Phương pháp khảo sát xác định tốc độ phát sinh chất thải rắn
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.61 KB, 9 trang )
Phương Pháp Khảo Sát Xác Định Tốc Độ Phát Sinh Chất Thải Rắn
I. Khảo Sát Xác Định Tốc Độ Phát Sinh Chất Thải Rắn Từ Hộ Gia Đình
Cách thức tổ chức khảo sát, đo đạc, lấy mẫu để xác định tốc độ phát sinh từ hộ gia
đình sẽ thay đổi tùy theo mục đích sử dụng số liệu thu thập được cũng như phương
án quy hoạch quản lý CTRĐT của khu vực trong tương lai. Để đơn giản và dễ
hiểu, trong phần này sẽ trình bày phương pháp khảo sát cho hai trường hợp: (1)
không thực hiện phân loại CTR tại hộ gia đình trước khi thu gom và (2) CTR từ hộ
gia đình sẽ được phân loại thành hai thành phần (rác thực phẩm và phần còn lại)
trước khi thu gom.
Trường hợp 1- Không thực hiện phân loại chất thải rắn từ hộ gia đình
Công tác khảo sát, lấy mẫu xác định tốc độ phát sinh CTR từ hộ gia đình có thể
được tiến hành theo các bước sau đây:
– Bước 1 – Thu Thập Số Liệu. Thu thập những thông tin chung về khu dân cư
cần khảo sát bao gồm: bản đồ hành chính khu vực khảo sát, diện tích, số hộ gia
đình, dân số, mật độ dân số, sự phân bố dân cư trên địa bàn (có thể xác định đơn
giản bằng thông số bao nhiêu phường/quận, số khu phố/phường, số tổ dân
phố/khu phố), khu trung tâm, khu nhà ổ chuột, nhà chung cư, nhà biệt thự, đặc
điểm phát triển kinh tế xã hội trong khu vực. Các thông số này giúp việc xây
dựng mạng lưới lấy mẫu được đồng đều và thể hiện tính đặc trưng của khu dân
cư khảo sát.
– Bước 2-Xây Dựng Mạng Lưới Khảo Sát Lấy Mẫu. Mạng lưới khảo sát lấy
mẫu phải được phân bố đồng đều trong toàn khu vực khảo sát và cho phép xác
định giá trị đặc trưng theo phương pháp xác suất thống kê. Do đó, tùy theo thời
gian và kinh phí cho phép, số lượng mẫu khảo sát càng nhiều, độ chính xác của
kết quả thu được càng cao.
Dựa trên tổng số hộ gia đình hiện có trong khu vực, xác định số hộ gia đình cần
khảo sát. Nếu tính theo giá trị phù hợp về mặt xác suất, số lượng hộ gia đình
khảo sát phải chiếm khoảng 30% tổng số hộ hiện có trong khu vực. Tuy nhiên,
cũng cần lưu ý rằng, đối với những khu dân cư lớn với tổng số hộ dân lên đến
vài chục ngàn hộ (ví dụ 35.000 hộ), chỉ cần khảo sát 10% tổng số hộ này, số
lượng hộ gia đình cần khảo sát cũng đã rất lớn (trong ví dụ này là 3.500 hộ). Đó
là chưa kể, đối với mỗi hộ gia đình, việc khảo sát lấy mẫu còn phải đặc trưng
cho các thời điểm khác nhau trong tuần, giữa các tuần khác nhau trong tháng,
giữa các tháng khác nhau trong năm và đặc biệt vào các dịp lễ tết. Vì vậy, ở mỗi
khu dân cư, số lượng hộ gia đình khảo sát nếu có thể bố trí từ 500-1.000 hộ là
đạt yêu cầu.
Với tổng số hộ gia đình phải khảo sát đã chọn, xác định số hộ gia đình phải khảo
sát cho từng khu vực trong khu dân cư, cụ thể: số hộ/phường, số hộ/khu phố, số
hộ/tổ dân phố. Nếu không quan tâm đến đặc điểm nhà ở (nhà thấp tầng, nhà cao
tầng, chung cư, biệt thự, nhà ở đường phố chính, nhà ở các đường hẻm, nhà gần
kênh rạch,…) hay thu nhập (hộ có thu nhập thấp, trung bình và cao), các hộ gia
đình khảo sát sẽ được chọn ngẫu nhiên. Nếu quan tâm đến những đặc điểm kể
trên, hộ gia đình khảo sát ở từng khu vực phải được thiết kế sao cho có thể lấy
mẫu đặc trưng với các đặc điểm đã liệt kê. Vị trí của các hộ gia đình khảo sát sẽ
được chọn một cách tương đối dựa vào mạng lưới đường phố thể hiện trên bản
đồ và xác định lại địa chỉ chính xác khi triển khai khảo sát thực tế.
– Bước 3-Xác Định Chu Kỳ Khảo Sát Lấy Mẫu. Khối lượng rác phát sinh ở
từng hộ gia đình sẽ thay đổi theo sinh hoạt của gia đình giữa các ngày khác nhau
trong tuần, trong tháng và năm. Do đó, không thể có số liệu đặc trưng khi chỉ
tiến hành lấy mẫu phân tích một lần. Chu kỳ khảo sát lấy mẫu phải thể hiện
được các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ phát sinh CTR của hộ gia đình, cụ thể
như sau:
+ Do sinh hoạt của người dân giữa các ngày khác nhau trong tuần không giống
nhau. Những ngày làm việc (từ thứ hai đến thứ sáu) thường không có nhiều
thời gian để tổ chức họp mặt gia đình, gặp gỡ bạn bè, nấu nướng các món ăn
đặc biệt, trong khi đó, điều này thường xảy ra vào những ngày nghỉ cuối tuần
(thứ bảy và chủ nhật). Đây là một trong những lý do làm cho khối lượng rác
ở một số hộ gia đình vào những ngày nghỉ cuối tuần sẽ cao hơn những ngày
khác. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, các gia đình tổ chức đi chơi xa hoặc về
quê thăm bố mẹ, ông bà,… nên vào ngày cuối tuần lại không có rác. Bên
cạnh đó, cũng cần lưu ý rằng một số cán bộ, công nhân,… vẫn phải làm việc
sáng thứ bảy hay cả ngày thứ bảy nên ở nhiều hộ gia đình các hoạt động này
chỉ tập trung vào ngày chủ nhật. Vì vậy, khối lượng rác phát sinh từ các hộ
gia đình phải được khảo sát giữa ngày làm việc và ngày nghỉ cuối tuần. Chu
kỳ khảo sát có thể thực hiện như sau: một ngày làm việc (có thể chọn một
trong các ngày từ thứ hai đến thứ sáu) và hai ngày cuối tuần (cả thứ bảy và
chủ nhật). Như vậy, với yếu tố này, số mẫu lấy ở mỗi hộ gia đình đã là 3
mẫu.
+ Giữa các tháng mùa hè (mùa nắng) và các tháng mùa mưa, khối lượng CTR
phát sinh từ hộ gia đình cũng khác nhau, đặc biệt vào những tháng là mùa của
một loại trái cây nào đó hay vào mùa thu hoạch thủy hải sản. Vào các tháng
mùa mưa, các loại thực phẩm tươi sống cũng khác và một phần do thời tiết
mọi thứ đều trở nên ướt hơn, kể cả rác. Trong trường hợp này khối lượng rác
tính trên hộ gia đình trong ngày có thể lớn hơn so với các ngày trong mùa
khô, nhưng chủ yếu là độ ẩm cao hơn. Với những đặc điểm này, chu kỳ khảo
sát lấy mẫu phải đặc trưng cho các mùa đặc biệt trong năm, ít nhất là hai
mùa: mùa khô và mùa mưa. Nếu kỹ hơn có thể khảo sát theo các mùa trái cây
và thu hoạch thủy hải sản.
+ Vào những tháng có lễ đặc biệt (như giáng sinh, phật đản, rằm tháng giêng,
quốc khánh, quốc tế lao động,…) hoặc tết (tết nguyên đán, tết đoan ngọ,
dương lịch) thường là dịp các gia đình tổ chức họp mặt gia đình, bày mâm cỗ
đặc biệt. Trong những ngày giáp lễ, tết, gia đình thường tổng vệ sinh, sửa
sang nhà cửa, vườn tược,… nên khối lượng CTR phát sinh từ hộ gia đình
trong những ngày lễ tết đều rất cao so với ngày thường. Đó là chưa kể, trong
những ngày tết cổ truyền của dân tộc, rác phải được lưu lại ở hộ gia đình từ
mồng 1 tết đến hết ngày mồng 3 tết, nên khi phải thu gom sau tết, khối lượng
CTR/hộ gia đình sẽ còn cao hơn nhiều. Do đó, để có được những giá trị đặc
trưng cho trường hợp này, việc khảo sát lấy mẫu cũng cần được thực hiện
trong những ngày giáp lễ tết và ngày thu gom đầu tiên sau tết. Trong trường
hợp này có thể chọn cho ba trường hợp: dịp noel, giáp tết nguyên đán và
ngày thu gom đầu tiên sau tết nguyên đán.
+ Nếu có thể, việc khảo sát lấy mẫu xác định tốc độ phát sinh CTR từ các hộ
gia đình nên được thực hiện thường xuyên (hàng năm) để số liệu có tính
thống kê và đặc trưng được cho từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội. Tuy
nhiên, tùy theo kinh phí và thời gian có để thực hiện khảo sát mà giới hạn chu
kỳ khảo sát lấy mẫu cho phù hợp với từng giai đoạn thực hiện dự án.
–
Bước 4- Xác Định Thời Gian Gởi Túi Và Lấy Mẫu. Trong trường hợp
CTR không được tách riêng những thành phần dễ thối rữa (rác thực phẩm) với
các thành phần khác, khó có thể tồn trữ rác trong nhà lâu hơn một ngày. Do đó,
thời gian gởi túi nilon đựng mẫu và thời gian lấy mẫu phải được bố trí sao cho
đặc trưng được lượng rác sinh ra từ hộ gia đình là 1 ngày. Trong trường hợp có
phân loại CTR tại hộ gia đình, thời gian gởi túi nilon và lấy mẫu có thể lâu hơn
1 ngày, tùy theo phương án phân loại đã chọn.
–
Bước 5- Tập Huấn Nhân Viên Và Chuẩn Bị Dụng Cụ Khảo Sát. Trước
khi tiến hành lấy mẫu thực tế, nhân viên khảo sát cần được tập huấn để nắm rõ
yêu cầu khảo sát, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ và xác định được những thông tin
cần thu thập như sau:
+
+
+
+
+
Bản đồ khảo sát;
Số hộ gia đình cần khảo sát tại khu vực do mình đảm trách;
Mạng lưới lấy mẫu;
Chu kỳ lấy mẫu;
Nội dung cần ghi lại ở từng hộ gia đình khảo sát: (1) địa chỉ (ghi rõ số nhà,
tên đường, phường/khóm, quận), (2) đặc điểm nhà (mặt tiền, hẻm, cao tầng,
thấp tầng, chung cư, biệt thự), (3) số người/hộ (nếu có thể thì xác định rõ số
người dưới 18 tuổi, từ 18 đến 55 tuổi và trên 55 tuổi), (4) nếu có thể thì hỏi
thêm thu nhập của gia đình, (5) thứ-ngày-tháng-năm và giờ gởi túi nilon đựng
mẫu, (6) thứ-ngày-tháng-năm và giờ lấy lại túi nilon đã chứa CTR và (7) ghi
chú ngày lấy mẫu (mùa khô, mùa mưa, mùa trái cây, lễ, tết,…). Trong đó các
thông tin số (1), (3), (5) và (6) là những thông tin nhất định phải có;
+ Chuẩn bị đủ túi nilon để gởi cho các hộ gia đình và ghi chú trên từng túi khi
hộ gia đình đồng ý hợp tác thực hiện việc khảo sát.
+ Nếu không phải mang mẫu về phòng thí nghiệm hay đến nơi tập trung để
phân tích thành phần (chỉ cần xác định khối lượng CTR/hộ gia đình.ngđ hay
khối lượng CTR/người.ngđ), mỗi nhóm khảo sát phải mang theo cân (khoảng
10-15 kg) để cân tại chỗ túi chứa rác lấy từ các hộ gia đình (và đổ CTR sau
khi cân lên xe thu gom). Trong trường hợp phải xác định thành phần CTR,
không cần mang theo cân, lấy tất cả mẫu với đầy đủ những thông tin cần thiết
đã ghi chú trên túi nilon chứa mẫu, mang về phòng thí nghiệm, tiến hành cân
và phân tích thành phần tại phòng thí nghiệm.
– Bước 6-Liên Hệ Với Cơ Quan Quản Lý Hành Chính Địa Phương. Trong
trường hợp cần thiết (khi người dân không chịu hợp tác với nhân viên khảo sát),
nhóm khảo sát phải liên hệ với Ủy Ban Nhân Dân Phường-nơi dự kiến khảo sáttrình bày kế hoạch, xin giấy giới thiệu đến tiếp xúc các tổ dân phố. Các tổ
trưởng và tổ phó tổ dân phố sẽ giúp nhân viên khảo sát tiếp cận người dân được
dễ dàng hơn. Tuy nhiên, những khảo sát đã thực hiện cho thấy đa số người dân
ủng hộ các nghiên cứu cải thiện chất lượng môi trường nên cũng không mấy
khó khăn trong việc tiếp xúc với người dân.
Trong trường hợp chỉ cần xác định khối lượng CTR/hộ gia đình (không cần xác
định khối lượng CTR/người.ngđ), cách đơn giản nhất là đi theo xe thu gom, lấy
rác của hộ gia đình, cân trực tiếp và đổ lên xe. Khi đó, nhân viên khảo sát nên
liên hệ với công nhân vệ sinh của các tổ thu gom trước để nắm rõ thời gian,
tuyến thu gom và được sự đồng ý của công nhân thu gom.
– Bước 7-Tiến Hành Khảo Sát Lấy Mẫu. Sau khi đã thực hiện đầy đủ các bước
1-6 nói trên, tiến hành gởi túi nilon đựng mẫu cho các hộ gia đình. Trong thực
tế sẽ có một số hộ gia đình từ chối lưu trữ mẫu ngay từ đầu và cũng có trường
hợp đồng ý, nhận túi nhưng do thói quen hàng ngày, họ không chứa CTR vào
túi đã gởi mà vứt vào cho chứa rác chung của khu phố hoặc ngay cả xuống kênh
rạch, ao hồ cạnh nhà, hoặc giao cho người thu gom khi nhân viên khảo sát chưa
kịp đến lấy mẫu. Do đó, để bảo đảm đủ số lượng mẫu đã dự kiến, số hộ gia đình
thực sự phải khảo sát (gởi túi) nên nhiều hơn con số đã tính toán khoảng 1020%. Khi gởi túi nilon chứa mẫu ở hộ gia đình nào, nhân viên khảo sát cần ghi
lại địa chỉ và thời gian hẹn lấy mẫu (tránh trường hợp quên nơi đã gởi túi để đến
lấy mẫu và trong trường hợp đột xuất không thể đến lấy mẫu, nhân viên khảo
sát có thể nhờ đồng nghiệp đi lấy hộ khi có địa chỉ rõ ràng và thời gian cụ thể).
Tốt nhất, nên gởi mẫu vào thời điểm hộ gia đình vừa bỏ rác cho công nhân thu
gom và lấy mẫu vào thời điểm trước giờ thu gom rác của ngày hôm sau, có như
vậy mới bảo đảm đúng lượng rác chứa trong túi đã gởi là lượng rác của một
ngày.
– Bước 8-Phân tích số liệu. Với khối lượng CTR phát sinh/hộ gia đình.ngđ và số
người/hộ, kết quả khảo sát cho phép xác định tốc độ phát sinh CTR từ hộ gia
đình tính bằng kg CTR/người.ngđ, đặc trưng cho ngày thường, ngày cuối tuần,
ngày lễ tết, các mùa trong năm cũng như giá trình trung bình cho tất cả các
trường hợp. Với hàng ngàn số liệu đã khảo sát, để có thể sử dụng giá trị này
trong tính toán thiết kế hệ thống quản lý CTRĐT cho khu vực, cần phân tích và
chọn số liệu phục vụ thiết kế. Phương pháp phân tích số liệu chính được áp
dụng cho trường hợp này là phương pháp xác suất thống kê, trong đó các thông
số cần phân tích bao gồm:
+ Giá trị trung bình mean;
+ Độ lệch chuẩn;
+ Hệ số dao động;
+ Tần suất xuất hiện các giá trị tốc độ phát sinh CTR tính bằng kg/người.ngđ.
Trên cơ sở phân tích các số liệu thu thập được theo phương pháp xác suất thống
kê, lựa chọn giá trị tốc độ phát sinh CTR từ hộ gia đình tính bằng kg/người.ngđ
có tần suất xuất hiện cao nhất với độ lệch chuẩn và hệ số dao động thấp nhất là
giá trị phục vụ cho các tính toán thiết kế hay so sánh, đánh giá tương ứng (xem
ví dụ 2.1).
Ví dụ – Phân tích số liệu khảo sát theo phương pháp xác suất thống kê
Kết quả khảo sát tốc độ phát sinh CTR từ các hộ gia đình trên địa bàn Quận A
được trình bày trong Bảng 2.1. Hãy xác định thông số tốc độ phát CTR từ hộ gia
đình để phục vụ cho các tính toán thiết kế sau này,
Bảng 2.1 Kết quả thống kê khoảng giá trị tốc độ phát sinh rác (kg/người.ngđ) trên địa bàn Quận
A và tần suất xuất hiện các giá trị này
Tốc độ phát sinh rác Số lần xuất Tần suất xuất
(kg/người.ngđ), xi
hiện, fi
hiện (%), fi
0,02-0,10
28
3,83
0,11-0,20
95
12,98
0,21-0,30
103
14,07
0,31-0,40
118
16,12
0,41-0,50
91
12,43
0,51-0,60
68
9,29
0,61-0,70
42
5,74
0,71-0,80
44
6,01
0,81-0,90
23
3,14
0,91-1,00
32
4,37
1,01-1,10
16
2,19
1,11-1,20
7
0,96
1,21-1,30
9
1,23
1,31-1,40
10
1,37
1,41-1,50
15
2,05
1,51-1,60
3
0,41
1,61-1,70
7
0,96
Tốc độ phát sinh rác Số lần xuất Tần suất xuất
(kg/người.ngđ), xi
hiện, fi
hiện (%), fi
1,71-1,80
4
0,55
1,81-1,91
5
0,68
1,91-2,00
0
0,00
2,01-2,10
0
0,00
2,11-2,20
4
0,55
2,21-2,30
2
0,27
2,31-2,40
0
0,00
2,41-2,50
2
0,27
2,51-2,60
1
0,14
2,61-2,70
0
0,00
2,71-2,80
1
0,14
2,81-2,90
0
0,00
2,91-3,00
0
0,00
3,01-3,10
0
0,00
3,11-3,20
0
0,00
3,31-3,40
0
0,00
3,41-3,50
2
0,27
Bài giải
–
Dựa trên số liệu trình bày trong Bảng 2.1, vẽ biểu đồ sự phân bố tần suất
khoảng giá trị tốc độ phát sinh CTRSH (kg/người.ngđ) từ hộ gia đình trên địa
bàn Quận A (Hình 2.2).
Kết quả khảo sát và phân tích số liệu cho thấy tốc độ phát sinh rác hộ gia đình trên
địa bàn Quận A tính theo kg/người.ngđ dao động từ 0,02-3,50 kg/người.ngđ. Nếu
tính theo các khoảng giá trị như trình bày trong Hình 2.2, tốc độ phát sinh rác trên
địa bàn Quận A ở mức 0,30-0,40 kg/người.ngđ. Đây là những khoảng giá trị có
tần suất xuất hiện cao nhất trong tập số liệu khảo sát (118 lần so với 732 lần khảo
sát, chiếm 16,12%). Nếu tính trung bình (mean), giá trị tốc độ phát sinh rác từ hộ
gia đình trên địa bàn Quận A là:
Mean = x =
∑ f i xi
= 0,567 ~ 0,57 kg/người/ngđ
n
Hình 2.2 Sự phân bố tần suất khoảng giá trị tốc độ phát sinh CTRSH (kg/người.ngđ) từ hộ gia
đình trên địa bàn Quận A.
Trong đó, fi là tần suất xuất hiện giá trị xi.
Độ lệch chuẩn
s=
(
∑ f i xi − x
n −1
)
2
=
152,94
= 0,46 kg/người/ngđ
732 − 1
Hệ số dao động
CV =
100 × s 100 × 0,46
=
= 80%
0,57
x
Giá trị độ lệch chuẩn (standard deviation) s = 0,46 kg/người/ngđ và hệ số dao
động (coefficient of variation) CV = 80% cho thấy trị số khảo sát có độ dao động
rất lớn. Điều này cho thấy còn có nhiều yếu tố khách quan ảnh hưởng đến kết quả
khảo sát mà chưa được kiểm soát. Các giá trị này, một lần nữa cho thấy cần xác
định các điều kiện biên cụ thể khi tiến hành khảo sát và đánh giá kết quả thu thập.
Khi tiến hành khảo sát khối lượng rác phát sinh từ các hộ gia đình, nhóm khảo sát
đã lấy mẫu ngẫu nhiên ở những hộ gia đình có giao rác cho người thu gom hay
đồng ý cho cân rác. Do đó, tập số liệu thu thập được đã không thể hiện rõ các yếu
tố ảnh hưởng như (1) mức thu nhập của gia đình, (2) tỷ lệ rác phát sinh so với rác
giao lại cho người thu gom (do đốt, chôn, đổ ở thùng rác dọc đường, bán phế liệu
và không bán phế liệu,…), (3) các truờng hợp đặc biệt như có tổ chức tiệc tùng,
tổng vệ sinh nhà cửa,…
Trường hợp 2- Chất thải rắn từ hộ gia đình được phân loại thành hai thành
phần
Trong trường hợp việc khảo sát xác định tốc độ phát sinh CTR từ hộ gia đình (tính
theo kg/người.ngđ) phục vụ cho quy hoạch, tính toán thiết kế hệ thống quản lý
CTRĐT theo chương trình phân loại CTRĐT tại nguồn (PLCTRĐTTN), phương
pháp khảo sát lấy mẫu sẽ có một số điểm khác với trường hợp 1. Trình tự thực
hiện khảo sát lấy mẫu vẫn phải tuân theo 7 bước kể trên. Trong đó các bước 1, 2,
3, 5, 6 và 8 sẽ giống như trường hợp 1. Riêng bước 4 và bước 7 sẽ phải thay đổi
cho phù hợp với hình thức phân loại.
–
Bước 4- Xác Định Thời Gian Gởi Túi Và Lấy Mẫu. Trong trường hợp
CTR tại hộ gia đình được phân loại thành 2 thành phần: rác thực phẩm và phần
còn lại, cần có 2 túi chứa rác riêng cho mỗi thành phần. Nếu chỉ gởi một túi để
chứa rác hỗn hợp, sau đó mang mẫu về phòng thí nghiệm mới tiến hành phân
loại xác định khối lượng của từng thành phần, kết quả sẽ không chính xác.
Nguyên nhân chính là do khi chứa rác hỗn hợp, các thành phần rác khô như
giấy, báo, vải, gỗ, túi nilon, tro,… sẽ bị thấm nước từ rác thực phẩm và dính
những mẩu vụn rác thực phẩm. Do đó, khi phân loại thành 2 thành phần (rác
thực phẩm và phần còn lại) và cân để xác định khối lượng, khối lượng các thành
phần còn lại sẽ có giá trị cao hơn giá trị thực của chúng. Đó là chưa kể các phân
tích về độ ẩm, khối lượng riêng và tỷ lệ phần trăm của từng thành phần có trong
rác cũng không được chính xác. Do đó, để thiết kế hệ thống quản lý CTR theo
hướng PLCTRĐTTN, khi khảo sát số liệu phục vụ cho tính toán thiết kế, phải
gởi ít nhất 2 túi nilon chứa mẫu rác ít nhất thành 2 thành phần riêng biệt. Thời
gian gởi túi, lấy mẫu 2 thành phần này cũng sẽ khác nhau tùy thuộc những yếu
tố sau:
+ Tùy theo phương án thu gom lựa chọn (thu gom 1 lần/ngày đối với cả 2 thành
phần hoặc chỉ thu gom 1 lần/ngày đối với rác thực phẩm và 3 lần/ngày đối
với phần còn lại). Đối với rác thực phẩm – thành phần dễ thối rửa – nên chu
kỳ thu gom vẫn phải thu gom theo chu kỳ 1 lần/ngày(đặc biệt ở những nước
thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm như Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần
lưu ý ở các nước có khí hậu ôn đới, thành phần rác thực phẩm ở thùng chứa
tập trung được thu gom theo chu kỳ dài hơn, có thể 1 lần/tuần). Như vậy túi
nilon gởi ở hộ gia đình để lấy mẫu rác thực phẩm sẽ được sắp xếp để có thể
lấy mẫu đặc trưng là lượng rác thực phẩm phát sinh từ hộ gia đình trong một
ngày. Đối với thành phần còn lại, do tính chất khó phân hủy hơn, khô ráo hơn
nên ít gây mùi hôi thối hơn so với rác thực phẩm. Thêm vào đó, thành phần
này có khối lượng ít hơn nên thường không cần thiết thu gom mỗi ngày một
lần. Cách tốt nhất là chọn thời gian gởi túi và lấy mẫu bằng thời gian của chu
kỳ thu gom sẽ được thiết kế (ví dụ 2 ngày/lần hay 3 ngày/lần).
+ Tùy theo khối lượng và đặc tính của lượng rác đã phân loại để chọn thời gian
phù hợp. Không kể thành phần rác thực phẩm (vì ở nước ta, thành phần này
bắt buộc phải thu gom mỗi ngày một lần), thành phần rác còn lại thường rất ít
và khác nhau rất nhiều giữa các ngày khác nhau. Do đó, để mẫu thu được có
khối lượng đủ lớn, cho phép cân xác định khối lượng và thành phần, thời gian
gởi túi lấy mẫu ở hộ gia đình nên từ 2-3 ngày. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng
do phần rác còn lại không hoàn toàn khô nên nếu lưu trữ lâu trong nhà vẫn
tạo mùi hôi khó chịu. Những đợt khảo sát đã thực hiện cho thấy người dân
không thích lưu trữ phần rác còn lại lâu hơn 2 ngày. Đây cũng là yếu tố cần
lưu ý trong tính toán thiết kế.
là chưa kể, so với mỗi hộ mái ấm gia đình, việc khảo sát lấy mẫu còn phải đặc trưngcho những thời gian khác nhau trong tuần, giữa những tuần khác nhau trong tháng, giữa những tháng khác nhau trong năm và đặc biệt quan trọng vào những dịp lễ tết. Vì vậy, ở mỗikhu dân cư, số lượng hộ mái ấm gia đình khảo sát nếu hoàn toàn có thể sắp xếp từ 500 – 1.000 hộ làđạt nhu yếu. Với tổng số hộ mái ấm gia đình phải khảo sát đã chọn, xác lập số hộ mái ấm gia đình phải khảosát cho từng khu vực trong khu dân cư, đơn cử : số hộ / phường, số hộ / thành phố, sốhộ / tổ dân phố. Nếu không chăm sóc đến đặc thù nhà ở ( nhà thấp tầng, nhà caotầng, căn hộ cao cấp, biệt thự nghỉ dưỡng hạng sang, nhà ở đường phố chính, nhà ở những đường hẻm, nhà gầnkênh rạch, … ) hay thu nhập ( hộ có thu nhập thấp, trung bình và cao ), những hộ giađình khảo sát sẽ được chọn ngẫu nhiên. Nếu chăm sóc đến những đặc thù kểtrên, hộ mái ấm gia đình khảo sát ở từng khu vực phải được phong cách thiết kế sao cho hoàn toàn có thể lấymẫu đặc trưng với những đặc thù đã liệt kê. Vị trí của những hộ mái ấm gia đình khảo sát sẽđược chọn một cách tương đối dựa vào mạng lưới đường phố biểu lộ trên bảnđồ và xác lập lại địa chỉ đúng chuẩn khi tiến hành khảo sát trong thực tiễn. – Bước 3 – Xác Định Chu Kỳ Khảo Sát Lấy Mẫu. Khối lượng rác phát sinh ởtừng hộ mái ấm gia đình sẽ biến hóa theo hoạt động và sinh hoạt của mái ấm gia đình giữa những ngày khác nhautrong tuần, trong tháng và năm. Do đó, không hề có số liệu đặc trưng khi chỉtiến hành lấy mẫu nghiên cứu và phân tích một lần. Chu kỳ khảo sát lấy mẫu phải thể hiệnđược những yếu tố tác động ảnh hưởng đến tốc độ phát sinh CTR của hộ mái ấm gia đình, cụ thểnhư sau : + Do hoạt động và sinh hoạt của người dân giữa những ngày khác nhau trong tuần không giốngnhau. Những ngày thao tác ( từ thứ hai đến thứ sáu ) thường không có nhiềuthời gian để tổ chức triển khai họp mặt mái ấm gia đình, gặp gỡ bạn hữu, nấu nướng những món ănđặc biệt, trong khi đó, điều này thường xảy ra vào những ngày nghỉ cuối tuần ( thứ bảy và chủ nhật ). Đây là một trong những nguyên do làm cho khối lượng rácở 1 số ít hộ mái ấm gia đình vào những ngày nghỉ cuối tuần sẽ cao hơn những ngàykhác. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, những mái ấm gia đình tổ chức triển khai đi chơi xa hoặc vềquê thăm cha mẹ, ông bà, … nên vào ngày cuối tuần lại không có rác. Bêncạnh đó, cũng cần quan tâm rằng một số ít cán bộ, công nhân, … vẫn phải làm việcsáng thứ bảy hay cả ngày thứ bảy nên ở nhiều hộ mái ấm gia đình những hoạt động giải trí nàychỉ tập trung chuyên sâu vào ngày chủ nhật. Vì vậy, khối lượng rác phát sinh từ những hộgia đình phải được khảo sát giữa ngày thao tác và ngày nghỉ cuối tuần. Chukỳ khảo sát hoàn toàn có thể thực thi như sau : một ngày thao tác ( hoàn toàn có thể chọn mộttrong những ngày từ thứ hai đến thứ sáu ) và hai ngày cuối tuần ( cả thứ bảy vàchủ nhật ). Như vậy, với yếu tố này, số mẫu lấy ở mỗi hộ mái ấm gia đình đã là 3 mẫu. + Giữa những tháng ngày hè ( mùa nắng ) và những tháng mùa mưa, khối lượng CTRphát sinh từ hộ mái ấm gia đình cũng khác nhau, đặc biệt quan trọng vào những tháng là mùa củamột loại trái cây nào đó hay vào mùa thu hoạch thủy hải sản. Vào những thángmùa mưa, những loại thực phẩm tươi sống cũng khác và một phần do thời tiếtmọi thứ đều trở nên ướt hơn, kể cả rác. Trong trường hợp này khối lượng ráctính trên hộ mái ấm gia đình trong ngày hoàn toàn có thể lớn hơn so với những ngày trong mùakhô, nhưng đa phần là nhiệt độ cao hơn. Với những đặc thù này, chu kỳ luân hồi khảosát lấy mẫu phải đặc trưng cho những mùa đặc biệt quan trọng trong năm, tối thiểu là haimùa : mùa khô và mùa mưa. Nếu kỹ hơn hoàn toàn có thể khảo sát theo những mùa trái câyvà thu hoạch thủy hải sản. + Vào những tháng có lễ đặc biệt quan trọng ( như giáng sinh, phật đản, rằm tháng giêng, quốc khánh, quốc tế lao động, … ) hoặc tết ( tết nguyên đán, tết đoan ngọ, dương lịch ) thường là dịp những mái ấm gia đình tổ chức triển khai họp mặt mái ấm gia đình, bày mâm cỗđặc biệt. Trong những ngày giáp lễ, tết, mái ấm gia đình thường tổng vệ sinh, sửasang nhà cửa, vườn tược, … nên khối lượng CTR phát sinh từ hộ gia đìnhtrong những ngày lễ tết đều rất cao so với ngày thường. Đó là chưa kể, trongnhững ngày tết truyền thống của dân tộc bản địa, rác phải được lưu lại ở hộ mái ấm gia đình từmồng 1 tết đến hết ngày mồng 3 tết, nên khi phải thu gom sau tết, khối lượngCTR / hộ mái ấm gia đình sẽ còn cao hơn nhiều. Do đó, để có được những giá trị đặctrưng cho trường hợp này, việc khảo sát lấy mẫu cũng cần được thực hiệntrong những ngày giáp lễ tết và ngày thu gom tiên phong sau tết. Trong trườnghợp này hoàn toàn có thể chọn cho ba trường hợp : dịp noel, giáp tết nguyên đán vàngày thu gom tiên phong sau tết nguyên đán. + Nếu hoàn toàn có thể, việc khảo sát lấy mẫu xác lập tốc độ phát sinh CTR từ những hộgia đình nên được thực thi tiếp tục ( hàng năm ) để số liệu có tínhthống kê và đặc trưng được cho từng quy trình tiến độ tăng trưởng kinh tế tài chính, xã hội. Tuynhiên, tùy theo kinh phí đầu tư và thời hạn có để thực thi khảo sát mà số lượng giới hạn chukỳ khảo sát lấy mẫu cho tương thích với từng quá trình triển khai dự án Bất Động Sản. Bước 4 – Xác Định Thời Gian Gởi Túi Và Lấy Mẫu. Trong trường hợpCTR không được tách riêng những thành phần dễ thối rữa ( rác thực phẩm ) vớicác thành phần khác, khó hoàn toàn có thể tồn trữ rác trong nhà lâu hơn một ngày. Do đó, thời hạn gởi túi nilon đựng mẫu và thời hạn lấy mẫu phải được sắp xếp sao chođặc trưng được lượng rác sinh ra từ hộ mái ấm gia đình là 1 ngày. Trong trường hợp cóphân loại CTR tại hộ mái ấm gia đình, thời hạn gởi túi nilon và lấy mẫu hoàn toàn có thể lâu hơn1 ngày, tùy theo giải pháp phân loại đã chọn. Bước 5 – Tập Huấn Nhân Viên Và Chuẩn Bị Dụng Cụ Khảo Sát. Trướckhi thực thi lấy mẫu trong thực tiễn, nhân viên cấp dưới khảo sát cần được tập huấn để nắm rõyêu cầu khảo sát, sẵn sàng chuẩn bị khá đầy đủ dụng cụ và xác lập được những thông tincần tích lũy như sau : Bản đồ khảo sát ; Số hộ mái ấm gia đình cần khảo sát tại khu vực do mình đảm trách ; Mạng lưới lấy mẫu ; Chu kỳ lấy mẫu ; Nội dung cần ghi lại ở từng hộ mái ấm gia đình khảo sát : ( 1 ) địa chỉ ( ghi rõ số nhà, tên đường, phường / khóm, Q. ), ( 2 ) đặc thù nhà ( mặt tiền, hẻm, cao tầng liền kề, thấp tầng, nhà ở, biệt thự cao cấp ), ( 3 ) số người / hộ ( nếu hoàn toàn có thể thì xác lập rõ sốngười dưới 18 tuổi, từ 18 đến 55 tuổi và trên 55 tuổi ), ( 4 ) nếu hoàn toàn có thể thì hỏithêm thu nhập của mái ấm gia đình, ( 5 ) thứ-ngày-tháng-năm và giờ gởi túi nilon đựngmẫu, ( 6 ) thứ-ngày-tháng-năm và giờ lấy lại túi nilon đã chứa CTR và ( 7 ) ghichú ngày lấy mẫu ( mùa khô, mùa mưa, mùa trái cây, lễ, tết, … ). Trong đó cácthông tin số ( 1 ), ( 3 ), ( 5 ) và ( 6 ) là những thông tin nhất định phải có ; + Chuẩn bị đủ túi nilon để gởi cho những hộ mái ấm gia đình và ghi chú trên từng túi khihộ mái ấm gia đình đồng ý chấp thuận hợp tác thực thi việc khảo sát. + Nếu không phải mang mẫu về phòng thí nghiệm hay đến nơi tập trung chuyên sâu đểphân tích thành phần ( chỉ cần xác lập khối lượng CTR / hộ mái ấm gia đình. ngđ haykhối lượng CTR / người. ngđ ), mỗi nhóm khảo sát phải mang theo cân ( khoảng10-15 kg ) để cân tại chỗ túi chứa rác lấy từ những hộ mái ấm gia đình ( và đổ CTR saukhi cân lên xe thu gom ). Trong trường hợp phải xác lập thành phần CTR, không cần mang theo cân, lấy tổng thể mẫu với khá đầy đủ những thông tin cần thiếtđã ghi chú trên túi nilon chứa mẫu, mang về phòng thí nghiệm, thực thi cânvà nghiên cứu và phân tích thành phần tại phòng thí nghiệm. – Bước 6 – Liên Hệ Với Cơ Quan Quản Lý Hành Chính Địa Phương. Trongtrường hợp thiết yếu ( khi dân cư không chịu hợp tác với nhân viên cấp dưới khảo sát ), nhóm khảo sát phải liên hệ với Ủy Ban Nhân Dân Phường-nơi dự kiến khảo sáttrình bày kế hoạch, xin giấy trình làng đến tiếp xúc những tổ dân phố. Các tổtrưởng và tổ phó tổ dân phố sẽ giúp nhân viên cấp dưới khảo sát tiếp cận người dân đượcdễ dàng hơn. Tuy nhiên, những khảo sát đã triển khai cho thấy hầu hết người dânủng hộ những điều tra và nghiên cứu cải tổ chất lượng thiên nhiên và môi trường nên cũng không mấykhó khăn trong việc tiếp xúc với người dân. Trong trường hợp chỉ cần xác lập khối lượng CTR / hộ mái ấm gia đình ( không cần xácđịnh khối lượng CTR / người. ngđ ), cách đơn thuần nhất là đi theo xe thu gom, lấyrác của hộ mái ấm gia đình, cân trực tiếp và đổ lên xe. Khi đó, nhân viên cấp dưới khảo sát nênliên hệ với công nhân vệ sinh của những tổ thu gom trước để nắm rõ thời hạn, tuyến thu gom và được sự đồng ý chấp thuận của công nhân thu gom. – Bước 7 – Tiến Hành Khảo Sát Lấy Mẫu. Sau khi đã thực thi vừa đủ những bước1-6 nói trên, thực thi gởi túi nilon đựng mẫu cho những hộ mái ấm gia đình. Trong thựctế sẽ có một số ít hộ mái ấm gia đình khước từ tàng trữ mẫu ngay từ đầu và cũng có trườnghợp chấp thuận đồng ý, nhận túi nhưng do thói quen hàng ngày, họ không chứa CTR vàotúi đã gởi mà vứt vào cho chứa rác chung của thành phố hoặc ngay cả xuống kênhrạch, ao hồ cạnh nhà, hoặc giao cho người thu gom khi nhân viên cấp dưới khảo sát chưakịp đến lấy mẫu. Do đó, để bảo vệ đủ số lượng mẫu đã dự kiến, số hộ gia đìnhthực sự phải khảo sát ( gởi túi ) nên nhiều hơn số lượng đã giám sát khoảng chừng 1020 %. Khi gởi túi nilon chứa mẫu ở hộ mái ấm gia đình nào, nhân viên cấp dưới khảo sát cần ghilại địa chỉ và thời hạn hẹn lấy mẫu ( tránh trường hợp quên nơi đã gởi túi để đếnlấy mẫu và trong trường hợp đột xuất không hề đến lấy mẫu, nhân viên cấp dưới khảosát hoàn toàn có thể nhờ đồng nghiệp đi lấy hộ khi có địa chỉ rõ ràng và thời hạn đơn cử ). Tốt nhất, nên gởi mẫu vào thời gian hộ mái ấm gia đình vừa bỏ rác cho công nhân thugom và lấy mẫu vào thời gian trước giờ thu gom rác của ngày hôm sau, có nhưvậy mới bảo vệ đúng lượng rác chứa trong túi đã gởi là lượng rác của mộtngày. – Bước 8 – Phân tích số liệu. Với khối lượng CTR phát sinh / hộ mái ấm gia đình. ngđ và sốngười / hộ, hiệu quả khảo sát được cho phép xác lập tốc độ phát sinh CTR từ hộ giađình tính bằng kg CTR / người. ngđ, đặc trưng cho ngày thường, ngày cuối tuần, ngày lễ tết, những mùa trong năm cũng như giá trình trung bình cho toàn bộ cáctrường hợp. Với hàng ngàn số liệu đã khảo sát, để hoàn toàn có thể sử dụng giá trị nàytrong đo lường và thống kê phong cách thiết kế mạng lưới hệ thống quản trị CTRĐT cho khu vực, cần nghiên cứu và phân tích vàchọn số liệu ship hàng phong cách thiết kế. Phương pháp phân tích số liệu chính được ápdụng cho trường hợp này là giải pháp Tỷ Lệ thống kê, trong đó những thôngsố cần nghiên cứu và phân tích gồm có : + Giá trị trung bình mean ; + Độ lệch chuẩn ; + Hệ số giao động ; + Tần suất Open những giá trị tốc độ phát sinh CTR tính bằng kg / người. ngđ. Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích những số liệu tích lũy được theo chiêu thức Tỷ Lệ thốngkê, lựa chọn giá trị tốc độ phát sinh CTR từ hộ mái ấm gia đình tính bằng kg / người. ngđcó tần suất Open cao nhất với độ lệch chuẩn và thông số xê dịch thấp nhất làgiá trị ship hàng cho những đo lường và thống kê phong cách thiết kế hay so sánh, nhìn nhận tương ứng ( xemví dụ 2.1 ). Ví dụ – Phân tích số liệu khảo sát theo giải pháp Xác Suất thống kêKết quả khảo sát tốc độ phát sinh CTR từ những hộ mái ấm gia đình trên địa phận Quận Ađược trình diễn trong Bảng 2.1. Hãy xác lập thông số kỹ thuật tốc độ phát CTR từ hộ giađình để ship hàng cho những thống kê giám sát phong cách thiết kế sau này, Bảng 2.1 Kết quả thống kê khoảng chừng giá trị tốc độ phát sinh rác ( kg / người. ngđ ) trên địa phận QuậnA và tần suất Open những giá trị nàyTốc độ phát sinh rác Số lần xuất Tần suất xuất ( kg / người. ngđ ), xihiện, fihiện ( % ), fi0, 02-0, 10283,830,11 – 0,209512,980,21 – 0,3010314,070,31 – 0,4011816,120,41 – 0,509112,430,51 – 0,60689,290,61 – 0,70425,740,71 – 0,80446,010,81 – 0,90233,140,91 – 1,00324,371,01 – 1,10162,191,11 – 1,200,961,21 – 1,301,231,31 – 1,40101,371,41 – 1,50152,051,51 – 1,600,411,61 – 1,700,96 Tốc độ phát sinh rác Số lần xuất Tần suất xuất ( kg / người. ngđ ), xihiện, fihiện ( % ), fi1, 71-1, 800,551,81 – 1,910,681,91 – 2,000,002,01 – 2,100,002,11 – 2,200,552,21 – 2,300,272,31 – 2,400,002,41 – 2,500,272,51 – 2,600,142,61 – 2,700,002,71 – 2,800,142,81 – 2,900,002,91 – 3,000,003,01 – 3,100,003,11 – 3,200,003,31 – 3,400,003,41 – 3,500,27 Bài giảiDựa trên số liệu trình diễn trong Bảng 2.1, vẽ biểu đồ sự phân bổ tần suấtkhoảng giá trị tốc độ phát sinh CTRSH ( kg / người. ngđ ) từ hộ mái ấm gia đình trên địabàn Quận A ( Hình 2.2 ). Kết quả khảo sát và phân tích số liệu cho thấy tốc độ phát sinh rác hộ mái ấm gia đình trênđịa bàn Quận A tính theo kg / người. ngđ xê dịch từ 0,02 – 3,50 kg / người. ngđ. Nếutính theo những khoảng chừng giá trị như trình diễn trong Hình 2.2, tốc độ phát sinh rác trênđịa bàn Quận A ở mức 0,30 – 0,40 kg / người. ngđ. Đây là những khoảng chừng giá trị cótần suất Open cao nhất trong tập số liệu khảo sát ( 118 lần so với 732 lần khảosát, chiếm 16,12 % ). Nếu tính trung bình ( mean ), giá trị tốc độ phát sinh rác từ hộgia đình trên địa phận Quận A là : Mean = x = ∑ f i xi = 0,567 ~ 0,57 kg / người / ngđHình 2.2 Sự phân bổ tần suất khoảng chừng giá trị tốc độ phát sinh CTRSH ( kg / người. ngđ ) từ hộ giađình trên địa phận Quận A.Trong đó, fi là tần suất Open giá trị xi. Độ lệch chuẩns = ∑ f i xi − xn − 1152,94 = 0,46 kg / người / ngđ732 − 1H ệ số dao độngCV = 100 × s 100 × 0,46 = 80 % 0,57 Giá trị độ lệch chuẩn ( standard deviation ) s = 0,46 kg / người / ngđ và thông số daođộng ( coefficient of variation ) CV = 80 % cho thấy trị số khảo sát có độ dao độngrất lớn. Điều này cho thấy còn có nhiều yếu tố khách quan tác động ảnh hưởng đến kết quảkhảo sát mà chưa được trấn áp. Các giá trị này, một lần nữa cho thấy cần xácđịnh những điều kiện kèm theo biên đơn cử khi thực thi khảo sát và nhìn nhận hiệu quả tích lũy. Khi triển khai khảo sát khối lượng rác phát sinh từ những hộ mái ấm gia đình, nhóm khảo sátđã lấy mẫu ngẫu nhiên ở những hộ mái ấm gia đình có giao rác cho người thu gom hayđồng ý cho cân rác. Do đó, tập số liệu tích lũy được đã không bộc lộ rõ những yếutố ảnh hưởng tác động như ( 1 ) mức thu nhập của mái ấm gia đình, ( 2 ) tỷ suất rác phát sinh so với rácgiao lại cho người thu gom ( do đốt, chôn, đổ ở thùng rác dọc đường, bán phế liệuvà không bán phế liệu, … ), ( 3 ) những trường hợp đặc biệt quan trọng như có tổ chức triển khai tiệc tùng, tổng vệ sinh nhà cửa, … Trường hợp 2 – Chất thải rắn từ hộ mái ấm gia đình được phân loại thành hai thànhphầnTrong trường hợp việc khảo sát xác lập tốc độ phát sinh CTR từ hộ mái ấm gia đình ( tínhtheo kg / người. ngđ ) Giao hàng cho quy hoạch, đo lường và thống kê phong cách thiết kế mạng lưới hệ thống quản lýCTRĐT theo chương trình phân loại CTRĐT tại nguồn ( PLCTRĐTTN ), phươngpháp khảo sát lấy mẫu sẽ có một số ít điểm khác với trường hợp 1. Trình tự thựchiện khảo sát lấy mẫu vẫn phải tuân theo 7 bước kể trên. Trong đó những bước 1, 2,3, 5, 6 và 8 sẽ giống như trường hợp 1. Riêng bước 4 và bước 7 sẽ phải thay đổicho tương thích với hình thức phân loại. Bước 4 – Xác Định Thời Gian Gởi Túi Và Lấy Mẫu. Trong trường hợpCTR tại hộ mái ấm gia đình được phân loại thành 2 thành phần : rác thực phẩm và phầncòn lại, cần có 2 túi chứa rác riêng cho mỗi thành phần. Nếu chỉ gởi một túi đểchứa rác hỗn hợp, sau đó mang mẫu về phòng thí nghiệm mới triển khai phânloại xác lập khối lượng của từng thành phần, tác dụng sẽ không đúng chuẩn. Nguyên nhân chính là do khi chứa rác hỗn hợp, những thành phần rác khô nhưgiấy, báo, vải, gỗ, túi nilon, tro, … sẽ bị thấm nước từ rác thực phẩm và dínhnhững mẩu vụn rác thực phẩm. Do đó, khi phân loại thành 2 thành phần ( rácthực phẩm và phần còn lại ) và cân để xác lập khối lượng, khối lượng những thànhphần còn lại sẽ có giá trị cao hơn giá trị thực của chúng. Đó là chưa kể những phântích về nhiệt độ, khối lượng riêng và tỷ suất Tỷ Lệ của từng thành phần có trongrác cũng không được đúng chuẩn. Do đó, để phong cách thiết kế mạng lưới hệ thống quản trị CTR theohướng PLCTRĐTTN, khi khảo sát số liệu ship hàng cho đo lường và thống kê phong cách thiết kế, phảigởi tối thiểu 2 túi nilon chứa mẫu rác tối thiểu thành 2 thành phần riêng không liên quan gì đến nhau. Thờigian gởi túi, lấy mẫu 2 thành phần này cũng sẽ khác nhau tùy thuộc những yếutố sau : + Tùy theo giải pháp thu gom lựa chọn ( thu gom 1 lần / ngày so với cả 2 thànhphần hoặc chỉ thu gom 1 lần / ngày so với rác thực phẩm và 3 lần / ngày đốivới phần còn lại ). Đối với rác thực phẩm – thành phần dễ thối rửa – nên chukỳ thu gom vẫn phải thu gom theo chu kỳ luân hồi 1 lần / ngày ( đặc biệt quan trọng ở những nướcthuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm như Nước Ta. Tuy nhiên, cũng cầnlưu ý ở những nước có khí hậu ôn đới, thành phần rác thực phẩm ở thùng chứatập trung được thu gom theo chu kỳ luân hồi dài hơn, hoàn toàn có thể 1 lần / tuần ). Như vậy túinilon gởi ở hộ mái ấm gia đình để lấy mẫu rác thực phẩm sẽ được sắp xếp để có thểlấy mẫu đặc trưng là lượng rác thực phẩm phát sinh từ hộ mái ấm gia đình trong mộtngày. Đối với thành phần còn lại, do đặc thù khó phân hủy hơn, khô ráo hơnnên ít gây mùi hôi thối hơn so với rác thực phẩm. Thêm vào đó, thành phầnnày có khối lượng ít hơn nên thường không thiết yếu thu gom mỗi ngày mộtlần. Cách tốt nhất là chọn thời hạn gởi túi và lấy mẫu bằng thời hạn của chukỳ thu gom sẽ được phong cách thiết kế ( ví dụ 2 ngày / lần hay 3 ngày / lần ). + Tùy theo khối lượng và đặc tính của lượng rác đã phân loại để chọn thời gianphù hợp. Không kể thành phần rác thực phẩm ( vì ở nước ta, thành phần nàybắt buộc phải thu gom mỗi ngày một lần ), thành phần rác còn lại thường rất ítvà khác nhau rất nhiều giữa những ngày khác nhau. Do đó, để mẫu thu được cókhối lượng đủ lớn, được cho phép cân xác lập khối lượng và thành phần, thời giangởi túi lấy mẫu ở hộ mái ấm gia đình nên từ 2-3 ngày. Tuy nhiên cũng cần quan tâm rằngdo phần rác còn lại không trọn vẹn khô nên nếu tàng trữ lâu trong nhà vẫntạo mùi hôi không dễ chịu. Những đợt khảo sát đã thực thi cho thấy người dânkhông thích tàng trữ phần rác còn lại lâu hơn 2 ngày. Đây cũng là yếu tố cầnlưu ý trong giám sát phong cách thiết kế .