Cách mạng đồ đá mới (tiếng Anh: Neolithic Revolution) hay Cách mạng nông nghiệp lần thứ nhất (First Agricultural Revolution) là sự chuyển đổi trên quy mô rộng khắp của các nền văn hóa trong thời kỳ đồ đá mới, khi mà loài người chuyển từ lối sống dựa vào săn bắt – hái lượm sang canh tác nông nghiệp và định cư, là tiền để để dân số ngày một tăng lên.[1] Việc lập ra các cộng đồng định cư giúp con người có cơ hội quan sát và thử nghiệm các loài thực vật nhằm tìm hiểu cách thức sinh trưởng và phát triển của chúng.[2] Những tri thức mới mẻ này dẫn đến việc con người thuần hóa được thực vật thành cây trồng.[3]
Các tài liệu khảo cổ cho thấy hoạt động giải trí thuần hóa động – thực vật đã diễn ra tại nhiều khu vực trên toàn quốc tế một cách riêng rẽ, khởi đầu từ thế địa chất Holocene, [ 4 ] tức là khoảng chừng 11.700 năm trước. [ 5 ] Đây là cuộc cách mạng nông nghiệp tiên phong hoàn toàn có thể kiểm chứng được trong lịch sử vẻ vang quả đât. Cách mạng đồ đá mới đã thu hẹp đáng kể sự phong phú thực phẩm của con người, dẫn đến suy giảm chất lượng dinh dưỡng. [ 6 ]Cách mạng đồ đá mới không chỉ bó hẹp trong việc tìm ra các kỹ thuật nuôi trồng mới mà trong một thiên niên kỷ tiếp theo, cuộc cách mạng này đã biến các thị tộc săn bắt – hái lượm nhỏ lẻ, du cư thành những hội đồng định cư trong các làng xã. Những xã hội này đã làm biến hóa trọn vẹn môi trường tự nhiên tự nhiên xung quanh họ trải qua các phương pháp chuyên canh cây xanh, hay vận dụng tưới tiêu và phá rừng khiến sản lượng lương thực tăng đến mức dư thừa. Các văn minh khác là việc thuần hóa vật nuôi, kỹ thuật làm đồ gốm, kỹ thuật mài bóng công cụ lao động bằng đá và xây nhà theo hình chữ nhật .
Những tiến bộ này là nền tảng để hình thành hệ thống quản lý tập trung, bộ máy chính trị, ý thức hệ phân biệt đẳng cấp, sự phi cá nhân hóa tri thức (ra đời chữ viết), các khu dân cư tập trung đông đúc, sự chuyên môn hóa và phân công trong lao động, thương mại phát triển, nghệ thuật và kiến trúc phát trển, sự tư hữu về tài sản.
Vùng Levant đã manh nha tiến vào cách mạng đồ đá mới từ khoảng chừng 10.000 năm TCN, sau đó lan sang các khu vực ở vùng Lưỡi liềm Màu mỡ. Nền văn minh sớm nhất được ghi nhận trong lịch sử dân tộc là nền văn minh Sumer ở miền nam khu vực Lưỡng Hà ( khoảng chừng 6.500 năm TCN ), và sự sinh ra của nó cũng báo trước cho sự khởi đầu của Thời đại đồ đồng. [ 7 ]
Các hội đồng săn bắn và hái lượm có mức đủ sống và lối sống khác với các hội đồng làm nông. Họ du mục và cơ động, vận động và di chuyển theo nhóm nhỏ và tiếp xúc hạn chế với các nhóm ngoài. Chế độ ăn của họ rất cân đối và nhờ vào vào môi trường tự nhiên mỗi mùa. Nhờ sự sinh ra của nông nghiệp, con người giờ hoàn toàn có thể tương hỗ các nhóm lớn hơn, những nhóm làm nông định cư ở những khu có tỷ lệ dân số cao hơn những nhóm săn bắn hái lượm. Sự tăng trưởng của mạng lưới giao thương mua bán và các xã hội phức tạp đã khiến họ tiếp xúc với các nhóm bên ngoài. [ 8 ]Tuy nhiên, sự ngày càng tăng dân số không nhất thiết đối sánh tương quan với sức khỏe thể chất hội đồng được cải tổ. Phụ thuộc vào một loại cây cối duy nhất hoàn toàn có thể tác động ảnh hưởng xấu đến sức khỏe thể chất tuy vẫn hoàn toàn có thể tương hỗ dân số lớn. Ngô thiếu 1 số ít amino acid thiết yếu ( lysine và tryptophan ) và nghèo sắt. Axit phytic trong ngô hoàn toàn có thể ức chế sự hấp thụ chất dinh dưỡng. Một yếu tố khác tác động ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất của con người và gia súc được thuần hóa trong các khu định cư nông nghiệp buổi đầu là sự ngày càng tăng số lượng ký sinh trùng. Ký sinh trùng tăng trưởng mạnh do chất thải của con người và các nguồn thực phẩm và nước bị ô nhiễm. Phân bón và công nghệ tiên tiến tưới tiêu làm tăng hiệu suất cây xanh nhưng cung ứng nơi sinh sản cho ký sinh trùng và vi trùng, đồng thời việc tàng trữ các loại hạt lôi cuốn các loài gặm nhấm mang mầm bệnh. [ 8 ]
Chuyển đổi sang nông nghiệp[sửa|sửa mã nguồn]
Bản đồ thế giới thể hiện các trung tâm cội nguồn nông nghiệp và sự lan tỏa của chúng thời tiền sử: Lưỡi liềm Màu mỡ (11,000 BP), đồng bằng Dương Tử và Hoàng Hà (9,000 BP), cao nguyên New Guinea (9,000–6,000 BP), Trung bộ Mexico (5,000–4,000 BP), miền bắc Nam Mỹ (5,000–4,000 BP), châu Phi Hạ Sahara (5,000–4,000 năm trước, địa điểm chính xác chưa biết), miền đông Bắc Mỹ (4,000–3,000 BP).[10]
Thuật ngữ cách mạng đồ đá mới được V. Gordon Childe đặt ra trong cuốn sách Man Makes Himself năm 1936.[11][12] Sự khởi đầu của quá trình này ở các vùng khác nhau được xác định từ 10.000 đến 8.000 TCN ở vùng Lưỡi liềm màu mỡ[5][13] và có lẽ là 8000 TCN ở khu nông nghiệp sơ khai Kuk của Melanesia.[14] Sự chuyển biến này ở khắp mọi nơi dường như gắn liền với sự thay đổi từ lối sống chủ yếu là du mục săn bắn hái lượm sang lối sống dựa vào nông nghiệp, định cư hơn, với sự khởi đầu là việc thuần hóa các loài động thực vật khác nhau – tùy thuộc vào sản vật địa phương, và có lẽ cũng chịu ảnh hưởng từ bản sắc văn hóa địa phương. Nghiên cứu khảo cổ học gần đây chứng minh rằng ở một số khu vực như bán đảo Đông Dương chẳng hạn, quá trình chuyển đổi từ săn bắn hái lượm sang nông nghiệp không tuyến tính, mà mang tính chất từng vùng.[15]
Có 1 số ít triết lý cạnh tranh đối đầu ( nhưng không loại trừ lẫn nhau ) về các yếu tố thôi thúc con người chuyển sang nông nghiệp. Nổi bật nhất trong số này là :
- Giả thuyết Ốc đảo, do Raphael Pumpelly đề xuất vào năm 1908, được V. Gordon Childe phổ biến năm 1928 và được tóm tắt trong cuốn Man Makes Himself của ông.[16] Giả thuyết này cho rằng: khi khí hậu trở nên khô cằn do áp thấp Đại Tây Dương dịch chuyển về phía bắc, phạm vi sống của con người bị thu hẹp quanh các ốc đảo, nơi họ buộc phải sống gần với động vật, sau đó được thuần hóa cùng với thực vật. Tuy nhiên, lý thuyết này ít được ủng hộ do dữ liệu cổ khí hậu cho thấy khu vực này ẩm ướt hơn là khô hạn.[17]
- Giả thuyết Hilly Flank do Robert Braidwood đề xuất năm 1948, cho rằng nông nghiệp bắt nguồn từ các dãy núi Taurus và Zagros với đất đai màu mỡ hỗ trợ nhiều loại động thực vật mà con người có thể thuần hóa.[18]
- Mô hình Lễ hội của Brian Hayden[19] cho rằng nông nghiệp được thúc đẩy bởi sự phô trương quyền lực, chẳng hạn như các buổi tiệc tùng lễ hội đình đám, để tỏ sự thống trị. Sự tập hợp một lượng lớn thực phẩm tại một nơi thúc đẩy công nghệ nông nghiệp.
- Peter Richerson, Robert Boyd, và Robert Bettinger[20] chỉ ra rằng sự phát triển của nông nghiệp tương quan với sự ổn định khí hậu ngày càng tăng của thế Toàn Tân. Cuốn sách của Ronald Wright và loạt bài giảng của Massey A Short History of Progress (Lược sử của sự tiến triển)[21] có phổ biến giả thuyết này.
- Giả thuyết va chạm Younger Dryas được cho là nguyên nhân gây ra sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật lớn và kết thúc thời kỳ băng hà cuối cùng, có thể đã gây ra áp lực tiến hóa lên con người để họ phải phát triển nông nghiệp.[22] Bản thân cuộc cách mạng nông nghiệp phản ánh tình trạng dân số quá tải điển hình của một số loài nhất định sau các sự kiện mở màn một thời đại tuyệt chủng; chính sự quá tải dân số đó lại làm lan truyền tuyệt chủng.
- Leonid Grinin lập luận rằng bất kể loại cây trồng nào thì sự phát minh nông nghiệp độc lập luôn diễn ra ở những môi trường tự nhiên đặc biệt (ví dụ như Đông Nam Á). Người ta cho rằng việc trồng cây lương thực bắt nguồn đâu đó ở Cận Đông: trên những ngọn đồi của Palestine hoặc Ai Cập. Vì vậy, Grinin cho rằng niên đại cuộc cách mạng nông nghiệp bắt đầu trong khoảng từ 12.000-9.000 BP, mặc dù trong một số trường hợp, những cây trồng hoặc xương của động vật thuần hóa có tuổi thậm chí còn cổ xưa hơn, cách đây 14-15 nghìn năm.[23]
- Andrew Moore cho rằng cuộc Cách mạng Đồ đá mới thai nghén rất lâu ở vùng Levant, có lẽ đã nhen nhóm kể từ thời đại Đồ Đá Cũ. Trong bài luận “A Reassessment of the Neolithic Revolution” (Đánh giá lại cuộc Cách mạng Đồ đá mới), Frank Hole đào sâu vào lý thuyết về mối quan hệ giữa việc thuần hóa động và thực vật. Ông cho rằng các sự kiện đã xảy ra độc lập tùy vào những di chỉ chưa được khám phá. Ông lưu ý rằng ta chưa tìm thấy di chỉ chuyển tiếp nào lưu lại sự thay đổi từ những gì ông gọi là hệ thống xã hội trả lại tức thời và trả lại trì hoãn. Ông nhấn mạnh rằng tất cả các loài động vật thuần hóa (dê, cừu, gia súc và lợn) chưa xuất hiện cho đến thiên niên kỷ thứ 6 tại Tell Ramad. Hole kết luận rằng “cần phải chú tâm hơn đến các cuộc điều tra trong tương lai ở rìa phía tây của lưu vực sông Euphrates, có lẽ xa về phía nam của Bán đảo Ả Rập, đặc biệt là nơi các wadi mang lượng mưa thế Canh Tân chảy qua.“[24]
Phát triển và lan tỏa[sửa|sửa mã nguồn]
Nông nghiệp xuất hiện đầu tiên ở Tây Nam Á khoảng 10.000–9.000 năm trước. Khu vực này là trung tâm thuần hóa của ba loại cây lương thực (Triticum monococcum, Triticum dicoccum và đại mạch), bốn loại đậu (đậu lăng, đậu Hà Lan, Vicia ervilia và đậu gà) và cây lanh. Thuần hóa là một quá trình chậm chạp diễn ra ở nhiều vùng, và có trước hàng thế kỷ nếu không phải là hàng thiên niên kỷ thời tiền thuần hóa.[25]
Phát hiện số lượng lớn hạt giống và một viên đá mài ở di chỉ Epipalaeolithic Ohalo II, có niên đại khoảng 19.400 BP, cho thấy việc sử dụng thực vật để tiêu thụ và rằng người tiền sử ở Ohalo II đã chế biến hạt thóc để tiêu thụ.[26][27] Tell Aswad là di chỉ nông nghiệp lâu đời nhất, với loài lúa mì Triticum dicoccum được thuần hóa có niên đại 10.800 BP.[28][29] Lúa mạch hai hàng được tách vỏ (hulled, two-row barley)-được thuần hóa sớm nhất tại Jericho trong thung lũng Jordan và tại Iraq ed-Dubb ở Jordan.[30] Các di chỉ khác trong hành lang Levantine có bằng chứng sớm về nông nghiệp bao gồm Wadi Faynan 16 và Netiv Hagdud.[5] Jacques Cauvin lưu ý rằng những người định cư ở Aswad không thuần hóa tại địa điểm, mà “đến đây, có lẽ từ vùng Anti-Lebanon lân cận, sở hữu sẵn hạt giống để trồng”.[31] Ở vùng Lưỡi liềm màu mỡ phía Đông, bằng chứng về việc trồng cây dại đã được tìm thấy ở Choga Gholan, Iran có niên đại 12.000 BP, cho thấy có nhiều khu vực ở Lưỡi liềm màu mỡ nơi quá trình thuần hóa đã phát triển gần như đồng thời.[32] Văn hóa Qaraoun đồ đá mới nặng đã được xác định tại khoảng năm mươi di chỉ ở Lebanon xung quanh các suối nguồn của sông Jordan, nhưng chưa xác định được niên đại đáng tin cậy.[33][34]
Thời gian của sự lan rộng Đồ đá mới ở châu Âu từ 9,000 tới 3,500 BP
Các nhà khảo cổ lần theo dấu vết sự Open của các xã hội sản xuất thực phẩm ở khu vực Levant của Tây Nam Á vào cuối thời kỳ băng hà ở đầu cuối khoảng chừng năm 12.000 TCN, và tăng trưởng thành một số ít nền văn hóa truyền thống đặc trưng theo khu vực vào thiên niên kỷ thứ 8 TCN. Dấu tích của các xã hội sản xuất thực phẩm ở biển Aegean có niên đại carbon khoảng chừng vào 6500 TCN tại Knossos, hang Franchthi và một số ít di chỉ trên đất liền ở Thes saly. Các nhóm đồ đá mới Open ngay sau đó ở vùng Balkan và trung nam châu Âu. Các nền văn hóa truyền thống đồ đá mới ở đông nam châu Âu ( Balkan và Aegean ) biểu lộ tính liên tục với các nhóm ở tây nam Á và Anatolia ( ví dụ, Çatalhöyük ) .
Các bằng chứng hiện tại cho thấy văn hóa vật chất thời đồ đá mới đã du nhập vào châu Âu thông qua phía tây Anatolia. Tất cả các di chỉ thời kỳ đồ đá mới ở châu Âu có đồ gốm sứ và các loài động thực vật được thuần hóa ở Tây Nam Á: Triticum monococcum, Triticum dicoccum, đại mạch, đậu lăng, lợn, dê, cừu và gia súc. Dữ liệu di truyền cho thấy rằng không có quá trình thuần hóa động vật độc lập nào diễn ra ở Châu Âu thời kỳ này, và tất cả các động vật thuần hóa ban đầu đều bắt nguồn từ Tây Nam Á.[51] Loài thuần hóa duy nhất không phải từ Tây Nam Á là cây kê Proso, được thuần hóa ở Đông Á. Bằng chứng sớm nhất về làm pho mát có niên đại 5500 TCN ở Kujawy, Ba Lan.[36]
Sự lan tỏa khắp châu Âu, từ Aegean đến Anh, mất khoảng chừng 2.500 năm ( 6500 – 4000 BP ). Vùng Baltic bị xâm nhập muộn hơn một chút ít, vào khoảng chừng năm 3500 TCN, và cũng có sự chậm trễ trong quy trình định cư tại đồng bằng Pannonian. Nhìn chung, quy trình thuộc địa hóa theo quy mô ” nhảy cóc ” do đồ đá mới tiến từ vùng đất phù sa phì nhiêu này sang vùng đất phù sa phì nhiêu khác, không đi qua các khu vực núi non. Phân tích niên đại carbon chỉ ra rằng các quần thể thời kỳ đồ đá mới và thời kỳ đồ đá giữa sống cạnh nhau trong nhiều thiên niên kỷ ở nhiều khu vực của châu Âu, đặc biệt quan trọng là ở bán đảo Iberia và dọc theo bờ biển Đại Tây Dương .
Bằng chứng đồng vị C14[sửa|sửa mã nguồn]
Nông dân châu Âu thời Đồ đá mới có gen gần nhất với các quần thể Cận Đông/Anatolia hiện đại. Khoảng cách di truyền mẫu hệ giữa quần thể văn hóa đồ gốm tuyến tính đồ đá mới châu Âu (5,500–4,900 BP hiệu chỉnh) và quần thể Tây Á-Âu hiện đại.[38]
Sự lan rộng của Đồ đá mới từ vùng Cận Đông đến châu Âu lần tiên phong được điều tra và nghiên cứu định lượng vào những năm 1970, khi đã có đủ tài liệu C14 tính niên đại cho các di chỉ thời kỳ đồ đá mới. [ 39 ] Ammerman và Cavalli-Sforza phát hiện ra mối quan hệ tuyến tính giữa tuổi của một di chỉ đồ đá mới sớm và khoảng cách của nó tới ngọn nguồn ở Cận Đông ( Jericho ), từ đó suy ra rằng đồ đá mới Viral với vận tốc trung bình không đổi khoảng chừng 1 km / năm. [ 39 ] Nhiều điều tra và nghiên cứu gần đây xác nhận những tác dụng này và đo lường và thống kê ra vận tốc 0,6 – 1,3 km / năm với độ an toàn và đáng tin cậy tới 95 %. [ 39 ]
Phân tích DNA ty thể[sửa|sửa mã nguồn]
Kể từ khi con người bành trướng ra khỏi châu Phi cách đây 200.000 năm, các sự kiện di cư thời tiền sử và lịch sử dân tộc khác nhau đã diễn ra ở châu Âu. [ 40 ] Sự vận động và di chuyển của con người bao hàm sự vận động và di chuyển hệ quả của các gen của họ, từ cơ sở đó, ta hoàn toàn có thể ước tính tác động ảnh hưởng của những cuộc di cư này trải qua nghiên cứu và phân tích di truyền của các quần thể người. [ 40 ] Các hoạt động giải trí nông nghiệp và chăn nuôi bắt nguồn từ 10.000 năm trước ở một vùng Cận Đông được gọi là vùng Lưỡi liềm phì nhiêu. [ 40 ] Theo hồ sơ khảo cổ học, hiện tượng kỳ lạ này, được gọi là ” Đồ đá mới “, nhanh gọn lan rộng ra từ các chủ quyền lãnh thổ này sang châu Âu. [ 40 ] Tuy nhiên, liệu sự lan tỏa này có đi kèm với sự di cư của con người hay không vẫn còn bị tranh cãi. [ 40 ] Tuy vậy, DNA ty thể nắm giữ câu trả lời-một loại DNA thừa kế từ mẹ nằm trong tế bào chất-đã được chiết xuất từ tàn tích của những người nông dân thời kỳ tiền đồ đá mới B ( PPNB ) ở Cận Đông và sau đó được so sánh với tài liệu có sẵn từ các quần thể đồ đá mới khác ở châu Âu và cả dân cư từ Đông Nam Âu và Cận Đông văn minh. [ 40 ] Các hiệu quả thu được cho thấy những cuộc di cư đáng kể của con người có tương quan đến sự lan rộng của đồ đá mới và cho thấy rằng những người nông dân thời đồ đá mới tiên phong đã đặt chân lên châu Âu theo con đường hàng hải qua hòn đảo Síp và quần đảo Aegean. [ 40 ]
-
Bản đồ sự lan rộng của các văn hóa truyền thống Đồ đá mới từ Cận Đông tới châu Âu, với thời hạn .
-
Sự phân bổ các haplotype văn minh của nông dân PPNB
-
Khoảng cách gen giữa nông dân PPNB và quần thể người văn minh
Các di chỉ Đồ đá mới sớm ở Cận Đông và Nam Á 10,000 – 3,800 BPVận tốc lan tỏa của Đồ đá mới từ Cận Đông vào Nam Á dựa trên phương trình khoảng cách theo niên đại của các di chỉ Đồ đá mới bắt đầu từ Gesher, Israel. Tốc độ lan tỏa vào khoảng 0.6 km/năm.[41]Các di chỉ đồ đá mới sớm nhất ở Nam Á là Bhirrana, Haryana có niên đại 7570 – 6200 TCN, [ 42 ] và Mehrgarh, có niên đại 6500 – 5500 BP, ở đồng bằng Kachi của Baluchistan, Pakistan ; ở đây có dẫn chứng về trồng trọt ( lúa mì và lúa mạch ) và chăn nuôi ( gia súc, cừu và dê ) .Có dẫn chứng can đảm và mạnh mẽ về mối liên hệ nhân quả giữa thời kỳ đồ đá mới Cận Đông và xa hơn về phía đông, tại Thung lũng sông Ấn. [ 43 ] Có 1 số ít dẫn chứng ủng hộ liên hệ giữa thời kỳ đồ đá mới ở Cận Đông và tiểu lục địa Ấn Độ. [ 43 ] Di chỉ tiền sử Mehrgarh ở Baluchistan ( Pakistan văn minh ) là di chỉ thời kỳ đồ đá mới sớm nhất ở Tây Bắc Ấn Độ, có niên đại sớm nhất vào năm 8500 TCN. [ 43 ] Các loại cây cối thuần hóa thời kỳ đồ đá mới ở Mehrgarh gồm có nhiều lúa mạch và một lượng nhỏ lúa mì. Có dẫn chứng mạnh cho việc thuần hóa lúa mạch và bò u địa phương tại Mehrgarh, nhưng các giống lúa mì được cho là có nguồn gốc Cận Đông, vì sự phân bổ tân tiến của các giống lúa mì hoang dã chỉ số lượng giới hạn ở Bắc Levant và Nam Thổ Nhĩ Kỳ. [ 43 ] Nghiên cứu map vệ tinh chi tiết cụ thể về một số ít di chỉ khảo cổ ở vùng Baluchistan và Khybar Pakhtunkhwa cũng cho thấy những điểm tương đương trong tiến trình đầu của nông nghiệp với các di chỉ ở Tây Á. [ 43 ] Đồ gốm được sản xuất theo cách thiết kế xây dựng tấm liên tục ( sequential slab construction ), các hố lửa hình tròn trụ bao quanh bởi đá cuội cháy, và các kho thóc lớn rất phổ cập ở cả Mehrgarh và nhiều khu vực ở Lưỡng Hà. [ 43 ] Tư thế của những bộ xương trong các ngôi mộ tại Mehrgarh rất giống với tư thế của những bộ xương ở Ali Kosh trên dãy núi Zagros, miền nam Iran. [ 43 ] Bất chấp sự khan hiếm của chúng, các xác lập niên đại bằng C14 và khảo cổ học cho các di chỉ thời kỳ đồ đá mới ở Nam Á chỉ đến sự liên tục đáng kể trên toàn khu vực to lớn từ Cận Đông đến Tiểu lục địa Ấn Độ, khớp với sự lan tỏa có mạng lưới hệ thống về phía đông với vận tốc khoảng chừng 0,65 km / năm. [ 43 ]
Phân bố không gian của các di chỉ trồng riêng lúa gạo, trông riêng kê và trồng cả hai ở Trung Quốc Đồ đá mới (He et al., 2017)[44]
Nông nghiệp ở Trung Quốc thời kỳ đồ đá mới hoàn toàn có thể được chia thành hai khu vực chính, đó là miền Bắc và miền Nam Trung Quốc : [ 44 ] [ 45 ]
Địa điểm nơi lúa gạo được thuần hóa có lẽ rằng là một trong hai nơi. Vùng rất khả thi là hạ lưu sông Dương Tử, được cho là quê nhà của người Nam Đảo nguyên thủy và gắn liền với văn hóa truyền thống Khóa Hồ Kiều, văn hóa truyền thống Hà Mỗ Độ, văn hóa truyền thống Mã Gia Banh và văn hóa truyền thống Tung Dịch. Các đặc trưng vật chất của thời kỳ tiền Nam Đảo gồm có nhà sàn, chạm khắc ngọc bích và công nghệ tiên tiến đóng thuyền. Chế độ siêu thị nhà hàng của họ gồm quả sồi, năn ngọt, khiếm thực và lợn thuần hóa. Vùng khả thi thứ hai nằm ở trung lưu sông Dương Tử, được cho là quê nhà của người Miêu-Dao nguyên thủy và gắn liền với văn hóa truyền thống Bành Đầu Sơn và văn hóa truyền thống Đại Khê. Cả hai vùng này đều có dân cư đông đúc và có các mối liên hệ thương mại tiếp tục với nhau, và với những người nói tiếng Nam Á nguyên thủy ở phía tây lẫn những người nói tiếng Kra-Dai nguyên thủy ở phía nam, tạo điều kiện kèm theo cho kỹ nghệ canh tác lúa nước lan rộng khắp miền nam Trung Quốc. [ 44 ] [ 45 ] [ 51 ]
Các nền văn hóa truyền thống trồng kê và trồng lúa lần tiên phong tiếp xúc với nhau vào khoảng chừng 9.000 đến 7.000 BP, tạo ra một hiên chạy dọc trồng cả lúa và kê xen kẽ các nơi chỉ trồng lúa hoặc trồng kê. [ 44 ] Vào khoảng chừng 5.500 đến 4.000 BP, ngày càng có nhiều cuộc di cư vào Đài Loan từ các nền văn hóa truyền thống Nam Đảo Đại Bồn Khanh, mang theo công nghệ tiên tiến trồng lúa và kê. Trong thời kỳ này, có vật chứng về các khu định cư lớn, trồng lúa thâm canh ở Đài Loan và quần đảo Bành Hồ, có lẽ rằng đã dẫn đến sự khai thác thiên nhiên và môi trường quá mức. Bellwood ( 2011 ) đề xuất kiến nghị rằng đây rất hoàn toàn có thể là lí do cho sự lan rộng ra của người Nam Đảo, mở màn với các luồng di cư của họ từ Đài Loan đến Philippines vào khoảng chừng 5.000 BP. [ 45 ]Người Nam Đảo mang công nghệ tiên tiến trồng lúa đến Khu vực Đông Nam Á hải đảo cùng với các loài thuần hóa khác. Môi trường hòn đảo nhiệt đới gió mùa mới cũng có những cây lương thực mới mà họ khai thác. Họ mang theo các loài thực vật và động vật hoang dã hữu dụng trong mỗi chuyến đi thuộc địa hóa, tác dụng là sự gia nhập nhanh gọn của các loài đã được thuần hóa và bán thuần hóa khắp Châu Đại Dương. Họ cũng đã tiếp xúc với các TT nông nghiệp sơ khai của các quần thể nói tiếng Papuan ở New Guinea cũng như các quần thể nói tiếng Dravidia ở Nam Ấn và Sri Lanka vào khoảng chừng 3.500 BP. Người Nam Đảo lấy được các giống cây xanh như chuối và tiêu tại đây, và đổi lại, họ dạy người địa phương cách canh tác đất ngập nước và chế tác xuồng vượt biển. [ 45 ] [ 52 ] [ 53 ] [ 54 ] Vào thiên niên kỷ 1 CN, họ đã di cư tới tận Madagascar và Comoros, mang theo cây lương thực của Khu vực Đông Nam Á gồm có lúa gạo đến Đông Phi. [ 55 ] [ 56 ]
Thung lũng sông Nile, Ai Cập
Ở châu Phi, ba khu vực được xác lập là đã tăng trưởng độc lập nông nghiệp : cao nguyên Ethiopia, Sahel và Tây Phi. [ 57 ] trái lại, nông nghiệp ở Thung lũng sông Nile được cho là đã tăng trưởng từ cuộc Cách mạng đồ đá mới bắt đầu ở vùng Lưỡi liềm Màu mỡ. Nhiều viên đá mài được tìm thấy tại các di chỉ văn hóa truyền thống Sebilian và Mechian của Ai Cập sơ khai và dẫn chứng đã được tìm thấy về một nền kinh tế tài chính dựa trên cây cối thuần hóa thời kỳ đồ đá mới có niên đại khoảng chừng 7.000 BP. [ 58 ] [ 59 ] Không giống như Trung Đông, những nơi này là ” bình minh lỗi ” của nông nghiệp, vì các di chỉ này sau đó bị bỏ phí và việc canh tác vĩnh viễn sau đó bị trì hoãn cho đến năm 6.500 BP với các nền văn hóa truyền thống Tasian và Badarian và sự Open của các loại cây cối và vật nuôi từ Cận Đông .
Chuối và chuối táo quạ, được thuần hóa đầu tiên ở Đông Nam Á, rất có thể là Papua New Guinea, được thuần hóa lại ở Châu Phi sớm nhất là 5.000 năm trước. Khoai và Colocasia esculenta cũng được trồng ở châu Phi.[57]
Cây trồng nổi tiếng nhất được thuần hóa ở vùng cao nguyên Ethiopia là cà phê. Ngoài ra, lá khát, Ensete ventricosum, Guizotia abyssinica, Eragrostis tef và kê chân vịt cũng được thuần hóa ở vùng cao nguyên Ethiopia. Các loại cây trồng được thuần hóa ở vùng Sahel bao gồm cao lương và Pennisetum glaucum. Hạt côla lần đầu tiên được thuần hóa ở Tây Phi. Các cây trồng khác được thuần hóa ở Tây Phi bao gồm lúa châu Phi, khoai và cọ dầu.[57]
Nông nghiệp lan rộng đến Trung và Nam Phi trong cuộc lan rộng ra Bantu trong suốt thiên niên kỷ 1 TCN đến thiên niên kỷ 1 CN .
Ngô, đậu và bí là những cây trồng sớm nhất được thuần hóa ở Trung Bộ châu Mỹ, với ngô bắt đầu từ khoảng 4000 TCN,[60] bí vào khoảng 6000 TCN, và đậu có ước tính muộn nhất vào 4000 TCN. Khoai tây và sắn được thuần hóa ở Nam Mỹ. Ở khu vực miền đông Hoa Kỳ, những người Mỹ bản địa đã thuần hóa hướng dương, Iva annua và Chenopodium vào khoảng năm 2500 TCN. Cuộc sống làng mạc định canh dựa vào nông nghiệp không phát triển cho đến thiên niên kỷ thứ 2 TCN, được gọi là Thời kỳ Hình thành.[61]
Bằng chứng về các rãnh thoát nước tại đầm lầy Kuk ở biên giới Tây và Nam Cao nguyên Papua New Guinea cho thấy con người ở đây trồng khoai môn và nhiều loại cây trồng khác, có niên đại 11.000 BP. Hai loài có giá trị kinh tế tiềm năng là khoai môn (Colocasia esculenta) và khoai mỡ (Dioscorea sp.), đã được xác định có niên đại ít nhất là 10.200 năm trước thời điểm hiện tại (BP hiệu chỉnh). Các bằng chứng khác về chuối và mía có niên đại từ 6.950 đến 6.440 TCN. Đây là giới hạn theo cao độ của những loại cây trồng này, và người ta cho rằng việc trồng trọt những loài này trong giới hạn sinh thái ở vùng đất thấp có thể còn sớm hơn. CSIRO đã tìm thấy bằng chứng cho thấy khoai môn du nhập vào quần đảo Solomon từ 28.000 năm trước, khiến khoai môn trở thành cây trồng sớm nhất của con người.[62][63] Nó dường như đã dẫn đến sự lan truyền của ngữ hệ Liên New Guinea từ phía đông New Guinea sang quần đảo Solomon và phía tây sang Timor và các khu vực lân cận của Indonesia. Điều này dường như xác nhận giả thuyết của Carl Sauer, người viết cuốn “Agricultural Origins and Dispersals” từ năm 1952, đề xuất rằng vùng này là một trung tâm nông nghiệp thời cổ đại.
Thay đổi xã hội[sửa|sửa mã nguồn]
Dân số thế giới (ước lượng) không tăng trưởng cho tới hàng thiên niên kỷ sau cuộc cách mạng.
Mặc dù có văn minh công nghệ tiên tiến đáng kể, cuộc cách mạng đồ đá mới không dẫn đến sự ngày càng tăng dân số nhanh gọn ngay lập tức. Những quyền lợi của nó có vẻ như bị bù trừ bởi nhiều ảnh hưởng tác động bất lợi khác, kiểu như bệnh tật và cuộc chiến tranh. [ 64 ]Sự sinh ra của nông nghiệp không nhất thiết dẫn đến những văn minh rõ ràng. Tiêu chuẩn dinh dưỡng của các quần cư thời đồ đá mới thấp hơn nhiều so với các hội đồng săn bắn hái lượm. Một số nghiên cứu và điều tra dân tộc bản địa học và khảo cổ học Kết luận rằng sự quy đổi sang chính sách ăn dựa trên ngũ cốc gây ra sự giảm tuổi thọ và tầm vóc, làm tăng tỷ suất tử trận ở trẻ sơ sinh, tăng trưởng các bệnh truyền nhiễm, tăng trưởng các bệnh mãn tính, viêm sưng hoặc thoái hóa ( như béo phì, tiểu đường loại 2, bệnh tim mạch ) và thiếu vắng nhiều chất dinh dưỡng như vitamin, sắt, khoáng chất dùng để tăng trưởng xương và răng ( gây ra bệnh loãng xương và còi xương ). [ 65 ] [ 66 ] [ 67 ] Chiều cao trung bình của con người giảm từ 178 cm ở nam và 168 cm ở nữ xuống còn lần lượt 165 cm và 155 cm. Phải cho đến thế kỷ 20, chiều cao trung bình mới trở lại mức trước Cách mạng Đồ đá mới. [ 68 ]
Quan niệm truyền thống cho rằng sản xuất lương thực nông nghiệp hỗ trợ dân số đông hơn, do đó hỗ trợ các cộng đồng định cư lớn hơn, rồi dẫn đến tích lũy hàng hóa công cụ, rồi con người chuyên môn hóa với nhiều hình thức lao động mới. Sự phát triển của các xã hội lớn hơn dẫn đến sự phát triển của nhiều sự lựa chọn mới và tổ chức nhà nước. Thặng dư lương thực phân tầng giai cấp xã hội: giới tinh hoa không tham gia vào nông nghiệp, công nghiệp hoặc thương mại, nhưng lại thống trị cộng đồng bằng nhiều phương tiện khác và độc quyền sự ra quyết định (decision making).[69] Học giả Jared Diamond (trong cuốn Thế giới cho đến ngày hôm qua) cho rằng sự dư thừa của sữa và hạt ngũ cốc cho phép các bà mẹ nuôi dạy đồng thời cả trẻ lớn (3 hoặc 4 tuổi) và trẻ nhỏ. Kết quả là dân số có thể tăng nhanh hơn. Diamond, đồng tình với các học giả nữ quyền như V. Spike Peterson, cho rằng nông nghiệp gây ra sự chia rẽ xã hội sâu sắc và khuyến khích bất bình đẳng giới.[70][71] Sự cải tổ xã hội này được các nhà lý thuyết lịch sử, như Veronica Strang, truy vết thông qua tiến trình mô tả thần học.[72] Strang so sánh các vị thần nước trước và sau cuộc Cách mạng Nông nghiệp Đồ đá mới, đáng chú ý nhất là Thần Vệ nữ của Lespugue và các vị thần Hy La như Circe hoặc Charybdis: vị thần trước được tôn sùng và kính trọng, còn các vị thần sau thống trị và chinh phục. Lý thuyết này được bổ sung bởi giả thiết được chấp nhận rộng rãi của Parsons rằng “xã hội luôn là đối tượng của sự sùng bái tôn giáo”,[73] lập luận rằng với sự tập quyền của nhà nước và buổi bình minh của thế Nhân Sinh, các vai trò trong xã hội trở nên hạn chế hơn và được hợp lý hóa thông qua tác động điều hòa của tôn giáo; một quá trình được kết tinh trong tiến trình phát triển từ đa thần giáo đến độc thần giáo.
Các cuộc cách mạng tiếp theo[sửa|sửa mã nguồn]
Người Ai Cập cổ đại vắt sữa bò thuần hóa
Andrew Sherratt lập luận rằng sau Cách mạng Đồ đá mới là quá trình tò mò thứ hai mà ông gọi là cuộc cách mạng loại sản phẩm thứ cấp. Động vật có vẻ như như lần tiên phong được thuần hóa thuần túy để phân phối thịt. [ 74 ] Cuộc cách mạng loại sản phẩm thứ cấp diễn ra khi con người nhận ra rằng động vật hoang dã cũng cung ứng 1 số ít loại sản phẩm hữu dụng khác, gồm có :
- da thú (từ động vật chưa được thuần hóa)
- phân bón (từ phân của động vật đã được thuần hóa)
- len (từ cừu, lạc đà không bướu, alpaca và dê Angora)
- sữa (từ dê, gia súc, bò Tây Tạng, cừu, ngựa và lạc đà)
- lực kéo (từ bò, lừa hoang Trung Á, lừa, ngựa, lạc đà và chó)
- hỗ trợ con người canh gác và chăn gia súc (chó)
Sherratt cho rằng giai đoạn này cho phép con người tận dụng năng lượng của vật nuôi theo những cách mới, đồng thời cho phép canh tác thâm canh lâu dài và sản xuất cây trồng, mở ra các vùng đất nghèo nàn hơn để trồng trọt. Nó cũng tạo ra hiện tượng mục súc ở những khu vực bán khô cằn, rìa sa mạc, và dẫn đến việc thuần hóa cả lạc đà một bướu và lạc đà Bactria.[74] Việc chăn thả quá mức ở những khu vực này, đặc biệt là bởi những đàn dê, khiến hoang mạc lan rộng.
Chế độ ăn và sức khỏe thể chất[sửa|sửa mã nguồn]
So với những người hái lượm, chính sách ăn của nông dân thời kỳ đồ đá mới có hàm lượng carbohydrate cao hơn nhưng lại thiếu chất xơ, vi chất dinh dưỡng và protein. Điều này dẫn đến sự ngày càng tăng tần số răng sâu, [ 75 ] ngưng trệ tăng trưởng thời thơ ấu và ngày càng tăng lượng mỡ tích trữ trong khung hình. Các điều tra và nghiên cứu liên tục phát hiện ra rằng dân số trên khắp quốc tế trở nên thấp lùn hơn sau khi chuyển sang nông nghiệp. Xu hướng này trở nên trầm trọng do chính sách ăn theo mùa vụ và làm tăng rủi ro tiềm ẩn đói kém nếu mất mùa. [ 76 ]
Trong suốt quá trình phát triển của các xã hội định cư, dịch bệnh lây lan nhanh hơn so với thời kỳ mà các xã hội săn bắn hái lượm tồn tại. Vệ sinh không sạch sẽ và việc thuần hóa động vật có thể lý giải cho sự gia tăng số người chết và bệnh tật sau cuộc Cách mạng Đồ đá mới, do dịch bệnh lây lan từ động vật sang người. Một số ví dụ về điều này là bệnh cúm, bệnh đậu mùa và bệnh sởi.[77] Hệ gen vi sinh vật cổ đại chỉ ra rằng tổ tiên trực tiếp của chủng vi khuẩn Salmonella enterica đã lây nhiễm cho quần thể nông dân trên khắp Tây Á-Âu lục địa 5.500 năm về trước, cung cấp bằng chứng phân tử cho giả thuyết cuộc cách mạng này đã gây ra dịch bệnh lây lan.[78] Đúng theo mô hình chọn lọc tự nhiên, những người đầu tiên thuần hóa động vật có vú lớn đã nhanh chóng có được hệ đề kháng đối với bệnh tật vì qua mỗi thế hệ, những cá thể có miễn dịch tốt hơn có cơ hội sống sót cao hơn. Trong khoảng 10.000 năm gần gũi của họ với các loài động vật, chẳng hạn như bò, người Âu-Á và châu Phi đã có sức chống cự lại nhiều mầm bệnh mà người thổ dân ở châu Mỹ hay những nơi khác không có.[79] Ví dụ, dân số ở các vùng biển Caribê và một số quần đảo Thái Bình Dương đã hoàn toàn bị xóa sổ bởi dịch bệnh. 90% hoặc hơn dân số châu Mỹ bản địa đã bị tàn phá bởi các dịch bệnh châu Âu và châu Phi sau các chuyến thám hiểm của thực dân châu Âu. Một số nền văn minh như Đế quốc Inca sở hữu loài động vật có vú lớn đặc hữu là llama, nhưng sữa của chúng không được uống bởi con người và không chung sống gần với con người nên nguy cơ lây nhiễm bệnh còn hạn chế. Theo nghiên cứu khảo cổ sinh học, ảnh hưởng của nông nghiệp đối với sức khỏe thể chất và răng miệng ở các xã hội trồng lúa Đông Nam Á từ 4000-1500 BP không bất lợi như ở các vùng khác trên thế giới.[80]