường đãthực sự “ đóng vai trò chủ yếu nhằm mục đích hướng dẫn vàchuẩn bị cho thế hệ trẻ cả về tâm thế và kỹ năng và kiến thức đểcác em hoàn toàn có thể sẵn sàng chuẩn bị đi vào lao động hoặc tự tạo việclàm ở những ngành nghề xã hội đang cần tăng trưởng, đồngthời tương thích với hứng thú, năng lượng của cá thể cũngnhư thực trạng mái ấm gia đình ” hay chưa ? Câu hỏi này dànhcho tổng thể những trường THPT trên cả nước nói chung vàcác trường THPT trên địa phận tỉnh Phú Thọ nói riêngmột tỉnh trung du miền núi có nhiều nét đặc trưngvề lịch sử vẻ vang tăng trưởng, vị trí địa lý, quy hoạch phát triểnkinh tế và điều kiện kèm theo giáo dục. 2. Phương pháp nghiên cứu2. 1. Khách thể điều tra và nghiên cứu : 389 học sinh lớp 12 trường THPT Việt Trì. 2.2. Phương pháp nghiên cứu và điều tra : Các phương phápđược sử dụng trong nghiên cứu và điều tra này hầu hết làphương pháp tìm hiểu bằng bảng hỏi, phương phápphỏng vấn sâu. Kết quả đo lường và thống kê được thực hiệntrong bảng ứng dụng bảng tính Microsoft Excelđảm bảo độ an toàn và đáng tin cậy và khách quan trong nghiêncứu này. Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 ( 1 ) – 201521KHOA HỌC GIÁO DỤC3. Kết quả nghiên cứu3. 1. Thực trạng xu hướng nghề của học Trung họcphổ thông Việt Trì – tỉnh Phú Thọ3. 1.1. Dự định của học sinh sau khi tốt nghiệp THPTChọn nghề là một trách nhiệm quan trọng, chi phốiphần lớn tâm lý và hoạt động giải trí của những em họcsinh cuối cấp THPT. Thông qua việc lựa chọn nghềnghiệp, những em học sinh tỏ rõ sự trưởng thành vềnăng lực lựa chọn của mình. Điều này được những emthể hiện trước nhất qua những dự tính cho tươnglai. Hầu hết học sinh lớp 12 THPT đều có những dựđịnh trước cho tương lai và những dự tính này củacác em cũng khá phong phú. Dự định chọn nghề củacác em bộc lộ ở bảng 3.1. bảo vệ sự thành công xuất sắc của những em trong công việchay trong đời sống, mà còn phụ vào rất nhiều yếutố khác, và nhất là trong thực trạng thừa thầy thiếuthợ như lúc bấy giờ. Và đa phần học sinh lớp 12 đã chọnđược một nghề đơn cử cho bản thân. 3.1.2. Dự định chọn nghề của học sinhBảng 3.2. Nhóm nghề học sinh dự tính chọn ( n = 389 ) STTBảng 3.1 : Dự định tương lai của học sinh ( n = 389 ) Dự địnhHọc ĐH, CĐ, THCNSố lượngchọnTỉ lệ35791. 7 % Học nghề1. 5 % Đi làm ngay0, 5 % Vừa học vừa làm2, 1 % Làm kinh tế tài chính tại gia đình0, 3 % Chưa có dự định102, 6 % Lựa chọn khácTổng cộng1, 3 % 389100 % Có tới 97,4 % tổng số học sinh đã có dự địnhtương lai cho mình, chỉ có 2,6 % học sinh là chưacó dự tính gì cho tương lai. Trong đó, có đến 91,7 % học sinh lớp 12 đã chọn sẽ liên tục học Đại học, Caođẳng sau khi tốt nghiệp THPT. Có 2,1 % học sinhchọn sẽ vừa học vừa làm. Chỉ có 1,5 % học sinh chọncon đường đi học nghề. Những dự tính khác chiếmtỉ lệ không đáng kể 1,3 %. Như vậy, đi học tiếp Đại học, Cao đẳng đượccác em chọn đa phần, chiếm tỉ lệ % cao nhất. Mộtthực tế để tất cả chúng ta cần chăm sóc trong công tác làm việc tưvấn hướng nghiệp là hầu hết học sinh sau khi tốtnghiệp trung học phổ thông đều đổ xô đi thi ĐH, chỉ có những học sinh trượt tốt nghiệp hay đại họcmới tính đến chuyện học tầm trung, tuy nhiên trongnhững em học sinh này có rất nhiều em vẫn cố thi lạiđại học vào năm sau. Tâm lý chuộng bằng cấp, thíchlàm thầy không thích làm thợ đã ăn sâu vào suy nghĩcủa những em học sinh và cả cha mẹ, chính vì vậymà những em nhất định phải thi vào ĐH mà khôngcần chăm sóc đến năng lượng bản thân có hay không. Các em xem nhẹ việc học nghề, trong khi đó học Đạihọc không phải là yếu tố duy nhất quyết định hành động hay22Nhóm nghềSố lượnglựa chọnTỉ lệ % Sư phạm9825, 2 % Kinh tế8120, 8 % Kỹ thuật307, 7 % Nông – Lâm – Ngư287, 2 % Nghệ thuật0 % Ngành khác7218, 5 % Chưa lựa chọn8020, 6 % 389100T ổngSố liệu ở bảng 3.2 cho thấy, nghề giáo viên đượchọc sinh lựa chọn nhiều nhất 25,2 % học sinh dựđịnh chọn. Có nhiều nguyên do để những em lựa chọn nghềsư phạm, có em cho rằng, nghề giáo rất thân thiện vớihọc sinh vì hàng ngày những em được tiếp xúc trựctiếp với những thầy cô của mình. Trong quy trình học, những em nhận được sự chỉ bảo nhiệt tình của thầy, cô. Từ đó, nhiều em xây dựng hình mẫu lý tưởngvề người giáo viên và muốn trở thành những ngườithầy, người cô để truyền đạt kiến thức và kỹ năng của mình đếncác thế hệ học sinh. Ngoài ra, có em chọn nghề giáovì là “ nghề cao quí nhất trong những nghề cao quí ”, được sự tôn trọng của xã hội. Một số em khác lạichọn nghề giáo với nguyên do, không phải đóng học phí … Theo dự báo của UNESCO, “ Sư phạm và Giáo dục đào tạo ” là nhóm nghề có nhu yếu cao về nhân lực trong thếkỷ XXI trong số những nghề thuộc nghành khoa họcnhân văn [ 8 ]. Tuy nhiên trong những năm gần đây, nhu yếu sử dụng nguồn nhân lực sư phạm gần nhưbão hòa. Hiện, những em tốt nghiệp sư phạm ra tìm việcrất khó. Phân tích sâu thì thấy 1 mẫu sản phẩm được đàotạo thành giáo viên thì được sử dụng 30 năm trongngành. Trong khi tăng dân số và tăng trường học ởcác địa phương thì ít. Mặt khác, so với những ngànhkhác nhân lực có sự linh động hơn, sự xê dịch củalực lượng lao động là liên tục, nếu sinh viên ratrường không làm nghề này hoàn toàn có thể “ nhảy ” sang nghềkhác, còn với ngành sư phạm rất khó để “ nhảy ” sangngành khác được. Ví dụ, tốt nghiệp sư phạm lý thìphải dạy Lý 30 năm – chứ không hề dạy Lý mà nhảysang Văn được … Cho nên nghề sư phạm tốt nghiệpTạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 ( 1 ) – 2015KHOA HỌC GIÁO DỤCra chôn chân người lao động rất dài là một nguyênnhân dẫn đến nhiều sinh viên ra trường chưa xinđược việc. Chính thế cho nên, bên cạnh việc xác lập lạiviệc đào tạo và giảng dạy nguồn nhân lực sư phạm cho những địaphương, mạng lưới hệ thống lại những trường giảng dạy nguồn về sưphạm cho toàn nước, thì việc hướng nghiệp cho cácem là rất quan trọng giúp những em chọn đúng nghềmà xã hội có nhu yếu. Những nghề thuộc nghành nghề dịch vụ kinh tế tài chính ( Quảntrị kinh doanh thương mại ; nhân viên cấp dưới kế toán ; kinh tế tài chính ngânhàng ) xếp thứ 2 trong dự tính chọn nghề của cácem, chiếm 20,8 %. Thực tế trong những năm gần đây, nhóm ngành Kinh tế luôn lôi cuốn sự chăm sóc củahọc sinh khi chọn ngành nghề. Tuy nhiên, hiện naydo nền kinh tế tài chính đang suy thoái và khủng hoảng nên tình hình chungngành này cũng rất khó tìm việc, Nước Ta đanghội nhập quốc tế nên vài năm nữa, nhân lực tronglĩnh vực này, không riêng gì cạnh tranh đối đầu với nguồn nhânlực trong nước mà còn ở những nước trong khu vực vàtrên quốc tế nên phải thật sự yêu dấu ngành họcnày và phải có sự tích lũy kỹ năng và kiến thức ở trường, có kỹnăng nghề nghiệp như kiến thức và kỹ năng thuyết phục, làmviệc nhóm, tin học, ngoại ngữ … thì mới hoàn toàn có thể thamgia vào những nghành việc làm của nhóm ngành này. Theo tâm lý cảm tính của một số ít học sinh trongmẫu được khảo sát, do nghề này “ dễ làm giàu ”, lạirất “ sang ” và “ oai ” nên những em dự tính lựa chọn. Tuynhiên, thời cơ việc làm nghành nghề dịch vụ này là do chính bảnthân người học quyết định hành động. Tình trạng thất nghiệphiện nay là có thật nhưng không đồng đều. Xã hộiđang thừa người có bằng ĐH nhưng thiếu ngườicó bằng ĐH giỏi thực sự. Các ngân hàng nhà nước vẫntuyển dụng dù quy mô có hạn chế hơn. Do vậy, quantrọng là phải kiên cường và chuẩn bị sẵn sàng hành trang tìmviệc của mình theo đúng nhu yếu xã hội đặt ra. Ngoàira sinh viên cần trang bị những kỹ năng và kiến thức ngoại ngữ và kỹnăng ngoại khóa. Các nhóm nghề : Nghệ thuật, kỹ thuật, bác sĩthú y, chăn nuôi, trồng trọt, có ít học sinh dự địnhchọn. Đặc biệt là nhóm ngành nghệ thuật và thẩm mỹ ( ca sĩ, họa sỹ, diễn viên 0 % ), nguyên do những em đưa ra cũng dễhiểu vì nó phụ thuộc vào vào năng lực năng khiếu sở trường củabản thân, mà năng khiếu sở trường hội họa, múa hát, diễnkịch không phải ai cũng có. Trong thời kỳ côngnghiệp hóa, văn minh hóa quốc gia, 1 số ít nghềthuộc nghành nghề dịch vụ kỹ thuật như kỹ thuật điện tử, kỹthuật cơ khí, kiến thiết xây dựng … đang có nhu yếu nhânlực lớn nhưng cũng ít học sinh dự tính chọn, chỉcó 7,7 % số mẫu nghiên cứu và điều tra chọn ngành này. Cóthể là vì học sinh ít hứng thú, nhưng cũng có thểvì thiếu thông tin về những ngành nghề đó, những emkhông biết đây là những nghề xã hội đang cần. Đặc biệt, trong những đợt tuyển sinh những năm gầnđây cho thấy, ngành nông – lâm – ngư rất ít đượcthí sinh chăm sóc, chỉ có 7,2 số mẫu nghiên cứuchọn nhóm ngành này. Thực tế cho thấy nhómngành này có rất nhiều thời cơ kiếm việc bởi Nhànước góp vốn đầu tư rất lớn cho nghành nghề dịch vụ Chăn nuôi vàThú y để thôi thúc sản xuất. Nhóm ngành này sinhviên ra trường sẽ rất dễ xin việc, chính do theo phântích nhu yếu lao động đến năm 2020, nguồn nhânlực trong ngành nông – lâm – ngư sẽ thiếu khoảng3, 2 triệu lao động qua huấn luyện và đào tạo. Sinh viên ra trườngsẽ có nhiều thời cơ việc làm và được tham gia vàocác việc làm như nghiên cứu và điều tra, sản xuất … [ 9 ] Có 18,5 % số khách thể chọn ngành khác ( côngan, bộ đội, phong cách thiết kế thời trang, du lịch, kiến trúc sư, y, dược, công tác làm việc xã hội, phóng viên báo chí, luật sư … ). Có20, 6 % ( 80/389 ) những em học sinh còn do dự chưabiết chọn ngành gì. Thực tế cho thấy rằng, mỗi học sinh có mộtmức độ nhận thức về nghề nghiệp là khác nhau, nóphụ thuộc vào trình độ nhận thức của mỗi người, đồng thời phụ thuộc vào vào tính tích cực hoạt độngnhận thức của mỗi người trong việc chiếm lĩnhtri thức. Sự hiểu biết của học sinh về nghề, về cácyêu cầu của nghề là rất ít và chung chung, chính vìvậy mà những em rất cần được tư vấn, nhưng thực tếthì những em lại không nhận được sự tư vấn đầy đủtừ những đối tượng người dùng mà những em tìm đến tư vấn, từ đóđã dẫn đến việc học sinh có sự nhận thức mơ hồ, khiến học sinh chọn nghề không đúng chuẩn, dẫnđến một hệ quả là sinh viên khi ra trường khôngtìm được việc làm tương thích với chuyên ngành đàotạo, không phân phối được nhu yếu tuyển dụng củacác doanh nghiệp, công ty … Song đó cũng tồn tạimột nghịch lý là nhiều cơ quan, doanh nghiệp lạigặp khó khăn vất vả trong việc tuyển đủ nhân lực có chấtlượng tương thích. Từ đó đã gây nên sự tiêu tốn lãng phí rấtlớn cản trở sự tăng trưởng của mỗi cá thể cũngnhư sự tăng trưởng chung của xã hội. 3.2. Thời điểm học sinh mong ước được tư vấnhướng nghiệpĐại hầu hết học sinh trong mẫu điều tra và nghiên cứu có nhucầu được tư vấn hướng nghiệp, những em mong muốnđược hướng nghiệp từ cuối bậc trung học cơ sở để chọn ban, chọn nghề. Mong muốn này của những em được thểhiện ở bảng 3.3. Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 ( 1 ) – 201523KHOA HỌC GIÁO DỤCBảng 3.3. Thời điểm nên triển khai hoạt độnghướng nghiệp ( n = 389 ) STTSố lượngTỉ lệ % Cuối cấp THCSThời điểm27671, 0 % Đầu cấp THCS205, 1 % Đầu cấp THPT7018, 0 % Cuối cấp THPT2, 0 % Cuối cấp tiểu họcTổng153, 9 % 389100 % Có 71,0 % ( 276 / 389 ) học sinh trong mẫu nghiêncứu cho rằng, việc hướng nghiệp cho học sinh nênthực hiện ở tiến trình cuối cấp trung học cơ sở, chỉ có 2,0 % ( 8/389 ) học sinh cho rằng nên hướng nghiệp ở cuốibậc THPT. Như vậy, hoàn toàn có thể khẳng định chắc chắn : Hoạt độnghướng nghiệp đưa vào trường trung học càng sớmcàng tốt. Đó là điều mà học sinh đang mong mỏi. Có thể cần tinh lọc nội dung với những học sinhđầu cấp trung học cơ sở, nhưng so với những học sinh lớp9 thì rất thiết yếu. Đây cũng là cột mốc quan trọngkhông kém bởi từ quy trình tiến độ này, những em khởi đầu cóthể dữ thế chủ động quyết định hành động hướng đi cho mình : Họctiếp lên THPT, học nghề hay chuẩn bị sẵn sàng vào đời để đilàm. Chính những xu thế kịp thời sẽ tạo tiền đềrất quan trọng cũng như là một sự động viên, khíchlệ để những em đi đúng hướng mà không bị loay hoaytrong mê cung “ nghề – học ” của mình. 4. Kết luậnSự hiểu về nghề nghiệp, hiểu về thị trường laođộng, hiểu về nghề định chọn …, của học sinh rất mơhồ và không khá đầy đủ. Như vậy, mặc dầu nguyên do chọnnghề là hài hòa và hợp lý nhưng với sự hiểu biết về nghề nghiệpkhông không thiếu sẽ làm cho học sinh nhận thức lệchlạc và lựa chọn thiếu đúng chuẩn. Vì thế, nội dung tưvấn hướng nghiệp cho học nên chăm sóc đến : Điểmchuẩn, điểm thi tuyển của những năm trước, chỉ tiêutuyển sinh, thời cơ việc làm, nhu yếu tuyển dụng, uytín cơ sở đào tạo và giảng dạy … để tránh sự nhận thức lệch lạctrong lựa chọn nghề của học sinh. Tuy nhu yếu tư vấn hướng nghiệp của học sinhrất cao, nhưng mức độ phân phối nhu yếu này thì chưađủ vì hầu hết những hoạt động giải trí tư vấn trong thời gianqua chưa đạt hiệu suất cao. Xuất phát từ điều đó, họcsinh có nhu yếu được hướng nghiệp càng sớm càngtốt. Cụ thể là 71,0 % học sinh cho rằng, việc hướngnghiệp cho học sinh nên triển khai ở quy trình tiến độ cuốicấp THCS. Đó là mong mỏi rất là chính đáng, cầnđược chăm sóc một cách tráng lệ và nên đề xuấtnhững giải pháp khả thi.  Tài liệu tham khảo1. Đặng Danh Ánh ( 2003 ), Những nẻo đường lậpnghiệp, NXB Lao động Xã hội. 2. Climov E.A., ( 1971 ), Nay đi học, mai làm gì ? NXBĐại học Sư phạm TP.HN. 3. Phạm Tất Dong ( chủ biên ) ( 2002 ), Hoạt độnggiáo dục hướng nghiệp ( Sách giáo khoa thử nghiệm ), NXBGiáo dục. 4. Phạm Tất Dong ( 1989 ), Giúp bạn chọn nghề, NXBGiáo dục. 5. Nguyễn Hữu Dũng ( 2005 ), Thị phần lao động vàđịnh hướng nghề nghiệp cho người trẻ tuổi, NXB Lao độngXã hội. 6. Phạm Thành Nghị ( 2013 ), Tâm lý học giáo dục, NXBĐại học Quốc Gia Hà Nôi. 7. Nguyễn Xuân Thức ( 2010 ), Tâm lý học đại cương, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội8. Đào Thị Oanh, ( 2004 ), Nghiên cứu xu hướng nghềnghiệp của học sinh trung học, Tạp chí Tâm lý học, số 7, tr. 21-279. SUMMARYTHE CURRENT TRENDS OF CAREER CHOICE BY HIGH SCHOOL STUDENTSLe Thị Xuan ThuCenter for Education research, Culture and ArtThe article is about the current trends of the career choice by secondary high school students in Phú Thọprovince. The survey is conducted with 389 students in the school year of năm ngoái – 20016. The findings show that91, 7 % of secondary high school students continue their College – University or Vocational education ; What’smore, 71,0 % of the students think that it is necessary and attentive for schools to carry out the vocationaleducation for students at the end of the junior high school education period. Keywords : Career, trends of career choice, trends of career choice by students. 24T ạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 ( 1 ) – năm ngoái

Source: https://vvc.vn
Category : Kinh doanh

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay