Tiểu luận “Ô nhiễm môi trường nông thôn” pot

Tiểu luận “Ô nhiễm môi trường nông thôn” pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 35 trang )

Bạn đang đọc: Tiểu luận “Ô nhiễm môi trường nông thôn” pot

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA TÀI NGUYÊN – MÔI TRƯỜNG
BÀI TIỂU LUẬN SINH THÁI NHÂN VĂN
Đề tài:
“Ô nhiễm môi trường ở nông thôn”
Sinh viên thực hiện:
1. Phạm Thị Oanh (532262)
2. Phan Thị Huyên (532237)
3. Ngô Phương Thanh
(532269)
4. Nguyễn Thị Thu (532278)
1
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU 2
II. NỘI DUNG 3
1. Ô nhiễm môi trường hoạt động sản xuất nông nghiệp 4
1.1. Thực trạng 4
1.2. Nguyên nhân 5
1.3. Hậu quả 6
Tên ảnh 8
1.4. Biện pháp khắc phục 8
2.Ô nhiễm môi trường nông thôn do rác thải sinh hoạt 11
2.1. Nguyên nhân 12
2.2. Hậu quả 14
2.3. Giải pháp và hướng khắc phục 15
3. Ô nhiễm làng nghề 18
3.1. Thực trạng 19
3.2. Nguyên nhân 20
3.3. Hậu quả 21
3.4. Biện pháp và phương hướng khắc phục 23
III. Ý KIẾN 25

IV. KẾT BÀI 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
I. MỞ ĐẦU.
Xã hội loài người đang tiến gần hơn đến sự phát triển bền vững. Đó là việc vừa phát
triển kinh tế hiện đại song song với bảo vệ môi trường sinh thái. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm
môi trường vẫn đang hoành hành ở khắp mọi nơi trên hành tinh xanh.
Nông thôn Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, kéo theo đó là sự phát sinh
không ít vấn đề mà đặc biệt là tình trạng ô nhiễm môi trường. Người dân nông thôn vốn xưa
nay còn phải quan tâm nhiều hơn đến cuộc sống mưu sinh. Khi đời sống chưa thực sự đảm bảo
thì việc bảo vệ môi trường chỉ là thứ yếu. Các nguồn chủ yếu gây ra hiện tượng ô nhiễm môi
2
trường ở nông thôn đầu tiên phải kể đến là việc lạm dụng và sử dụng không hợp lý các loại
hoá chất trong sản xuất nông nghiệp; việc xử lý chất thải của các làng nghề thủ công truyền
thống chưa triệt để; nhận thức, ý thức bảo vệ môi trường của người dân sinh sống ở nông thôn
còn hạn chế. Tiếp đó là sự quan tâm chưa đúng mức của các cấp, các ngành. Ô nhiễm môi
trường đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, tác động xấu đến hệ sinh thái nông nghiệp, ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người dân. Vì vậy, bảo vệ môi trường nông thôn đang là một
vấn đề cấp bách.
Bài tiểu luận dưới đây của chúng tôi sẽ đến một cái nhìn khái quát về thực trạng ô
nhiễm môi trường ở nông thôn, nguyên nhân, hậu quả và những giải pháp. Rất mong nhận
được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của quý bạn đọc.
Nhóm thực hiện.
II. NỘI DUNG
Ô nhiễm môi trường hiện nay không riêng gì ở thành phố và các khu, cụm công nghiệp
mà còn ở các vùng nông thôn. Theo chúng tôi, có rất nhiều nguồn gây ô nhiễm, song chủ yếu
là 3 nguồn chính:
3
1. Ô nhiễm môi trường hoạt động sản xuất nông nghiệp.
1.1. Thực trạng.
Những năm gần đây, do thâm canh tăng vụ, tăng diện tích cũng như do thay đổi cơ cấu

giống cây trồng nên tình hình sâu bệnh diễn biến phức tạp hơn. Vì vậy số lượng và chủng loại
thuốc BVTV sử dụng cũng tăng lên. Nếu như trước năm 1985, khối lượng thuốc BVTV dùng
hàng năm khoảng 6.500 – 9.000 tấn thành phẩm quy đổi và lượng thuốc sử dụng bình quân
khoảng 0,3 kg hoạt chất/ha thì thời gian từ năm 1991 đến nay lượng thuốc sử dụng biến động
từ 25.000 – 38.000 tấn và lượng thuốc sử dụng cũng tăng lên 0,67 – 1,01 kg hoạt chất/ha.
(bao bì thuốc BVTV vứt bừa bãi).
Tình trạng các thuốc BVTV tồn đọng không sử dụng, nhập lậu bị thu giữ đang ngày
càng tăng lên về số lượng và chủng loại. Điều đáng lo ngại là hầu hết các loại thuốc BVTV tồn
đọng này được lưu giữ trong các kho chứa tồi tàn hoặc bị chôn vùi dưới đất không đúng kỹ
thuật nên nguy cơ thấm và rò rỉ vào môi trường là rất đáng báo động.
4
Cùng với vấn đề BVTV, tổng khối lượng chất thải chăn nuôi bình quân khoảng hơn 73
triệu tấn/năm (trong đó chất thải của trâu chiếm 21,9%, bò chiếm 32,5%, lợn chiếm 33,4%)
cũng là nguồn gây ô nhiễm lớn. Nhiều xí nghiệp chăn nuôi, xí nghiệp chế biến thực phẩm nằm
lẫn trong khu dân cư, sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún thiếu các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm
môi trường. Không chỉ trồng trọt, chăn nuôi mà tình trạng phát triển nuôi trồng thủy sản tự
phát, thiếu quy hoạch, thức ăn thừa không được xử lý, việc sử dụng kháng sinh tùy tiện cũng
dẫn tới ô nhiễm môi trường xảy ra nghiêm trọng ở một số nơi.
1.2. Nguyên nhân
• Trước hết phải kể đến nguyên nhân từ nhận thức, ý thức, tập quán canh tác của người
dân.
Việc sử dụng hóa chất trong nông nghiệp như phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật
(BVTV) gồm: Thuốc trừ sâu, thuốc trừ nấm, thuốc diệt chuột, thuốc trừ bệnh; thuốc trừ cỏ một
cách tràn lan, không tuân thủ thời gian cách ly sau khi phun thuốc và cả việc vứt bao bì thuốc
BVTV.
Kết quả kiểm tra tình hình sử dụng thuốc BVTV trên rau của 4.600 hộ nông dân năm
2006 cho thấy, có tới 59,8% số hộ vi phạm về quy trình sử dụng thuốc. Trong đó, số hộ không
giữ đúng thời gian cách ly là 20,7%; sử dụng thuốc cấm, thuốc ngoài danh mục là 10,31%; sử
dụng thuốc hạn chế trên rau là 0,18% và sử dụng thuốc không rõ nguồn gốc, xuất xứ là 0,73%.
5

(Thuốc BVTV không được quản lý về nguồn gốc, xuất xứ, thành phần).
Kết quả kiểm tra dư lượng thuốc BVTV cũng cho thấy, có 33/373 mẫu rau chiếm
13,46% vượt mức dư lượng cho phép.Mặt khác, kết quả điều tra 156 hộ nông dân ở Tiền
Giang, 200 hộ ở Đan Phượng (Hà Tây) và 200 hộ ở Từ Liêm (Hà Nội) cho thấy, có 80% số hộ
vứt luôn bao bì thuốc tại ruộng, mương nước nơi sử dụng. Thói quen rửa bình bơm và dụng cụ
pha chế thuốc BVTV không đúng nơi quy định.
Sử dụng phân bón thừa thãi gây tồn đọng trong đất, nước, ảnh hưởng đến sức khoẻ con
người. Việc sử dụng “phân chuồng tươi” liều lượng lớn, không tuân thủ quy trình kỹ thuật, các
mẫu đất, nước, rau quả được nghiên cứu đều còn tồn dư lượng Fecal Coliorm. Khi lạm dụng
phân hóa học, đặc biệt là phân đạm, khiến tồn dư Nitrate, có thể dẫn đến 2 bệnh hiểm nghèo là
kìm hãm sự phát triển của trẻ dưới 1 tuổi, làm trẻ xanh xao, gầy yếu và ung thư dạ dày, vòm
họng ở người lớn (Theo GD&KH).
• Sự thờ ơ của các cấp chính quyền địa phương trong việc xử lý vi phạm gây ô nhiễm.
• Việc khắc phục, xử lý ô nhiễm chưa nhận được sự quan tâm từ các ban ngành chức
năng.
1.3. Hậu quả
Gây ô nhiễm nguồn nước: Thuốc trừ sâu gây ô nhiễm nguồn nước, gây ngộ độc cho
động vật thủy sinh. Một số loại thuốc trừ sâu thường biến đổi sau khi sử dụng thành một hoặc
nhiều chất chuyển hóa bền vững và độc hơn loại thuốc trừ sâu sử dụng ban đầu.
6
(Trâu chết do nhiễm độc hóa chất nông nghiệp).
Gây ô nhiễm đất: Thuốc trừ sâu gây tồn đọng trong đất làm đất bị nhiễm độc, gây
chết các vi sinh vật có lợi trong đất; đất trở nên chua hóa nhanh, chai cứng, giảm năng suất cây
trồng.
Gây ô nhiễm không khí: Mùi thuốc trừ sâu từ đồng ruộng lan tỏa trong không khí
được gió đưa vào các khu dân cư, người dân hít phải thuốc sâu dễ bị nhức đầu, ho, viêm
đường hô hấp…
Theo Viện Hàn lâm Khoa học quốc gia Mỹ đã cảnh báo: Sự phơi nhiễm với các hợp
chất độc hại cho hệ thần kinh ở nhiều mức độ được tin rằng an toàn đối với người trưởng
thành có thể dẫn đến hậu quả đối với phụ nữ mang thai, làm mất đi thường xuyên chức năng

của não bộ nếu sự phơi nhiễm diễn ra trong thời gian mang thai và thời kỳ niên thiếu. Chị
Nguyễn Thị Thanh, ở thôn Thanh Quang, xã Phước Thắng, than thở: “Nhà ở gần ruộng nên bị
ảnh hưởng, hơn tháng nay ngày nào bà con cũng bơm thuốc trừ rầy, trừ sâu cắn gié. Tôi đóng
kín cửa nhưng hơi thuốc vẫn xộc vào làm nghẹt thở. Mới rồi trời có mưa mới không còn mùi
thuốc trừ sâu nữa”.
Ngộ độc do rau không an toàn: Thuốc trừ sâu là những chất thuộc nhóm lân hữu cơ
rất độc, dễ gây ngộ độc cấp tính. Việc tăng liều lượng thuốc, tăng số lần phun thuốc, dùng
7
thuốc BVTV không theo hướng dẫn cũng như lạm dụng thuốc BVTV đã gây ra hiện tượng
kháng thuốc, làm thuốc mất hiệu lực hoặc để lại tồn dư thuốc BVTV quá mức cho phép trong
nông sản, thực phẩm sẽ dẫn đến tình trạng ngộ độc thực phẩm, làm giảm sức cạnh tranh của
nông sản, hàng hóa trên thị trường và cũng là nguy cơ tiềm ẩn đe dọa đến sức khỏe cộng đồng.

Tên ảnh
1.4. Biện pháp khắc phục.
– Giải quyết hài hòa giữa việc quản lý, sử dụng thuốc BVTV để bảo vệ sản xuất nông
nghiệp với việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường là một đòi hỏi và thách thức lớn đối
với các cơ quan quản lý nhà nước. Để đạt được mục tiêu đó cần có một số giải pháp sau:
– Nhà nước cần có chế độ ưu đãi, hỗ trợ cho các chương trình sản xuất và ứng dụng các
sản phẩm hữu cơ, vi sinh vào công tác phòng trừ sinh vật gây hại tài nguyên thực vật; chọn lọc
các loại thuốc, dạng thuốc BVTV an toàn có tính chọn lọc cao, phân giải nhanh trong môi
trường; duy trì và mở rộng việc áp dụng IPM vì chương trình này không chỉ tiết kiệm chi phí
cho việc mua thuốc BVTV mà còn góp phần làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường; tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm trong lĩnh vực BVTV; phối hợp các lực lượng liên
8
ngành trong kiểm tra, kiểm soát việc nhập lậu thuốc BVTV; chú trọng việc thu gom và xử lý
bao bì thuốc BVTV sau sử dụng và kiên quyết đình chỉ các cơ sở sản xuất, gia công thuốc
BVTV có dây chuyền công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm.
– Đẩy mạnh việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong trồng trọt, nâng cao hiểu biết của
người nông dân trong việc sử dụng thuốc BVTV an toàn và hiệu quả, từ đó giảm lượng thuốc

BVTV sử dụng; nghiên cứu ứng dụng và phát triển các dạng thuốc BVTV mới thân thiện với
môi trường, ít ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng; xây dựng và phát triển các vùng chuyên
canh sản xuất các sản phẩm nông nghiệp sạch không dùng phân bón hóa học và thuốc BVTV
nhằm nâng cao chất lượng nông sản phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu.
– Đẩy mạnh các biện pháp tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao năng lực quản lý môi
trường, nâng cao nhận thức về trách nhiệm và nghĩa vụ của những người sản xuất, kinh doanh
và sử dụng thuốc BVTV trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường.
Pháp lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật đã quy định rõ: “Tổ chức, cá nhân sử dụng
thuốc BVTV phải bảo đảm an toàn cho người, vật nuôi, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi
trường và chịu trách nhiệm về việc sử dụng thuốc BVTV không đúng quy định gây ra”
(Khoản 3, Điều 32). Ngoài ra, mục tiêu của “Chương trình hành động bảo đảm chất lượng vệ
sinh an toàn thực phẩm trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật đến năm 2010” của ngành
9
BVTV đã nêu rõ: Xây dựng chính sách hỗ trợ các sản phẩm, nông sản an toàn, từng bước đưa
ra khỏi danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng các hoạt chất có độ độc cao, tồn dư lâu
trong sản phẩm và môi trường, ưu tiên cho phép đăng ký vào danh mục các chế phẩm sinh học
thảo mộc, xây dựng và phát triển vùng sản xuất nông sản an toàn
(Một số loại thuốc BVTV)
Với việc ban hành Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng trên rau, chè cùng với
các biện pháp có hiệu quả về quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu và sử dụng thuốc BVTV cũng
như việc thực hiện tốt các quy định của Pháp lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật, hy vọng rằng
chúng ta sẽ xây dựng được một nền nông nghiệp sạch và bền vững, hạn chế đến mức thấp nhất
ảnh hưởng xấu của thuốc BVTV đến sức khỏe cộng đồng và môi trường.
10
2. Ô nhiễm môi trường nông thôn do rác thải sinh hoạt.
2.1 Thực trạng
Khi nói đến rác, nhiều người thường nghĩ đó là vấn đề cấp bách của đô thị hay các
thành phố lớn. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhất là
kỹ thuật sản xuất, đóng gói bao bì, nhiều loại giấy, hộp đóng gói chủ yếu bằng ni lông, nhựa,
thiếc…rất tiện lợi góp phần làm thay đổi phong cách và tập quán sống của nhiều người dân cư

nông thôn đến thành thị.
Về nông thôn, chúng ta dễ dàng nhận thấy ven làng, các bờ sông, con ngòi, các túi rác,
có khi là cả một tải rác hay đống rác “tự do nhảy dù” chẳng có người nào thu gom, mới đầu
còn là một túi rác nhỏ, dần dà chúng “tập kết” thành đống lớn dần lên qua từng ngày tạo nên
cảnh quan “lạ mắt” ven đường làng, mương máng, có khi còn làm tắc dòng chảy. Bên cạnh đó
rác thải ở các chợ quê đã đến hồi báo động, các đống rác được chất đống lưu cữu rất nhiều
ngày, ngay gần khu dân cư, bốc mùi ô uế.
Mỗi năm, trong cả nước có hàng chục tấn rác thải sinh thải sinh hoạt phát sinh và theo
dự báo thì tổng lượng chất thải đó vẫn tiếp tục tăng lên nhanh chóng trong thập kỷ tới. Theo
11
ông Trương Đình Bắc – Trưởng phòng Sức khoẻ và môi trường, cho biết nếu ở các đô thị lớn,
trung bình một người thải ra 1kg rác/ngày thì vùng nông thôn cũng từ 0,5-0,6kg rác/ngày.
Bình quân mỗi người thải ra 0,7 kg rác/ngày. Như vậy, với khoảng 50 triệu dân vùng nông
thôn, mỗi ngày có gần 50 triệu tấn rác cần được thu gom. Tuy nhiên trên thực tế chỉ thu được
khoảng 50%.
(Túi nilon rải đầy ven đường đi).
Tình trạng vứt rác bừa bãi của một bộ phận người dân nông thôn không chỉ làm ảnh
hưởng đến cảnh quan nông thôn tác động xấu đến môi trường sống của người dân mà còn huỷ
hoại môi trường trong lành của làng quê. Do đó, đã nảy sinh nhiều vấn đề về môi trường nông
thôn.
2.1. Nguyên nhân.
• Do quá trình xây dựng và quy hoạch và đầu tư xây dựng khu dân cư chưa chú trọng vấn đề
xử lý môi trường.
12
(chợ ở nông thôn).
• Do ý thức trách nhiệm của người dân trong việc thu gom và xử lý rác tại các vùng nông
thôn còn rất khiêm tốn. Tỷ lệ thu gom rác thải lớn nhất chỉ đạt 19,8%-29,2% như các huyện
Thuận Thành (Bắc Ninh), Ứng Hoà (Hà Tây) còn tại Giao Thuỷ (Nam Định), Bình Xuyên
(Vĩnh Phúc) tỷ lệ thu gom chỉ đạt từ 3,6-3,7% thực tế.
Một vấn đề chúng ta không khỏi quan tâm hiện nay là hầu hết lượng rác này lại không

được phân loại và xử lý, hình thức thường được sử dụng nhất hiện nay đó là đốt hoặc chôn lấp
như ở làng Vân (Hưng Yên). Không những thế việc hình thành các bãi rác, chôn lấp, chôn lấp
rác thải chưa chú ý đến khoảng cách đối với các khu dân cư, quy mô bãi chôn rác chưa phù
hợp với điều kiện tự nhiên, năng lực thu gom rác yếu, công nghệ xử lý rác còn lạc hậu nên khó
tránh khỏi tình trạng ô nhiễm môi trường (Quảng Trị).
• Công tác quản lý bảo vệ môi trường của chính quyền địa phương chưa chặt chẽ như: Quy
định chưa rõ ràng, thiếu cán bộ quản lý và thanh tra chuyên ngành bảo vệ môi trường nên
không hướng dẫn kịp thời, đầy đủ những nội dung về bảo vệ môi trường để mọi người nắm
và tự giác chấp hành (An Giang). Ở một số nơi cán bộ địa phương cũng chưa chú trọng
việc giáo dục, tuyên truyền cho người dân biết và chấp hành.
• Do không có kinh phí cho việc xử lý rác thải sinh hoạt nên việc xử lý rác thải chưa được
thực hiện như ở thị trấn Liên Quan (Thạch Thất), mặc dù đã ký hợp đồng với công ty MT-
13
ĐT Xuân Mai nhưng mỗi năm cũng chỉ được tổ chức thu gom, xử lý rác thải được 3-4đợt;
Xã Quang Tiến (Sóc Sơn) người dân tham gia đóng góp để trả công cho việc thu gom rác,
nhưng xã gặp khó khăn về kinh phí vận chuyển nên rác “tồn đọng” tập kết ở gần khu dân
cư.
Theo chúng tôi nguyên nhân chính của ô nhiễm môi trường ở nông thôn do rác thải sinh
hoạt là vì thói quen của người dân đã bao đời nay là “nhắm thấy tiện là quăng” nên quanh nhà
là bãi chứa rác và thiếu ý thức của người dân trong việc xử lý rác.
2.2. Hậu quả.
Rác thải sinh hoạt, đặc biệt là nhựa phế liệu, dân trở thành gánh nặng cho xã hội. Ai
cũng biết đó là rác thải, là thứ bỏ đi. Nhưng không phải ai cũng biết, rác thải ngày càng nhiều
và là hiểm hoạ đối với con người và nguy hại gây ô nhiễm môi trường.
Ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mặt, nước ngầm: Hầu hết các dòng sông, mương
tiêu huỷ nước, hồ ao ở nông thôn hiện nay đều bị ô nhiễm từ nhẹ tới nặng, tạo điều kiện cho
các sinh vật và tảo lam phát triển làm cho nguồn nước ngọt dần trở lên khan hiếm.
VD:
Giao Thuỷ, Nam Định, nước ngầm nhiễm asen: hiểm hoạ cho 200.000 nghìn dân sống
ở khu vực nông thôn của huyện. Họ đang phải đôí mặt với tình trạng sử dụng nước sinh hoạt

không đảm bảo vệ sinh. Trung tâm quan trắc và phân tích tài nguyên môi trường Nam định cho
hay, khi tiến hành điều tra vào tháng 6-2007 và tháng 5-2008 tại các xã, thị trấn trong huyện
đều thấy các mẫu nước ngầm có chứa asen vượt tiêu chuẩn 09/Bộ y tế và một số mẫu vượt
TCVN 5942-1995 về nước mặt và TCVN 5944-1995 về nước ngầm.
Bảng tỷ lệ người dân nông thôn được cấp nước sạch ở các vùng
14
TT Vùng
Tỷ lệ người dân nông thôn được cấp
nước sạch (%)
1 Vùng núi phía Bắc 15
2 Trung du Bắc Bộ & Tây Nguyên 18
3 Bắc Trung Bộ & Duyên hải miền Trung 35-36
4 Đông Nam Bộ 21
5 Đồng bằng Sông Hồng 33
6 Đồng bằng Sông Cửu Long 39
Qua bảng trên, chúng ta có thể thấy rõ, những người dân ở nông thôn Việt Nam đang
phải sinh hoạt với những nguồn nước như thế nào. Ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nơi có
tỷ lệ cao nhất cũng chỉ 39% dân số được sử dụng nguồn nước (tạm coi là) sạch. Còn vùng
thấp nhất là vùng núi phía Bắc.
Ô nhiễm không khí: Thải rác vào môi trường, lượng rác này không được xử lý hợp vệ
sinh sẽ phân huỷ mùi hôi thối gây bệnh về da, mắt viêm xoang đường hô hấp…người dân
không được hưởng bầu không khí trong lành cần thiết cho sự sống.
Từ các nguyên nhân trên đã gây ra ảnh hưởng đến sức khoẻ và chất lượng cuộc sống
của người dân. Tình trạng ô nhiễm môi trường nước tác động trực tiếp đến sức khoẻ, là nguyên
nhân gây các bệnh như tiêu chảy, tả, thương hàn, giun sán Các bệnh này gây suy dinh dưỡng,
thiếu máu, thiếu sắt, kém phát triển gây tử vong nhất là ở trẻ em. Có đến 88% trường hợp bệnh
tiêu chảy là do thiếu nước sạch, VSMT kém.
2.3. Giải pháp và hướng khắc phục.
• Thông tin- giáo dục- truyền thông và tham gia của cộng đồng:
15

Về ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường trong các khu dân cư nói riêng và trong toàn xã
hội nói chung. Để việc thu gom và xử lý tốt rác thải sinh hoạt tốt có mấy cách sau:
Chôn rác tại chỗ: cách này thích hợp đối với mọi gia đình. Ở một góc vườn xa nhà ở, đào
một cái hố nhỏ, chừng vài mét vuông, sâu 50-60 cm. Rác thu gom được hằng ngày đổ vào đó.
Chừng vài ngày đến nửa tháng, khi thấy đã nhiều thì rắc một ít vôi bột lên trên để sát trùng. Chừng
vài ba tháng, hố đã đầy ta phủ ít vôi bột lên trên và lấp hố lại bằng đất bộ khô và đào hố khác sử
dụng. hố đó sưau vài tháng, rác hoai có thể để bón cho cây trồng trong vườn hay ngoài đồng, hoặc
có thể trồng một cây ăn trái gì đó ở dưới hố. Chú ý nên phân loại chất rắn, thuỷ tinh hay sắt để xử
lý riêng. Nếu từng gia đình nông thôn có vườn làm được điều này thì sức ép về rác thải cũng đỡ
phần nào.
(thanh niên, dân quân tập chung dọn vệ sinh).
16
Trường hợp ở những nơi làng xóm đã “đô thị hoá” còn ít, hoặc không có vườn, những
gia đình hoặc những nơi công cộng như chợ làng, trường học, nhà văn hoá nên có một thùng
đựng rác, quét dọn hằng ngày hay sau mỗi buổi họp, buổi sinh hoạt rác đổ vào thùng rác, rồi tổ
chức có xe cải tiến đi thu gom tất cả các rác đó đưa đến nơi quy định.
+ Cách ủ rác làm phân:
Vì đây là cách xử lý để làm phân nên phương pháp đơn giản như sau:
Khi rác đã đổ trong hố thành một lớp dày chừng 30-40 cm thì rắc từ 2-3 kg supe lân hay apatit,
1-2 kg vôi bột. có thể cho thêm 1kg urê hay 10 kg phân bắc hay gà vịt để tăng thêm đạm. Khi
lớp rác đã cao tới 1,5-2 m thì rắc lên một lớp bột dày 10 đến 15 cm phủ rơm rạ và tưới nước.
Sau 40 đến 50 ngày đống phân nóng lên, khối lượng xẹp thì dỡ lớp rơm rạ ra, dẫm chặt và phủ
đất 10- 15 cm và tưới nước đủ ẩm. Mặt trên đống phân, chính giữa lên lõm xuống và moi lỗ để
nước ngấm vào rác. Chừng 1-2 tháng thì có thể đem đi bón ruộng, hố đó lại tiếp nhận rác mới.
đúng với khẩu hiệu “sạch làng, tốt ruộng”
Hiện nay, phần lớn dân cư nông thôn còn thiếu hiểu biết về vệ sinh,nước sạch và bệnh
tật, sức khoẻ; về môi trường sống xung quanh mình cần phải được cải thiện và có thể cải thiện
được.
Kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực cho thấy nếu người nông dân nhận thức rõ được vấn
đề thì với sự giúp đỡ của chính phủ, họ có thể vươn lên khắc phục khó khăn, cải thiện được

môi trường sống cho mình tốt hơn.
Vì vậy, các hoạt động thông tin – giáo dục – truyền thông có tầm quan trọng lớn lao đối
với thành công của mọi chiến lược phát triển và vai trò cơ bản của nhà nước trong tương lai là
tập trung vào các hoạt động Thông tin- Giáo dục-Truyền thông và quản lý. Tăng cường tập
huấn, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ thực hiện công tác quản lý môi trường
từ cấp tỉnh đến cơ sở thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
• Về quy hoạch cơ sở hạ tầng.
17
Để đảm bảo vệ sinh môi trường, trong quy hoạch cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu dân cư
cần:
Vạch ra được phương hướng xứ lý rác thải.
Chọn mô hình xử lý rác thải phù hợp.
Phối hợp lực lượng Cảnh sát Môi trường, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các
cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhất là các nhà máy xí nghiệp có hàm lượng rác thải, để kịp thời
phát hiện, nhắc nhở ngăn chặn và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm…
3. Ô nhiễm làng nghề.
Làng nghề đã hình thành và phát triển từ rất lâu đời trong nông thôn Việt Nam và đóng
vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Từ khi thực hiện cơ chế thị trường, các làng nghề thủ
công truyền thống ở nhiều địa phương cũng dần được phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Sản
phẩm của các làng nghề không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn vươn ra thị trường
nước ngoài, thu về nguồn lợi lớn, cải thiện đời sống của tầng lớp dân cư nông thôn. Tuy nhiên,
song song với sự phát triển đó, là tồn tại nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Do sự ý thức của
con người trong quá trình sản xuất không xử lý triệt để các chất thải ra môi trường sống xung
quanh gây nên tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng.
18
Sự ô nhiễm của môi trường ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ đời sống của con người.
Người dân ở các làng nghề mắc bệnh rất cao, đặc biệt là những người trực tiếp sản xuất do
thường xuyên phải tiếp xúc với khói bụi, hoá chất. Bệnh tật của người lao động phổ biến là đau
lưng, đau cột sống, hội chứng dạ dày, viêm phế quản, dị ứng ngoài da và đau mắt. Vì thế, ô
nhiễm làng nghề đang là một vấn đề nan giải.

3.1. Thực trạng.
Trong vòng 10 năm qua tốc độ tăng trưởng của các làng nghề ở nông thôn tăng khá
nhanh, trung bình 8%/năm tính theo giá trị đầu ra. Song nếu chỉ nhìn ở khía cạnh tăng trưởng,
lợi ích mà không tính đến việc bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm thì chưa thể tính đến sự phát
triển bền vững lâu dài của làng nghề. Nhiều khi chỉ vì lợi ích trước mắt mà người ta quên đi
vấn đề bảo vệ môi trường sống của mình.
Theo số liệu công bố mới đây của Cục Cảnh sát môi trường, Bộ Công an, có tới hơn
90% làng nghề vi phạm Luật Bảo vệ môi trường và các quy định an toàn vệ sinh lao động.
Một khảo sát mới đây nhất của Viện Khoa học và Công nghệ môi trường thuộc Trường
đại học Bách khoa Hà Nội, các chuyên gia đã đưa ra những con số báo động về hiện trạng môi
trường tại các làng nghề: 100% mẫu nước thải ở các làng nghề có thông số vượt quá tiêu chuẩn
cho phép; nước mặt, nước ngầm đều có dấu hiệu ô nhiễm. Ô nhiễm không khí chủ yếu tập
trung ở các làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng, gốm, sứ, nhựa ước tính tại lượng ô nhiễm
không khí do đốt than để nung vôi, nung gốm, sứ từ hàng trăm lò thủ công lên tới hàng triệu
m3 khí độc.
Kết quả phân tích mẫu nước thải, khí thải ở các làng nghề của ngành chức năng cho
thấy, hầu hết đều vượt tiêu chuẩn cho phép gấp nhiều lần. Riêng nồng độ bụi vượt từ 113 đến
230 lần, hàm lượng một số kim loại trong nước thải, vượt tới hàng chục lần cho phép. Không
những ảnh hưởng đến cuộc sống, sức khoẻ của người dân, ô nhiễm làng nghề còn làm ô nhiễm
luôn cả nguồn nước nước mặt, đến nỗi một số nơi, cỏ cây, hoặc tôm cá dưới ao không thể sống
nổi.
19
Hiện cả nước có 1.450 làng nghề chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông Hồng (67,3%),
miền Trung (20,5%) và miền Nam (12,2%), chia theo 6 loại hình:
• Chế biến lương thực thực phẩm, dược liệu 197 làng (chiếm 13,6%);
• Ươm tơ, dệt vải, đồ da 173 làng (chiếm gần 12%);
• Thủ công mỹ nghệ, thêu ren 618 làng (chiếm 42,6%);
• Sản xuất vật liệu xây dựng 31 làng (chiếm 2,14%),
• Còn lại các làng nghề khác 341 làng.
Hầu hết các làng nghề đều sử dụng than củi và than đá nên gây ra ô nhiễm không khí

như bụi, hơi nước, SO2, CO2, CO và NOx là hết sức phổ biến. Trong đó các khi COx, NOx là
các tác nhân gây hiệu ứng nhà kính. Ngoài ra, các khí độc hại này còn được sinh ra trong quá
trình phân hủy yếm khí các hợp chất hữu cơ có trong nước thải, chất thải hữu cơ dạng rắn như
H2S, NH3, CH4
Các chất thải độc hại khó phân hủy cũng là một vấn đề môi trường nóng bỏng đặt ra
cho các làng nghề, nhất là các làng nghề tái chế kim loại và dệt nhuộm, thuộc da. Kết quả phân
tích chất lượng nước thải cho thấy: Hàm lượng độc hại đang ở mức đáng báo động, vượt tiêu
chuẩn cho phép nhiều lần. Tại các làng nghề tái chế kim loại có nơi hàm lượng Pb2+ vượt tiêu
chuẩn cho phép tới 4,1 lần, Cu2+- vượt quá 3,25 lần. Hàm lượng Phenol trong nước thải tại
làng nghề tái chế giấy cũng vượt quá tiêu chuẩn cho phép 10 lần.
Tại hầu hết các làng nghề chỉ tiêu BOD, COD, SS đều lớn hơn rất nhiều so với tiêu
chuẩn, các chất gây ô nhiễm này không được xử lý sẽ phát sinh ra nhiều dạng khí gây ô nhiễm
môi trường như CH4, H2S, NH3 Các chất thải rắn nguy hại không được các làng nghề xử lý
đến nơi đến chốn mà chỉ được thu gom rất thủ công và đem chôn lấp đơn giản ở các bãi chôn
lấp hở, thậm chí là bị thải bỏ và đốt bừa bãi ngay trên các con đê làng hoặc đổ xuống dòng
sông cũng đang là nguồn gây ô nhiễm đất, các chất thải rắn.
3.2. Nguyên nhân.
• Do các làng nghề hình thành và phát triển tự phát, quy mô nhỏ lẻ, chưa có quy hoạch.
20
• Trang thiết bị, công nghệ sản xuất của các làng nghề còn rất lạc hậu
• Người dân còn chưa ý thức được việc phải giữ gìn, bảo vệ môi trường.
• Quá tận dụng sức lao động giá rẻ thay vì phải đầu tư đổi mới công nghệ
• Không có biện pháp nào xử lý ô nhiễm.
• Do giá thành sản phẩm nên người ta vẫn phải sử dụng các phương pháp thủ công gây ô
nhiễm môi trường cao.
• Hệ thống cống rãnh thoát nước bị lấp bởi chất thải rắn,gây ngập úng mỗi khi mưa xuống.
• Tình trạng ô nhiễm của tất cả các làng nghề mới chỉ được khảo sát và đưa ra những con số
đáng báo động, nhưng chưa có giải pháp khắc phục cụ thể, hiệu quả từ các ban ngành chức
năng.
3.3. Hậu quả.

Ô nhiễm môi trường làng nghề chính là “thủ phạm” làm gia tăng tỷ lệ người mắc bệnh
đang lao động và sinh sống tại chính làng nghề đó, và tỷ lệ này đang có xu hướng tăng trong
những năm gần đây. Trong đó, ô nhiễm môi trường tại các làng nghề tái chế phế liệu gây tác
hại nghiêm trọng nhất tới sức khỏe cộng đồng, các bệnh phổ biến là bệnh hô hấp, bệnh ngoài
da, thần kinh và đặc biệt là ung thư. Số người lao động có sức khỏe yếu kém (loại 4 hoặc 5)
chiếm tỷ lệ rất cao.
21
(số người mắc bệnh đang gia tăng nhanh tróng).
Theo đánh giá của các chuyên gia môi trường, ở hầu hết các làng nghề không chỉ sức
khoẻ của những người sản xuất, mà cả người dân xung quanh đang bị chất thải rắn và nước
thải xâm hại. Tác động không nhỏ sức khỏe người lao động, các bệnh nghề nghiệp như đường
hô hấp, đau mắt, suy nhược thần kinh, bệnh ngoài da, đường ruột ngày càng gia tăng. Nước
ngầm ở nhiều nơi bị ô nhiễm nặng về mặt sinh học và hóa học làm suy giảm chất lượng cuộc
sống ở nông thôn. Một số làng nghề có đặc thù sản xuất dẫn tới các bệnh mãn tính nguy hiểm
như ung thư, quái thai, nhiễm độc kim loại nặng. Thậm chí, nhiều dòng sông chảy qua các làng
nghề cũng bị ô nhiễm nặng, nhiều ruộng lúa, cây trồng bị giảm năng suất do ô nhiễm khí từ các
làng nghề.
Mặt nước bị thu hẹp dần và ngày càng mất vệ sinh. Một số ít làng đã xây dựng được hệ thống
cống rãnh thoát nước trước đây thì nay do bị lấp bởi chất thải rắn, gây ngập úng mỗi khi mưa
xuống.
22
3.4. Biện pháp và phương hướng khắc phục
Trước tiên về qui hoạch, cần chú trọng tới qui hoạch mặt bằng chung và hạ tầng cơ sở,
trong đó cần bố trí thỏa đáng diện tích cho việc thu gom và xử lý chất thải, diện tích cây xanh,
đầu tư giải quyết hệ thống đường sá trong ngoài thôn xóm cũng như hệ thống cấp thoát nước.
Về tổ chức quản lý sản xuất, cần chú ý xây dựng, cải tạo nhà xưởng, tổ chức không
gian thông thoáng tự nhiên tại nơi lao động, trang bị các dụng cụ an toàn lao động, thiết bị thu
gom bụi, hút khí tại các vị trí xả khí độc hại, tránh ô nhiễm nhiệt do các lò nung, hầm sấy.
Về công nghệ và thiết bị sản xuất, việc quan trọng cần giải quyết kịp thời là thay thế
các thiết bị cũ kỹ, áp dụng công nghệ mới ít chất thải, hạn chế tiếng ồn và rung, sử dụng các

công nghệ phù hợp có khả năng giảm thiểu các chất độc hại.
(Khói bụi tại một làng nghề).
Việc đề ra các giải pháp bảo vệ và cải thiện môi trường cho các làng nghề phải căn cứ
cụ thể vào các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của địa phương. Điều đó có nghĩa là phải
đa dạng hóa các giải pháp bảo vệ môi trường tại các làng nghề mà điều chính yếu là phải đạt
được giải pháp tận dụng các ưu thế và khắc phục được các hạn chế của từng làng nghề. Song
23
dù ở địa phương nào và đối với nghề gì thì giải pháp thu gom và xử lý chất thải đều phải đặt
lên hàng đầu.
Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách chuyển đổi cơ cấu sản xuất, khuyến khích phát
triển ngành nghề nông thôn theo quy hoạch, tập trung các khu sản xuất, kế hoạch gắn với bảo
vệ môi trường, với bảo vệ, tôn tạo những di sản văn hoá ở địa phương. Cạnh đó là hoàn thiện
hành lang pháp lý bảo vệ môi trường, đưa vấn đề môi trường vào các dự án, vào hệ thống giáo
dục Nhưng cấp thiết, có lẽ là 3 vấn đề:
• Một là cần có pháp lệnh về thuế môi trường.
• Hai là tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý đến đầu đến đũa các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng.
(Cơ quan chức năng đang kiểm tra một cơ sở sản xuất.
• Ba là đa dạng hoá đầu tư cho bảo vệ môi trường.
• Các ngành chức năng địa phương hỗ trợ thay đổi công nghệ, quy hoạch khu sản xuất
với hệ thống xử lý nước thải, rác thải…
Hiện nay, chuyện bảo vệ môi trường có ý nghĩa quan trọng, không chỉ là sức khoẻ, là
môi trường sống của cộng đồng mà nó còn có ý nghĩa sống còn với chính ngay các sản phẩm
24
của làng nghề. Muốn nâng cao tính “đua chen” của sản phẩm, dù là thị trường nội địa hay quốc
tế, vấn đề sản xuất sạch được người tiêu dùng đặc biệt quan tâm.
III. Ý KIẾN.
Chúng ta đang phải chứng kiến sức tàn phá ghê gớm của ô nhiễm môi trường tới không
chỉ cảnh quan nông thôn Việt Nam mà còn đối với sức khỏe của chính những người dân. Hãy
nhìn những làng quê đang bóc đi cái vẻ hồn hậu, chất phác vốn có để khoác lên mình tấm áo

kệch cỡm của một tên trọc phú. Hậu quả của nó: Ô nhiễm đổ lên những cánh đồng, những
dòng sông quê còn bệnh tật đang đổ lên đầu những người dân nông thôn. Còn họ, những người
nông dân thì chỉ biết đứng nhìn.
Tài nguyên đất ở các vùng nông thôn vẫn đang tiếp tục bị suy thoái trầm trọng, làm
biến đổi các tính chất đất và không còn tính năng sản xuất. Các loại hình thoái hoá đất chủ đạo
ở nước ta là: Xói mòn, rửa trôi, sạt và trượt lở đất; suy thoái vật lý (mất cấu trúc, đất bị chặt, bí,
25
IV. KẾT BÀI 28T ÀI LIỆU THAM KHẢO 35I. MỞ ĐẦU.Xã hội loài người đang tiến gần hơn đến sự tăng trưởng vững chắc. Đó là việc vừa pháttriển kinh tế tài chính tân tiến song song với bảo vệ môi trường sinh thái. Tuy nhiên, thực trạng ô nhiễmmôi trường vẫn đang hoành hành ở khắp mọi nơi trên hành tinh xanh. Nông thôn Nước Ta đang trong quy trình quy đổi, kéo theo đó là sự phát sinhkhông ít vấn đề mà đặc biệt quan trọng là thực trạng ô nhiễm môi trường. Người dân nông thôn vốn xưanay còn phải chăm sóc nhiều hơn đến đời sống mưu sinh. Khi đời sống chưa thực sự đảm bảothì việc bảo vệ môi trường chỉ là thứ yếu. Các nguồn hầu hết gây ra hiện tượng kỳ lạ ô nhiễm môitrường ở nông thôn tiên phong phải kể đến là việc lạm dụng và sử dụng không hài hòa và hợp lý những loạihoá chất trong sản xuất nông nghiệp ; việc giải quyết và xử lý chất thải của những làng nghề thủ công bằng tay truyềnthống chưa triệt để ; nhận thức, ý thức bảo vệ môi trường của người dân sinh sống ở nông thôncòn hạn chế. Tiếp đó là sự chăm sóc chưa đúng mức của những cấp, những ngành. Ô nhiễm môitrường đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng tác động xấu đến hệ sinh thái nông nghiệp, ảnhhưởng trực tiếp đến sức khỏe thể chất của người dân. Vì vậy, bảo vệ môi trường nông thôn đang là mộtvấn đề cấp bách. Bài tiểu luận dưới đây của chúng tôi sẽ đến một cái nhìn khái quát về tình hình ônhiễm môi trường ở nông thôn, nguyên do, hậu quả và những giải pháp. Rất mong nhậnđược sự chăm sóc, góp phần quan điểm của quý bạn đọc. Nhóm thực thi. II. NỘI DUNGÔ nhiễm môi trường hiện nay không riêng gì ở thành phố và những khu, cụm công nghiệpmà còn ở những vùng nông thôn. Theo chúng tôi, có rất nhiều nguồn gây ô nhiễm, tuy nhiên chủ yếulà 3 nguồn chính : 1. Ô nhiễm môi trường hoạt động giải trí sản xuất nông nghiệp. 1.1. Thực trạng. Những năm gần đây, do thâm canh tăng vụ, tăng diện tích quy hoạnh cũng như do biến hóa cơ cấugiống cây cối nên tình hình sâu bệnh diễn biến phức tạp hơn. Vì vậy số lượng và chủng loạithuốc BVTV sử dụng cũng tăng lên. Nếu như trước năm 1985, khối lượng thuốc BVTV dùnghàng năm khoảng chừng 6.500 – 9.000 tấn thành phẩm quy đổi và lượng thuốc sử dụng bình quânkhoảng 0,3 kg hoạt chất / ha thì thời hạn từ năm 1991 đến nay lượng thuốc sử dụng biến độngtừ 25.000 – 38.000 tấn và lượng thuốc sử dụng cũng tăng lên 0,67 – 1,01 kg hoạt chất / ha. ( vỏ hộp thuốc BVTV vứt bừa bãi ). Tình trạng những thuốc BVTV tồn dư không sử dụng, nhập lậu bị thu giữ đang ngàycàng tăng lên về số lượng và chủng loại. Điều đáng quan ngại là hầu hết những loại thuốc BVTV tồnđọng này được lưu giữ trong những kho chứa tồi tàn hoặc bị chôn vùi dưới đất không đúng kỹthuật nên rủi ro tiềm ẩn thấm và rò rỉ vào môi trường là rất đáng báo động. Cùng với vấn đề BVTV, tổng khối lượng chất thải chăn nuôi trung bình khoảng chừng hơn 73 triệu tấn / năm ( trong đó chất thải của trâu chiếm 21,9 %, bò chiếm 32,5 %, lợn chiếm 33,4 % ) cũng là nguồn gây ô nhiễm lớn. Nhiều xí nghiệp sản xuất chăn nuôi, nhà máy sản xuất chế biến thực phẩm nằmlẫn trong khu dân cư, sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún thiếu những giải pháp giảm thiểu ô nhiễmmôi trường. Không chỉ trồng trọt, chăn nuôi mà thực trạng tăng trưởng nuôi trồng thủy hải sản tựphát, thiếu quy hoạch, thức ăn thừa không được giải quyết và xử lý, việc sử dụng kháng sinh tùy tiện cũngdẫn tới ô nhiễm môi trường xảy ra nghiêm trọng ở 1 số ít nơi. 1.2. Nguyên nhân • Trước hết phải kể đến nguyên do từ nhận thức, ý thức, tập quán canh tác của ngườidân. Việc sử dụng hóa chất trong nông nghiệp như phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật ( BVTV ) gồm : Thuốc trừ sâu, thuốc trừ nấm, thuốc diệt chuột, thuốc trừ bệnh ; thuốc trừ cỏ mộtcách tràn ngập, không tuân thủ thời hạn cách ly sau khi phun thuốc và cả việc vứt vỏ hộp thuốcBVTV. Kết quả kiểm tra tình hình sử dụng thuốc BVTV trên rau của 4.600 hộ nông dân năm2006 cho thấy, có tới 59,8 % số hộ vi phạm về tiến trình sử dụng thuốc. Trong đó, số hộ khônggiữ đúng thời hạn cách ly là 20,7 % ; sử dụng thuốc cấm, thuốc ngoài hạng mục là 10,31 % ; sửdụng thuốc hạn chế trên rau là 0,18 % và sử dụng thuốc không rõ nguồn gốc, nguồn gốc là 0,73 %. ( Thuốc BVTV không được quản trị về nguồn gốc, nguồn gốc, thành phần ). Kết quả kiểm tra dư lượng thuốc BVTV cũng cho thấy, có 33/373 mẫu rau chiếm13, 46 % vượt mức dư lượng được cho phép. Mặt khác, hiệu quả tìm hiểu 156 hộ nông dân ở TiềnGiang, 200 hộ ở Đan Phượng ( Hà Tây ) và 200 hộ ở Từ Liêm ( TP.HN ) cho thấy, có 80 % số hộvứt luôn vỏ hộp thuốc tại ruộng, mương nước nơi sử dụng. Thói quen rửa bình bơm và dụng cụpha chế thuốc BVTV không đúng nơi lao lý. Sử dụng phân bón thừa thãi gây tồn dư trong đất, nước, ảnh hưởng tác động đến sức khỏe thể chất conngười. Việc sử dụng “ phân chuồng tươi ” liều lượng lớn, không tuân thủ tiến trình kỹ thuật, cácmẫu đất, nước, rau quả được điều tra và nghiên cứu đều còn tồn dư lượng Fecal Coliorm. Khi lạm dụngphân hóa học, đặc biệt quan trọng là phân đạm, khiến tồn dư Nitrate, hoàn toàn có thể dẫn đến 2 bệnh hiểm nghèo làkìm hãm sự tăng trưởng của trẻ dưới 1 tuổi, làm trẻ xanh lè, gầy yếu và ung thư dạ dày, vòmhọng ở người lớn ( Theo GD&KH ). • Sự lãnh đạm của những cấp chính quyền sở tại địa phương trong việc giải quyết và xử lý vi phạm gây ô nhiễm. • Việc khắc phục, giải quyết và xử lý ô nhiễm chưa nhận được sự chăm sóc từ những ban ngành chứcnăng. 1.3. Hậu quảGây ô nhiễm nguồn nước : Thuốc trừ sâu gây ô nhiễm nguồn nước, gây ngộ độc chođộng vật thủy sinh. Một số loại thuốc trừ sâu thường biến đổi sau khi sử dụng thành một hoặcnhiều chất chuyển hóa bền vững và kiên cố và độc hơn loại thuốc trừ sâu sử dụng bắt đầu. ( Trâu chết do nhiễm độc hóa chất nông nghiệp ). Gây ô nhiễm đất : Thuốc trừ sâu gây tồn dư trong đất làm đất bị nhiễm độc, gâychết những vi sinh vật có lợi trong đất ; đất trở nên chua hóa nhanh, chai cứng, giảm hiệu suất câytrồng. Gây ô nhiễm không khí : Mùi thuốc trừ sâu từ đồng ruộng lan tỏa trong không khíđược gió đưa vào những khu dân cư, người dân hít phải thuốc sâu dễ bị nhức đầu, ho, viêmđường hô hấp … Theo Viện Hàn lâm Khoa học vương quốc Mỹ đã cảnh báo nhắc nhở : Sự phơi nhiễm với những hợpchất ô nhiễm cho hệ thần kinh ở nhiều mức độ được tin rằng bảo đảm an toàn so với người trưởngthành hoàn toàn có thể dẫn đến hậu quả so với phụ nữ mang thai, làm mất đi tiếp tục chức năngcủa não bộ nếu sự phơi nhiễm diễn ra trong thời hạn mang thai và thời kỳ niên thiếu. ChịNguyễn Thị Thanh, ở thôn Thanh Quang, xã Phước Thắng, than vãn : “ Nhà ở gần ruộng nên bịảnh hưởng, hơn tháng nay ngày nào bà con cũng bơm thuốc trừ rầy, trừ sâu cắn gié. Tôi đóngkín cửa nhưng hơi thuốc vẫn xộc vào làm không thở được. Mới rồi trời có mưa mới không còn mùithuốc trừ sâu nữa ”. Ngộ độc do rau không bảo đảm an toàn : Thuốc trừ sâu là những chất thuộc nhóm lân hữu cơrất độc, dễ gây ngộ độc cấp tính. Việc tăng liều lượng thuốc, tăng số lần phun thuốc, dùngthuốc BVTV không theo hướng dẫn cũng như lạm dụng thuốc BVTV đã gây ra hiện tượngkháng thuốc, làm thuốc mất hiệu lực thực thi hiện hành hoặc để lại tồn dư thuốc BVTV quá mức được cho phép trongnông sản, thực phẩm sẽ dẫn đến thực trạng ngộ độc thực phẩm, làm giảm sức cạnh tranh đối đầu củanông sản, sản phẩm & hàng hóa trên thị trường và cũng là rủi ro tiềm ẩn tiềm ẩn rình rập đe dọa đến sức khỏe thể chất hội đồng. Tên ảnh1. 4. Biện pháp khắc phục. – Giải quyết hài hòa giữa việc quản trị, sử dụng thuốc BVTV để bảo vệ sản xuất nôngnghiệp với việc bảo vệ sức khỏe thể chất hội đồng và môi trường là một yên cầu và thử thách lớn đốivới những cơ quan quản trị nhà nước. Để đạt được tiềm năng đó cần có một số ít giải pháp sau : – Nhà nước cần có chính sách tặng thêm, tương hỗ cho những chương trình sản xuất và ứng dụng cácsản phẩm hữu cơ, vi sinh vào công tác làm việc phòng trừ sinh vật gây hại tài nguyên thực vật ; chọn lọccác loại thuốc, dạng thuốc BVTV bảo đảm an toàn có tính tinh lọc cao, phân giải nhanh trong môitrường ; duy trì và lan rộng ra việc vận dụng IPM vì chương trình này không chỉ tiết kiệm chi phí chi phícho việc mua thuốc BVTV mà còn góp thêm phần làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường ; tăng cườngcông tác thanh tra, kiểm tra giải quyết và xử lý vi phạm trong nghành BVTV ; phối hợp những lực lượng liênngành trong kiểm tra, trấn áp việc nhập lậu thuốc BVTV ; chú trọng việc thu gom và xử lýbao bì thuốc BVTV sau sử dụng và nhất quyết đình chỉ những cơ sở sản xuất, gia công thuốcBVTV có dây chuyền sản xuất công nghệ tiên tiến lỗi thời gây ô nhiễm. – Đẩy mạnh việc vận dụng những văn minh kỹ thuật trong trồng trọt, nâng cao hiểu biết củangười nông dân trong việc sử dụng thuốc BVTV bảo đảm an toàn và hiệu suất cao, từ đó giảm lượng thuốcBVTV sử dụng ; nghiên cứu ứng dụng và tăng trưởng những dạng thuốc BVTV mới thân thiện vớimôi trường, ít ảnh hưởng tác động đến sức khỏe thể chất hội đồng ; thiết kế xây dựng và tăng trưởng những vùng chuyêncanh sản xuất những mẫu sản phẩm nông nghiệp sạch không dùng phân bón hóa học và thuốc BVTVnhằm nâng cao chất lượng nông sản ship hàng cho tiêu dùng và xuất khẩu. – Đẩy mạnh những giải pháp tuyên truyền, giáo dục nhằm mục đích nâng cao năng lượng quản trị môitrường, nâng cao nhận thức về nghĩa vụ và trách nhiệm và nghĩa vụ và trách nhiệm của những người sản xuất, kinh doanhvà sử dụng thuốc BVTV trong việc bảo vệ sức khỏe thể chất hội đồng và môi trường. Pháp lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật đã lao lý rõ : “ Tổ chức, cá thể sử dụngthuốc BVTV phải bảo vệ bảo đảm an toàn cho người, vật nuôi, vệ sinh bảo đảm an toàn thực phẩm, môitrường và chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về việc sử dụng thuốc BVTV không đúng pháp luật gây ra ” ( Khoản 3, Điều 32 ). Ngoài ra, tiềm năng của “ Chương trình hành vi bảo vệ chất lượng vệsinh bảo đảm an toàn thực phẩm trong nghành nghề dịch vụ bảo vệ và kiểm dịch thực vật đến năm 2010 ” của ngànhBVTV đã nêu rõ : Xây dựng chủ trương tương hỗ những mẫu sản phẩm, nông sản bảo đảm an toàn, từng bước đưara khỏi hạng mục thuốc BVTV được phép sử dụng những hoạt chất có độ độc cao, tồn dư lâutrong mẫu sản phẩm và môi trường, ưu tiên được cho phép ĐK vào hạng mục những chế phẩm sinh họcthảo mộc, thiết kế xây dựng và tăng trưởng vùng sản xuất nông sản bảo đảm an toàn ( Một số loại thuốc BVTV ) Với việc phát hành Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng trên rau, chè cùng vớicác giải pháp có hiệu suất cao về quản trị ngặt nghèo việc nhập khẩu và sử dụng thuốc BVTV cũngnhư việc triển khai tốt những lao lý của Pháp lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật, kỳ vọng rằngchúng ta sẽ thiết kế xây dựng được một nền nông nghiệp sạch và bền vững và kiên cố, hạn chế đến mức thấp nhấtảnh hưởng xấu của thuốc BVTV đến sức khỏe thể chất hội đồng và môi trường. 102. Ô nhiễm môi trường nông thôn do rác thải hoạt động và sinh hoạt. 2.1 Thực trạngKhi nói đến rác, nhiều người thường nghĩ đó là vấn đề cấp bách của đô thị hay cácthành phố lớn. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Với sự tăng trưởng của khoa học kỹ thuật, nhất làkỹ thuật sản xuất, đóng gói vỏ hộp, nhiều loại giấy, hộp đóng gói hầu hết bằng ni lông, nhựa, thiếc … rất tiện nghi góp thêm phần làm biến hóa phong thái và tập quán sống của nhiều người dân cưnông thôn đến thành thị. Về nông thôn, tất cả chúng ta thuận tiện nhận thấy ven làng, những bờ sông, con ngòi, những túi rác, có khi là cả một tải rác hay đống rác “ tự do nhảy dù trên không ” chẳng có người nào thu gom, mới đầucòn là một túi rác nhỏ, dần dà chúng “ tập trung ” thành đống lớn dần lên qua từng ngày tạo nêncảnh quan “ lạ mắt ” ven đường làng, mương máng, có khi còn làm tắc dòng chảy. Bên cạnh đórác thải ở những chợ quê đã đến hồi báo động, những đống rác được chất đống lưu cữu rất nhiềungày, ngay gần khu dân cư, bốc mùi ô uế. Mỗi năm, trong cả nước có hàng chục tấn rác thải sinh thải hoạt động và sinh hoạt phát sinh và theodự báo thì tổng lượng chất thải đó vẫn liên tục tăng lên nhanh gọn trong thập kỷ tới. Theo11ông Trương Đình Bắc – Trưởng phòng Sức khỏe và môi trường, cho biết nếu ở những đô thị lớn, trung bình một người thải ra 1 kg rác / ngày thì vùng nông thôn cũng từ 0,5 – 0,6 kg rác / ngày. Bình quân mỗi người thải ra 0,7 kg rác / ngày. Như vậy, với khoảng chừng 50 triệu dân vùng nôngthôn, mỗi ngày có gần 50 triệu tấn rác cần được thu gom. Tuy nhiên trên trong thực tiễn chỉ thu đượckhoảng 50 %. ( Túi nilon rải đầy ven đường đi ). Tình trạng vứt rác bừa bãi của một bộ phận người dân nông thôn không riêng gì làm ảnhhưởng đến cảnh sắc nông thôn tác động ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của dân cư mà còn huỷhoại môi trường trong lành của làng quê. Do đó, đã phát sinh nhiều vấn đề về môi trường nôngthôn. 2.1. Nguyên nhân. • Do quy trình thiết kế xây dựng và quy hoạch và góp vốn đầu tư thiết kế xây dựng khu dân cư chưa chú trọng vấn đềxử lý môi trường. 12 ( chợ ở nông thôn ). • Do ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm của dân cư trong việc thu gom và giải quyết và xử lý rác tại những vùng nôngthôn còn rất nhã nhặn. Tỷ lệ thu gom rác thải lớn nhất chỉ đạt 19,8 % – 29,2 % như những huyệnThuận Thành ( TP Bắc Ninh ), Ứng Hòa ( Hà Tây ) còn tại Giao Thủy ( Tỉnh Nam Định ), Bình Xuyên ( Vĩnh Phúc ) tỷ suất thu gom chỉ đạt từ 3,6 – 3,7 % thực tiễn. Một vấn đề tất cả chúng ta không khỏi chăm sóc hiện nay là hầu hết lượng rác này lại khôngđược phân loại và giải quyết và xử lý, hình thức thường được sử dụng nhất hiện nay đó là đốt hoặc chôn lấpnhư ở làng Vân ( Hưng Yên ). Không những thế việc hình thành những bãi rác, chôn lấp, chôn lấprác thải chưa chú ý quan tâm đến khoảng cách so với những khu dân cư, quy mô bãi chôn rác chưa phùhợp với điều kiện kèm theo tự nhiên, năng lượng thu gom rác yếu, công nghệ tiên tiến giải quyết và xử lý rác còn lỗi thời nên khótránh khỏi thực trạng ô nhiễm môi trường ( Quảng Trị ). • Công tác quản trị bảo vệ môi trường của chính quyền sở tại địa phương chưa ngặt nghèo như : Quyđịnh chưa rõ ràng, thiếu cán bộ quản trị và thanh tra chuyên ngành bảo vệ môi trường nênkhông hướng dẫn kịp thời, vừa đủ những nội dung về bảo vệ môi trường để mọi người nắmvà tự giác chấp hành ( An Giang ). Ở 1 số ít nơi cán bộ địa phương cũng chưa chú trọngviệc giáo dục, tuyên truyền cho người dân biết và chấp hành. • Do không có kinh phí đầu tư cho việc giải quyết và xử lý rác thải hoạt động và sinh hoạt nên việc giải quyết và xử lý rác thải chưa đượcthực hiện như ở thị xã Liên Quan ( Thạch Thất ), mặc dầu đã ký hợp đồng với công ty MT-13ĐT Xuân Mai nhưng mỗi năm cũng chỉ được tổ chức triển khai thu gom, giải quyết và xử lý rác thải được 3-4 đợt ; Xã Quang Tiến ( Sóc Sơn ) người dân tham gia góp phần để trả công cho việc thu gom rác, nhưng xã gặp khó khăn vất vả về kinh phí đầu tư luân chuyển nên rác “ tồn dư ” tập trung ở gần khu dâncư. Theo chúng tôi nguyên do chính của ô nhiễm môi trường ở nông thôn do rác thải sinhhoạt là vì thói quen của dân cư đã bao đời nay là “ nhắm thấy tiện là quăng ” nên quanh nhàlà bãi chứa rác và thiếu ý thức của dân cư trong việc giải quyết và xử lý rác. 2.2. Hậu quả. Rác thải hoạt động và sinh hoạt, đặc biệt quan trọng là nhựa phế liệu, dân trở thành gánh nặng cho xã hội. Aicũng biết đó là rác thải, là thứ bỏ đi. Nhưng không phải ai cũng biết, rác thải ngày càng nhiềuvà là mối đe dọa so với con người và nguy cơ tiềm ẩn gây ô nhiễm môi trường. Ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mặt, nước ngầm : Hầu hết những dòng sông, mươngtiêu hủy nước, hồ ao ở nông thôn hiện nay đều bị ô nhiễm từ nhẹ tới nặng, tạo điều kiện kèm theo chocác sinh vật và tảo lam tăng trưởng làm cho nguồn nước ngọt dần trở lên khan hiếm. VD : Giao Thủy, Tỉnh Nam Định, nước ngầm nhiễm asen : mối đe dọa cho 200.000 nghìn dân sốngở khu vực nông thôn của huyện. Họ đang phải đương đầu với thực trạng sử dụng nước sinh hoạtkhông bảo vệ vệ sinh. Trung tâm quan trắc và nghiên cứu và phân tích tài nguyên môi trường Nam định chohay, khi thực thi tìm hiểu vào tháng 6-2007 và tháng 5-2008 tại những xã, thị xã trong huyệnđều thấy những mẫu nước ngầm có chứa asen vượt tiêu chuẩn 09 / Bộ y tế và 1 số ít mẫu vượtTCVN 5942 – 1995 về nước mặt và TCVN 5944 – 1995 về nước ngầm. Bảng tỷ suất người dân nông thôn được cấp nước sạch ở những vùng14TT VùngTỷ lệ người dân nông thôn được cấpnước sạch ( % ) 1 Vùng núi phía Bắc 152 Trung du Bắc Bộ và Tây Nguyên 183 Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 35-364 Đông Nam Bộ 215 Đồng bằng Sông Hồng 336 Đồng bằng Sông Cửu Long 39Q ua bảng trên, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể thấy rõ, những người dân ở nông thôn Nước Ta đangphải hoạt động và sinh hoạt với những nguồn nước như thế nào. Ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nơi cótỷ lệ cao nhất cũng chỉ 39 % dân số được sử dụng nguồn nước ( tạm coi là ) sạch. Còn vùngthấp nhất là vùng núi phía Bắc. Ô nhiễm không khí : Thải rác vào môi trường, lượng rác này không được giải quyết và xử lý hợp vệsinh sẽ phân hủy mùi hôi thối gây bệnh về da, mắt viêm xoang đường hô hấp … người dânkhông được hưởng bầu không khí trong lành thiết yếu cho sự sống. Từ những nguyên do trên đã gây ra ảnh hưởng tác động đến sức khỏe thể chất và chất lượng cuộc sốngcủa người dân. Tình trạng ô nhiễm môi trường nước tác động ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe thể chất, là nguyênnhân gây những bệnh như tiêu chảy, tả, thương hàn, giun sán Các bệnh này gây suy dinh dưỡng, thiếu máu, thiếu sắt, kém tăng trưởng gây tử trận nhất là ở trẻ nhỏ. Có đến 88 % trường hợp bệnhtiêu chảy là do thiếu nước sạch, VSMT kém. 2.3. Giải pháp và hướng khắc phục. • tin tức – giáo dục – tiếp thị quảng cáo và tham gia của hội đồng : 15V ề ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường trong những khu dân cư nói riêng và trong toàn xãhội nói chung. Để việc thu gom và giải quyết và xử lý tốt rác thải hoạt động và sinh hoạt tốt có mấy cách sau : Chôn rác tại chỗ : cách này thích hợp so với mọi mái ấm gia đình. Ở một góc vườn xa nhà tại, đàomột cái hố nhỏ, chừng vài mét vuông, sâu 50-60 cm. Rác thu gom được hằng ngày đổ vào đó. Chừng vài ngày đến nửa tháng, khi thấy đã nhiều thì rắc một chút ít vôi bột lên trên để sát trùng. Chừngvài ba tháng, hố đã đầy ta phủ ít vôi bột lên trên và lấp hố lại bằng đất bộ khô và đào hố khác sửdụng. hố đó sưau vài tháng, rác hoai hoàn toàn có thể để bón cho cây cối trong vườn hay ngoài đồng, hoặccó thể trồng một cây ăn trái gì đó ở dưới hố. Chú ý nên phân loại chất rắn, thủy tinh hay sắt để xửlý riêng. Nếu từng mái ấm gia đình nông thôn có vườn làm được điều này thì sức ép về rác thải cũng đỡphần nào. ( người trẻ tuổi, dân quân tập chung dọn vệ sinh ). 16T rường hợp ở những nơi làng xóm đã “ đô thị hóa ” còn ít, hoặc không có vườn, nhữnggia đình hoặc những nơi công cộng như chợ làng, trường học, nhà văn hóa nên có một thùngđựng rác, quét dọn hằng ngày hay sau mỗi buổi họp, buổi hoạt động và sinh hoạt rác đổ vào thùng rác, rồi tổchức có xe nâng cấp cải tiến đi thu gom tổng thể những rác đó đưa đến nơi lao lý. + Cách ủ rác làm phân : Vì đây là cách giải quyết và xử lý để làm phân nên chiêu thức đơn thuần như sau : Khi rác đã đổ trong hố thành một lớp dày chừng 30-40 cm thì rắc từ 2-3 kg supe lân hay apatit, 1-2 kg vôi bột. hoàn toàn có thể cho thêm 1 kg urê hay 10 kg phân bắc hay gà vịt để tăng thêm đạm. Khilớp rác đã cao tới 1,5 – 2 m thì rắc lên một lớp bột dày 10 đến 15 cm phủ rơm rạ và tưới nước. Sau 40 đến 50 ngày đống phân nóng lên, khối lượng xẹp thì dỡ lớp rơm rạ ra, dẫm chặt và phủđất 10 – 15 cm và tưới nước đủ ẩm. Mặt trên đống phân, chính giữa lên lõm xuống và moi lỗ đểnước ngấm vào rác. Chừng 1-2 tháng thì hoàn toàn có thể đem đi bón ruộng, hố đó lại đảm nhiệm rác mới. đúng với khẩu hiệu “ sạch làng, tốt ruộng ” Hiện nay, phần đông dân cư nông thôn còn thiếu hiểu biết về vệ sinh, nước sạch và bệnhtật, sức khỏe thể chất ; về môi trường sống xung quanh mình cần phải được cải tổ và hoàn toàn có thể cải thiệnđược. Kinh nghiệm trong nhiều nghành nghề dịch vụ cho thấy nếu người nông dân nhận thức rõ được vấnđề thì với sự giúp sức của cơ quan chính phủ, họ hoàn toàn có thể vươn lên khắc phục khó khăn vất vả, cải tổ đượcmôi trường sống cho mình tốt hơn. Vì vậy, những hoạt động giải trí thông tin – giáo dục – tiếp thị quảng cáo có tầm quan trọng lớn lao đốivới thành công xuất sắc của mọi kế hoạch tăng trưởng và vai trò cơ bản của nhà nước trong tương lai làtập trung vào những hoạt động giải trí tin tức – Giáo dục-Truyền thông và quản trị. Tăng cường tậphuấn, hướng dẫn về trình độ, nhiệm vụ cho cán bộ thực thi công tác làm việc quản trị môi trườngtừ cấp tỉnh đến cơ sở thực thi tốt công dụng, trách nhiệm được giao. • Về quy hoạch hạ tầng. 17 Để bảo vệ vệ sinh môi trường, trong quy hoạch hạ tầng kỹ thuật khu dân cưcần : Vạch ra được phương hướng xứ lý rác thải. Chọn quy mô giải quyết và xử lý rác thải tương thích. Phối hợp lực lượng Cảnh sát Môi trường, tăng cường công tác làm việc thanh tra, kiểm tra cáccơ sở sản xuất, kinh doanh thương mại, nhất là những nhà máy sản xuất nhà máy sản xuất có hàm lượng rác thải, để kịp thờiphát hiện, nhắc nhở ngăn ngừa và giải quyết và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm … 3. Ô nhiễm làng nghề. Làng nghề đã hình thành và tăng trưởng từ rất truyền kiếp trong nông thôn Nước Ta và đóngvai trò rất quan trọng trong nền kinh tế tài chính. Từ khi triển khai cơ chế thị trường, những làng nghề thủcông truyền thống lịch sử ở nhiều địa phương cũng dần được phục sinh và tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ. Sảnphẩm của những làng nghề không chỉ ship hàng nhu yếu trong nước mà còn vươn ra thị trườngnước ngoài, thu về nguồn lợi lớn, cải tổ đời sống của những tầng lớp dân cư nông thôn. Tuy nhiên, song song với sự tăng trưởng đó, là sống sót rủi ro tiềm ẩn gây ô nhiễm môi trường. Do sự ý thức củacon người trong quy trình sản xuất không giải quyết và xử lý triệt để những chất thải ra môi trường sống xungquanh gây nên thực trạng ô nhiễm nghiêm trọng. 18S ự ô nhiễm của môi trường tác động ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe thể chất đời sống của con người. Người dân ở những làng nghề mắc bệnh rất cao, đặc biệt quan trọng là những người trực tiếp sản xuất dothường xuyên phải tiếp xúc với khói bụi, hóa chất. Bệnh tật của người lao động phổ cập là đaulưng, đau cột sống, hội chứng dạ dày, viêm phế quản, dị ứng ngoài da và đau mắt. Vì thế, ônhiễm làng nghề đang là một vấn đề nan giải. 3.1. Thực trạng. Trong vòng 10 năm qua vận tốc tăng trưởng của những làng nghề ở nông thôn tăng khánhanh, trung bình 8 % / năm tính theo giá trị đầu ra. Song nếu chỉ nhìn ở góc nhìn tăng trưởng, quyền lợi mà không tính đến việc bảo vệ môi trường, giải quyết và xử lý ô nhiễm thì chưa thể tính đến sự pháttriển vững chắc lâu bền hơn của làng nghề. Nhiều khi chỉ vì quyền lợi trước mắt mà người ta quên đivấn đề bảo vệ môi trường sống của mình. Theo số liệu công bố mới gần đây của Cục Cảnh sát môi trường, Bộ Công an, có tới hơn90 % làng nghề vi phạm Luật Bảo vệ môi trường và những pháp luật bảo đảm an toàn vệ sinh lao động. Một khảo sát mới gần đây nhất của Viện Khoa học và Công nghệ môi trường thuộc Trườngđại học Bách khoa TP.HN, những chuyên viên đã đưa ra những số lượng báo động về thực trạng môitrường tại những làng nghề : 100 % mẫu nước thải ở những làng nghề có thông số kỹ thuật vượt quá tiêu chuẩncho phép ; nước mặt, nước ngầm đều có tín hiệu ô nhiễm. Ô nhiễm không khí hầu hết tậptrung ở những làng nghề sản xuất vật tư kiến thiết xây dựng, gốm, sứ, nhựa ước tính tại lượng ô nhiễmkhông khí do đốt than để nung vôi, nung gốm, sứ từ hàng trăm lò bằng tay thủ công lên tới hàng triệum3 khí độc. Kết quả nghiên cứu và phân tích mẫu nước thải, khí thải ở những làng nghề của ngành công dụng chothấy, hầu hết đều vượt tiêu chuẩn được cho phép gấp nhiều lần. Riêng nồng độ bụi vượt từ 113 đến230 lần, hàm lượng 1 số ít sắt kẽm kim loại trong nước thải, vượt tới hàng chục lần được cho phép. Khôngnhững ảnh hưởng tác động đến đời sống, sức khỏe thể chất của dân cư, ô nhiễm làng nghề còn làm ô nhiễmluôn cả nguồn nước nước mặt, đến nỗi một số ít nơi, cỏ cây, hoặc tôm cá dưới ao không hề sốngnổi. 19H iện cả nước có 1.450 làng nghề đa phần tập trung chuyên sâu ở đồng bằng sông Hồng ( 67,3 % ), miền Trung ( 20,5 % ) và miền Nam ( 12,2 % ), chia theo 6 mô hình : • Chế biến lương thực thực phẩm, dược liệu 197 làng ( chiếm 13,6 % ) ; • Ươm tơ, dệt vải, đồ da 173 làng ( chiếm gần 12 % ) ; • Thủ công mỹ nghệ, thêu ren 618 làng ( chiếm 42,6 % ) ; • Sản xuất vật tư kiến thiết xây dựng 31 làng ( chiếm 2,14 % ), • Còn lại những làng nghề khác 341 làng. Hầu hết những làng nghề đều sử dụng than củi và than đá nên gây ra ô nhiễm không khínhư bụi, hơi nước, SO2, CO2, CO và NOx là rất là phổ cập. Trong đó những khi COx, NOx làcác tác nhân gây hiệu ứng nhà kính. Ngoài ra, những khí ô nhiễm này còn được sinh ra trong quátrình phân hủy yếm khí những hợp chất hữu cơ có trong nước thải, chất thải hữu cơ dạng rắn nhưH2S, NH3, CH4Các chất thải ô nhiễm khó phân hủy cũng là một vấn đề môi trường nóng bỏng đặt racho những làng nghề, nhất là những làng nghề tái chế sắt kẽm kim loại và dệt nhuộm, thuộc da. Kết quả phântích chất lượng nước thải cho thấy : Hàm lượng ô nhiễm đang ở mức đáng báo động, vượt tiêuchuẩn được cho phép nhiều lần. Tại những làng nghề tái chế sắt kẽm kim loại có nơi hàm lượng Pb2 + vượt tiêuchuẩn được cho phép tới 4,1 lần, Cu2 + – vượt quá 3,25 lần. Hàm lượng Phenol trong nước thải tạilàng nghề tái chế giấy cũng vượt quá tiêu chuẩn được cho phép 10 lần. Tại hầu hết những làng nghề chỉ tiêu BOD, COD, SS đều lớn hơn rất nhiều so với tiêuchuẩn, những chất gây ô nhiễm này không được giải quyết và xử lý sẽ phát sinh ra nhiều dạng khí gây ô nhiễmmôi trường như CH4, H2S, NH3 Các chất thải rắn nguy cơ tiềm ẩn không được những làng nghề xử lýđến nơi đến chốn mà chỉ được thu gom rất thủ công bằng tay và đem chôn lấp đơn thuần ở những bãi chônlấp hở, thậm chí còn là bị thải bỏ và đốt bừa bãi ngay trên những con đê làng hoặc đổ xuống dòngsông cũng đang là nguồn gây ô nhiễm đất, những chất thải rắn. 3.2. Nguyên nhân. • Do những làng nghề hình thành và tăng trưởng tự phát, quy mô nhỏ lẻ, chưa có quy hoạch. 20 • Trang thiết bị, công nghệ tiên tiến sản xuất của những làng nghề còn rất lỗi thời • Người dân còn chưa ý thức được việc phải giữ gìn, bảo vệ môi trường. • Quá tận dụng sức lao động giá rẻ thay vì phải góp vốn đầu tư thay đổi công nghệ tiên tiến • Không có giải pháp nào giải quyết và xử lý ô nhiễm. • Do giá tiền loại sản phẩm nên người ta vẫn phải sử dụng những chiêu thức bằng tay thủ công gây ônhiễm môi trường cao. • Hệ thống cống rãnh thoát nước bị lấp bởi chất thải rắn, gây ngập úng mỗi khi mưa xuống. • Tình trạng ô nhiễm của toàn bộ những làng nghề mới chỉ được khảo sát và đưa ra những con sốđáng báo động, nhưng chưa có giải pháp khắc phục đơn cử, hiệu suất cao từ những ban ngành chứcnăng. 3.3. Hậu quả. Ô nhiễm môi trường làng nghề chính là “ thủ phạm ” làm ngày càng tăng tỷ suất người mắc bệnhđang lao động và sinh sống tại chính làng nghề đó, và tỷ suất này đang có khuynh hướng tăng trongnhững năm gần đây. Trong đó, ô nhiễm môi trường tại những làng nghề tái chế phế liệu gây táchại nghiêm trọng nhất tới sức khỏe thể chất hội đồng, những bệnh phổ cập là bệnh hô hấp, bệnh ngoàida, thần kinh và đặc biệt quan trọng là ung thư. Số người lao động có sức khỏe thể chất yếu kém ( loại 4 hoặc 5 ) chiếm tỷ suất rất cao. 21 ( số người mắc bệnh đang ngày càng tăng nhanh tróng ). Theo nhìn nhận của những chuyên viên môi trường, ở hầu hết những làng nghề không chỉ sứckhoẻ của những người sản xuất, mà cả người dân xung quanh đang bị chất thải rắn và nướcthải xâm hại. Tác động không nhỏ sức khỏe thể chất người lao động, những bệnh nghề nghiệp như đườnghô hấp, đau mắt, suy nhược thần kinh, bệnh ngoài da, đường ruột ngày càng ngày càng tăng. Nướcngầm ở nhiều nơi bị ô nhiễm nặng về mặt sinh học và hóa học làm suy giảm chất lượng cuộcsống ở nông thôn. Một số làng nghề có đặc trưng sản xuất dẫn tới những bệnh mãn tính nguy hiểmnhư ung thư, quái thai, nhiễm độc sắt kẽm kim loại nặng. Thậm chí, nhiều dòng sông chảy qua những làngnghề cũng bị ô nhiễm nặng, nhiều ruộng lúa, cây xanh bị giảm hiệu suất do ô nhiễm khí từ cáclàng nghề. Mặt nước bị thu hẹp dần và ngày càng mất vệ sinh. Một số ít làng đã kiến thiết xây dựng được hệ thốngcống rãnh thoát nước trước đây thì nay do bị lấp bởi chất thải rắn, gây ngập úng mỗi khi mưaxuống. 223.4. Biện pháp và phương hướng khắc phụcTrước tiên về quy hoạch, cần chú trọng tới quy hoạch mặt phẳng chung và hạ tầng cơ sở, trong đó cần sắp xếp thỏa đáng diện tích quy hoạnh cho việc thu gom và giải quyết và xử lý chất thải, diện tích quy hoạnh cây xanh, góp vốn đầu tư xử lý mạng lưới hệ thống đường sá trong ngoài thôn xóm cũng như mạng lưới hệ thống cấp thoát nước. Về tổ chức triển khai quản trị sản xuất, cần quan tâm thiết kế xây dựng, tái tạo nhà xưởng, tổ chức triển khai khônggian thông thoáng tự nhiên tại nơi lao động, trang bị những dụng cụ an toàn lao động, thiết bị thugom bụi, hút khí tại những vị trí xả khí ô nhiễm, tránh ô nhiễm nhiệt do những lò nung, hầm sấy. Về công nghệ tiên tiến và thiết bị sản xuất, việc quan trọng cần xử lý kịp thời là thay thếcác thiết bị cũ kỹ, vận dụng công nghệ tiên tiến mới ít chất thải, hạn chế tiếng ồn và rung, sử dụng cáccông nghệ tương thích có năng lực giảm thiểu những chất ô nhiễm. ( Khói bụi tại một làng nghề ). Việc đề ra những giải pháp bảo vệ và cải tổ môi trường cho những làng nghề phải căn cứcụ thể vào những điều kiện kèm theo tự nhiên, kinh tế tài chính và xã hội của địa phương. Điều đó có nghĩa là phảiđa dạng hóa những giải pháp bảo vệ môi trường tại những làng nghề mà điều chính yếu là phải đạtđược giải pháp tận dụng những lợi thế và khắc phục được những hạn chế của từng làng nghề. Song23dù ở địa phương nào và so với nghề gì thì giải pháp thu gom và giải quyết và xử lý chất thải đều phải đặtlên số 1. Ngoài ra, Nhà nước cần có chủ trương quy đổi cơ cấu tổ chức sản xuất, khuyến khích pháttriển ngành nghề nông thôn theo quy hoạch, tập trung chuyên sâu những khu sản xuất, kế hoạch gắn với bảovệ môi trường, với bảo vệ, tôn tạo những di sản văn hóa truyền thống ở địa phương. Cạnh đó là hoàn thiệnhành lang pháp lý bảo vệ môi trường, đưa vấn đề môi trường vào những dự án Bất Động Sản, vào mạng lưới hệ thống giáodục Nhưng cấp thiết, có lẽ rằng là 3 vấn đề : • Một là cần có pháp lệnh về thuế môi trường. • Hai là tăng cường thanh tra, kiểm tra, giải quyết và xử lý đến đầu đến đũa những cơ sở gây ô nhiễm môitrường nghiêm trọng. ( Cơ quan chức năng đang kiểm tra một cơ sở sản xuất. • Ba là đa dạng hóa góp vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường. • Các ngành công dụng địa phương tương hỗ đổi khác công nghệ tiên tiến, quy hoạch khu sản xuấtvới mạng lưới hệ thống giải quyết và xử lý nước thải, rác thải … Hiện nay, chuyện bảo vệ môi trường có ý nghĩa quan trọng, không riêng gì là sức khỏe thể chất, làmôi trường sống của hội đồng mà nó còn có ý nghĩa sống còn với chính ngay những sản phẩm24của làng nghề. Muốn nâng cao tính “ đua chen ” của loại sản phẩm, dù là thị trường trong nước hay quốctế, vấn đề sản xuất sạch được người tiêu dùng đặc biệt quan trọng chăm sóc. III. Ý KIẾN.Chúng ta đang phải tận mắt chứng kiến sức tàn phá ghê gớm của ô nhiễm môi trường tới khôngchỉ cảnh sắc nông thôn Nước Ta mà còn so với sức khỏe thể chất của chính những người dân. Hãynhìn những làng quê đang bóc đi cái vẻ hồn hậu, chất phác vốn có để khoác lên mình tấm áokệch cỡm của một tên trọc phú. Hậu quả của nó : Ô nhiễm đổ lên những cánh đồng, nhữngdòng sông quê còn bệnh tật đang đổ lên đầu những người dân nông thôn. Còn họ, những ngườinông dân thì chỉ biết đứng nhìn. Tài nguyên đất ở những vùng nông thôn vẫn đang liên tục bị suy thoái và khủng hoảng trầm trọng, làmbiến đổi những đặc thù đất và không còn tính năng sản xuất. Các mô hình thoái hóa đất chủ đạoở nước ta là : Xói mòn, rửa trôi, sạt và trượt lở đất ; suy thoái và khủng hoảng vật lý ( mất cấu trúc, đất bị chặt, bí, 25

Source: https://vvc.vn
Category : Môi trường

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay