Tiểu luận Thực trạng ô nhiễm môi trường của Việt Nam hiện nay,nguyên nhân và – Tài liệu text

Tiểu luận Thực trạng ô nhiễm môi trường của Việt Nam hiện nay,nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.3 KB, 11 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA KỸ THUẬT-CÔNG NGHỆ
Đề tài:
THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI
TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY,
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
• Sinh viên thực hiện : NGUYỄN TRỌNG NHÂN
• Lớp : Điện-Điện Tử 8
• Mã số sinh viên : 13D520201031
• Giảng viên hướng dẫn: NGUYỄN CHÍ THẮNG
Cần Thơ,ngày 22 tháng 10 năm 2014
THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY,
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
I-Mở Đầu
Một vấn đề nóng bỏng, gây bức xúc trong dư luận xã hội cả nước hiện nay là
tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của
con người gây ra.
Vấn đề này ngày càng trầm trọng, đe doạ trực tiếp sự phát triển kinh tế – xã
hội bền vững, sự tồn tại, phát triển của các thế hệ hiện tại và tương lai. Giải quyết
vấn đề ô nhiễm môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay không chỉ là đòi hỏi cấp thiết đối với các cấp quản lí, các doanh nghiệp
mà đó còn là trách nhiệm của mỗi chúng ta và của toàn xã hội.
Trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, vì tập trung ưu tiên phát
triển kinh tế và cũng một phần do nhận thức hạn chế nên việc gắn phát triển kinh tế
với bảo vệ môi trường chưa chú trọng đúng mức. Tình trạng tách rời công tác bảo
vệ môi trường với sự phát triển kinh tế – xã hội diễn ra phổ biến ở nhiều ngành,
nhiều cấp, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường diễn ra phổ biến và ngày
càng nghiêm trọng. Đối tượng gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt động sản
xuất của nhà máy trong các khu công nghiệp, hoạt động làng nghề và sinh hoạt tại
các đô thị lớn. Ô nhiễm môi trường bao gồm 3 loại chính là: ô nhiễm nước và ô
nhiễm không khí, ô nhiễm đất.

II-Xác định đối tượng nghiên cứu, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi,tính cấp
thiết,cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài.
• Đối tượng : Môi trường Việt Nam hiện nay
• Mục đích : Làm rõ những thực trạng về vấn đề ô nhiễm môi trường ở Việt
Nam hiện nay,đồng thời phân tích các nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó và
từ đó đưa ra được giải pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm hiện nay ở nước
ta.
• Nhiệm vụ :
– Tìm kiếm và xử lý thông tin về vấn đề ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện
nay
– Đưa ra giải pháp khắc phục
• Phạm vi và tính cấp thiết :
– Phạm vi và thời gian : Môi trường ở Việt Nam ( Đất, Nước, Không Khí,
… ) từ đầu thế kỉ XXI trở lại đây.
– Tính cấp thiết : Ngày nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đã và đang tác
động nghiệm trọng đến đời sống của chúng ta. Trên các phương tiện
thông tin đại chúng,chúng ta có thế dễ dàng bắt gặp những hình
ảnh,những thông tin về vấn đề ô nhiễm môi trường. Vì vậy ô nhiễm môi
trường là một vấn đề cấp thiết cần được giải quyết nhanh chống.
• Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
– Thu thập tài liệu qua Internet, qua sách báo, quan các thông tin quan sát
được hằng ngày
– Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá, so sánh…
III-Thực trạng ô nhiễm môi trường của việt nam hiện nay
1.Ô nhiễm môi trường nước
Hiện Nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trọng
việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, những tình trạng ô
nhiễm nước là vấn đề rất đáng lo ngại. Tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn
ra khá nhanh và sự gia tang dân số gây áp lực ngày càng nặng nề đối với tài
nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công

nghiệp và làng nghề càng ngày bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn.
Tính đến năm 2012, cả nước có 289 khu công nghiệp, khu chế xuất, còn có
gần 900 cụm công nghiệp. Theo báo cáo giám sát của Uỷ ban khoa học, công nghệ
và môi trường của Quốc hội, tỉ lệ các khu công nghiệp có hệ thống xử lí nước thải
tập trung ở một số địa phương rất thấp, có nơi chỉ đạt 15 – 20%, như Bà Rịa – Vũng
Tàu, Vĩnh Phúc. Một số khu công nghiệp có xây dựng hệ thống xử lí nước thải tập
trung nhưng hầu như không vận hành vì để giảm chi phí. Bình quân mỗi ngày, các
khu, cụm, điểm công nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải rắn, lỏng, khí và
chất thải độc hại khác. Ví dụ nguồn nước thuộc lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai
hiện đang bị ô nhiễm nặng, lượng, chất rắn lơ lửng, ô nhiễm hữu cơ (đặc biệt là ô
nhiễm dầu và vi sinh) tăng cao tại hầu hết các rạch, cống và các điểm xả, hàm
lượng chì trong nước vượt tiêu chuẩn quy định nhiều lần, chất rắn lơ lửng vượt tiêu
chuẩn từ 3 – 9 lần… Ví dụ khác ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp
thải ra từ các cơ sở sản xuất gấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than;
về mùa cạn tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng
15% lưu lượng song Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,9-9 và hàm lượng
là 4mg/l, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu…
Tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở nước ta hiện nay không thể thiếu sự “đóng
góp tích cực” từ các đô thị, thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh. Ở các thành phố, nước thải sinh hoạt không có hệ thống xử lý tập trung
mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương,…). Mặt khác, có rất
nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải; phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế
lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng rác thải rắn lớn trong thành phố
không thu gom hết được…là những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nguồn nước.
Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn là rất
nặng. Thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 –
400.000 ; lượng rác thải sinh hoạt chưa được thu gom khoảng 1.200 đang xả vào
các khu đất ven hồ, kênh, mương trong nội thành. Thành phố Hồ Chí Minh thì
lượng rác thải lên tới gần 4000 tấn/ngày; 24/142 cơ sở y tế lớn là có hệ thống xử lý
nước thải. Không chỉ ở 2 thành phố lớn Hà Nội và Hồ Chí Minh mà ở các đô thị

khác như Hải Phòng, Nam Định, Huế, Đà Nẵng, Đồng Nai… nước thải sinh hoạt
cũng không được xử lý, độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt
quá tiêu chuẩn cho phép.
Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp,
hiện nay Việt Nam đa số dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ tầng
còn lạc hậu, phần lớn rác thải sinh hoạt và các chất thải của gia súc không được xử
lý, làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng
cao. Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, dẫn
đến các nguồn nước ở sông, mương, ao, hồ bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến lớn môi
trường sông của động vật và sức khỏe của con người. Ngoài ra, một số làng nghề
như sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt nhộm cho thấy có lượng nước thải
hàng ngàn mét khối trên ngày không qua xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và môi
trường trong khu vực. Đây là vấn đề rất khó giải quyết khi mà đây chỉ là những
làng nghề thủ công, rất là tốn kém và lãng phí nếu như đầu tư xây dựng hệ thống
xử lý nước thải ở những làng nghề như thế này.

2.Ô nhiễm môi trường không khí
Ô nhiễm môi trường không khí đang là một vấn đề bức xúc đối với môi
trường đô thị, công nghiệp và các làng nghề ở nước ta hiện nay. Ô nhiễm môi
trường không khí có tác động xấu đối với sức khỏe của con người, ảnh hưởng đến
hệ sinh thái và biến đổi khí hậu,… Công nghiệp hóa càng mạnh, đô thị hóa càng
phát triển thì nguồn khí thải gây ô nhiễm môi trường không khí ngày càng nhiều,
yêu cầu bảo vệ môi trường không khí càng quan trọng. Ta có thể chia việc ô nhiễm
không khí thành các loại:
Ô nhiễm bụi:
Ở hầu hết các đô thị nước ta đều bị ô nhiễm, nhiều nơi ô nhiễm bụi trầm
trọng, tới mức báo động. Ô nhiễm bụi chủ yếu là do các hoạt đông giao
thông và xây dựng gây ra.
Nồng độ bụi trung bình của các khu dân cư cạnh đường giao thông lớn và
các khu công nghiệp đều vượt trị số TCCP từ 1,5-3 lần, các trường hợp cá

biệt gần nhà máy nhiệt điện, nhà máy gạch đều vượt quá từ 5-8 lần. Còn lại
các khu dân cư xa đường giao thông lớn, các cơ sở sản xuất hay các khu
công nghiệp đều xấp xỉ tri số TCCP (trung bình 1 ngày là 0,2 ).
Ô nhiễm chì (Pb) và các loại khí độc hại:
Việc ô nhiễm chì chủ yếu là do các phương tiện giao thông chạy xăng pha
chì gây ra. Ô nhiễm chì trong không khí ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe
con người. Theo tiêu chuẩn chất lượng không khí ở Việt Nam, nồng độ chì
trong không khí không được vượt quá 0,005. Nồng độ khí ở một số khu
công nghiệp, các nút giao thông lớn thì vượt quá mức độ cho phép nhiều lần.
Lấy ví dụ, tại Hà Nội mỗi năm phải tiếp nhận khoảng 80.000 tấn khói bụi,
9.000 tấn khí, 46.000 tấn khí CO từ hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp,
đó là chưa kể khói của hơn 100 ngàn ôtô và hơn 1 triệu xe máy.
Bảng số liệu nồng độ bụi PM
10
ở nước ta qua các năm :
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010
µg/m³ 6029.76 6572.32 7055.24 7462.78 7145.75 7375.25
Biểu đồ cột thể hiện nồng độ bụi PM₁₀ ở nước ta từ năm 2005 đến 2010
Nhậnxét :Tình trạng ô nhiễm không khí ở nước ta đang hết sức nghiêm trọng,nồng độ
bụi chiếm mức cao trong không khí và đang có dấu hiệu tang nhanh qua từng năm.
Nhưng trong những năm gần đây nhờ có các chính sách,biện pháp của nhà nước nên
nồng độ bụi PM
10
ở nước ta đã giảm : Năm 2008 là 7462,78 µg/m
3
đến năm 2009 đã giảm
còn 7145,75 µg/m
3
….Xong vẫn đang nằm ở mức báo động.
3.Ô nhiễm môi trường đất

Đất là tài nguyên quý giá nhất, là tư liệu sản xuất đặc biệt, yếu tố quyết định
cấu thành các hệ sinh thái. Do nhiều nguyên nhận đất chia làm nhiều loại khác
nhau như sa mạc, núi rừng, đất nông nghiệp và đất đô thị. Tùy thuộc vào mức độ
đối xử của con người với đất mà có thê phất triển theo chiều hướng tốt cũng có thể
phát triển theo chiều hướng xấu đi. Nhưng hiện nay ở nước ta mức độ ô nhiễm môi
trường đất đang diễn ra hết sức nghiêm trọng mà chủ yếu do các nguyên nhân sau:
Ô nhiễm môi trường đất do nước bị ô nhiễm:
Đất và nước luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau nên việc môi trường
nước bị ô nhiễm cũng đã trực tiếp gây ra những hậu quả xấu cho môi trường
đất nước ta.

Ô nhiễm môi trường đất do chất thải rắn tạo ra:
Cùng với sự phát triển của công nghiệp, đời sống của nhân dân ngày càng
tăng lên và đô thị hóa nhanh chóng, lượng chất thải rắn cũng ngày càng tăng.
Theo thống kê của Cục Hạ tầng Kỹ thuật (Bộ Xây dựng), tổng lượng chất
thải rắn sinh hoạt phát sinh trên cả nước hiện (năm 2013) vào khoảng 61.500
tấn/ngày. Đáng lưu tâm nhất là hiện cả nước chỉ có khoảng 26,8% số bãi
chôn lấp chất thải rắn là đảm bảo vệ sinh, trong tổng gần 460 bãi chôn lấp
được giám sát. Các thành phần của chất thải rắn bao gồm: giấy carton, vải,
gỗ, rác hữu cơ, lá cây, thực phẩm, chất dẻo, cao su, nilon, kim loại, thủy
tinh, vật liệu xây dựng Lượng chất thải chưa được thu gom thì bị đổ trực
tiếp ra sông ngòi hoặc được chôn lấp sơ sài do nhiều người dân chưa có ý
thức bảo vê môi trường nên gây ra những hiểm họa tiềm tàng về môi trường
và cho sức khỏe của mọi người.

IV-Nguyên nhân
Tình trạng ô nhiễm môi trường nêu trên có nhiều nguyên nhân khác nhau,
song tập trung ở các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, nhiều người vô tư vứt rác bừa bãi (cả công khai lẫn lén lút) bất kể
địa điểm, thậm chí cả ở nơi có biển “cấm đổ rác”… Tệ hại hơn họ còn coi đó là

điều bình thường, không hề cảm thấy xấu hổ. Ý thức của nhiều người dân về bảo
vệ môi trường còn kém, chưa hiểu rõ hết tác hại của những hành động ấy tác động
đến môi trường xung quanh như thế nào. Công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ
môi trường trong xã hội còn hạn chế, dẫn đến chưa phát huy được ý thức tự giác,
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, cộng đồng trong việc tham gia gìn giữ và
bảo vệ môi trường.
Thứ hai, quyền hạn pháp lí của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực
lượng Cảnh sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã hạn chế hiệu quả hoạt
động nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường. Các cở sở pháp lí, chế tài xử phạt đối với các loại hành vi
gây ô nhiễm môi trường và các loại tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ
mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những hành
vi xâm hại môi trường. Rất ít trường hợp gây ô nhiễm môi trường bị xử lí hình sự;
còn các biện pháp xử lí khác như buộc phải di dời ra khỏi khu vực gây ô nhiễm,
đóng cửa và đình chỉnh hoạt động của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường cũng
không được áp dụng nhiều, hoặc có áp dụng nhưng các cơ quan chức năng thiếu
kiên quyết, doanh nghiệp trây ỳ nên cũng không có hiệu quả.
Thứ ba, các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức
đối với công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệm
trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môi
trường của các cơ quan chức năng đối với các cơ sở sản xuất dường như vẫn mang
tính hình thức, hiện tượng “phạt để tồn tại” còn phổ biến. Công tác thẩm định và
đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư còn tồn tại nhiều bất cập và
chưa được coi trọng đúng mức, thậm chí chỉ được tiến hành một cách hình thức,
qua loa đại khái cho đủ thủ tục, dẫn đến chất lượng thẩm định và phê duyệt không
cao.
Thứ tư, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách công
tác bảo vệ môi trường còn hạn chế; phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác kiểm tra
chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Do đó, trong nhiều trường hợp, đoàn
kiểm tra không thể phát hiện được những thủ đoạn tinh vi của doanh nghiệp thải

các chất gây ô nhiễm ra môi trường.
Thứ năm, những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ
môi trường và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng. Theo thống kê
của Bộ Tư pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường
để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế, các quy trình
kỹ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu trong sản xuất. Tuy nhiên, hệ thống các
văn bản này vẫn còn chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định
không cao, tình trạng văn bản mới được ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ
sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi của các cá
nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế trong việc bảo vệ môi trường.
V-Giải pháp
Bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay là yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với cả hệ thống chính trị, các cấp, các
ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và của mọi công dân. Để ngăn chặn, khắc phục
và xử lí có hiệu quả những hành vi gây ô nhiễm môi trường, cần thực hiện đồng bộ
một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn xã
hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật
bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn
giữ và bảo vệ môi trường; xây dựng ý thức sinh thái, làm cho mọi người nhận thức
một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên – con người –
xã hội.
Hai là, tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về
môi trường (thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường với lực lượng cảnh sát
môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời, triệt để những
hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân. Đồng thời, nâng cao
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi
trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt
động của các lực lượng này.

Ba là, chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công
nghiệp, các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán
kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình
trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo.
Bốn là, chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá
tác động môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn
tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc cấp hay
không cấp giấy phép đầu tư. Thực hiện công khai, minh bạch các quy hoạch, các
dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể tham gia phản
biện xã hội về tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó
những chế tài xử phạt (cưỡng chế hành chính và xử lí hình) phải thực sự đủ mạnh
để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ
thống quản lí môi trường trong các nhà máy, các khu công nghiệp theo các tiêu
chuẩn quốc tế, đồng thời tổ chức giám sát chặt chẽ nhằm hướng tới một môi
trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người.
II-Xác định đối tượng người tiêu dùng nghiên cứu và điều tra, mục tiêu, trách nhiệm, khoanh vùng phạm vi, tính cấpthiết, cơ sở phương pháp luận và giải pháp nghiên cứu và điều tra của đề tài. • Đối tượng : Môi trường Việt Nam lúc bấy giờ • Mục đích : Làm rõ những thực trạng về yếu tố ô nhiễm môi trường tự nhiên ở ViệtNam lúc bấy giờ, đồng thời nghiên cứu và phân tích những nguyên do dẫn đến thực trạng đó vàtừ đó đưa ra được giải pháp khắc phục thực trạng ô nhiễm lúc bấy giờ ở nướcta. • Nhiệm vụ : – Tìm kiếm và giải quyết và xử lý thông tin về yếu tố ô nhiễm thiên nhiên và môi trường ở nước ta hiệnnay – Đưa ra giải pháp khắc phục • Phạm vi và tính cấp thiết : – Phạm vi và thời hạn : Môi trường ở Việt Nam ( Đất, Nước, Không Khí, … ) từ đầu thế kỉ XXI trở lại đây. – Tính cấp thiết : Ngày nay, yếu tố ô nhiễm thiên nhiên và môi trường đã và đang tácđộng nghiệm trọng đến đời sống của tất cả chúng ta. Trên những phương tiệnthông tin đại chúng, tất cả chúng ta có thế thuận tiện phát hiện những hìnhảnh, những thông tin về yếu tố ô nhiễm môi trường tự nhiên. Vì vậy ô nhiễm môitrường là một yếu tố cấp thiết cần được xử lý nhanh chống. • Cơ sở phương pháp luận và chiêu thức nghiên cứu và điều tra : – Thu thập tài liệu qua Internet, qua sách báo, quan những thông tin quan sátđược hằng ngày – Sử dụng chiêu thức tổng hợp, nghiên cứu và phân tích, nhìn nhận, so sánh … III-Thực trạng ô nhiễm thiên nhiên và môi trường của việt nam hiện nay1. Ô nhiễm thiên nhiên và môi trường nướcHiện Nay ở Việt Nam, mặc dầu những cấp, những ngành đã có nhiều cố gắng nỗ lực trọngviệc thực thi chủ trương và pháp lý về bảo vệ môi trường tự nhiên, những thực trạng ônhiễm nước là yếu tố rất đáng lo lắng. Tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa diễnra khá nhanh và sự gia tang dân số gây áp lực đè nén ngày càng nặng nề so với tàinguyên nước trong vùng chủ quyền lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu côngnghiệp và làng nghề càng ngày bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. Tính đến năm 2012, cả nước có 289 khu công nghiệp, khu công nghiệp, còn cógần 900 cụm công nghiệp. Theo báo cáo giải trình giám sát của Ủy ban khoa học, công nghệvà môi trường tự nhiên của Quốc hội, tỉ lệ những khu công nghiệp có mạng lưới hệ thống xử lí nước thảitập trung ở một số ít địa phương rất thấp, có nơi chỉ đạt 15 – 20 %, như Bà Rịa – VũngTàu, Vĩnh Phúc. Một số khu công nghiệp có thiết kế xây dựng mạng lưới hệ thống xử lí nước thải tậptrung nhưng phần đông không quản lý và vận hành vì để giảm ngân sách. Bình quân mỗi ngày, cáckhu, cụm, điểm công nghiệp thải ra khoảng chừng 30.000 tấn chất thải rắn, lỏng, khí vàchất thải ô nhiễm khác. Ví dụ nguồn nước thuộc lưu vực sông Hồ Chí Minh – Đồng Naihiện đang bị ô nhiễm nặng, lượng, chất rắn lơ lửng, ô nhiễm hữu cơ ( đặc biệt quan trọng là ônhiễm dầu và vi sinh ) tăng cao tại hầu hết những rạch, cống và những điểm xả, hàmlượng chì trong nước vượt tiêu chuẩn lao lý nhiều lần, chất rắn lơ lửng vượt tiêuchuẩn từ 3 – 9 lần … Ví dụ khác ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệpthải ra từ những cơ sở sản xuất gấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than ; về mùa cạn tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng15 % lưu lượng tuy nhiên Cầu ; nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,9 – 9 và hàm lượnglà 4 mg / l, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi không dễ chịu … Tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở nước ta lúc bấy giờ không hề thiếu sự “ đónggóp tích cực ” từ những đô thị, thấy rõ nhất là ở thành phố TP. Hà Nội và thành phố HồChí Minh. Ở những thành phố, nước thải hoạt động và sinh hoạt không có mạng lưới hệ thống giải quyết và xử lý tập trungmà trực tiếp xả ra nguồn đảm nhiệm ( sông, hồ, kênh, mương, … ). Mặt khác, có rấtnhiều cơ sở sản xuất không giải quyết và xử lý nước thải ; phần đông những bệnh viện và cơ sở y tếlớn chưa có mạng lưới hệ thống giải quyết và xử lý nước thải ; một lượng rác thải rắn lớn trong thành phốkhông thu gom hết được … là những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nguồn nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong những kênh, sông, hồ ở những thành phố lớn là rấtnặng. Thành phố TP.HN, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 – 400.000 ; lượng rác thải hoạt động và sinh hoạt chưa được thu gom khoảng chừng 1.200 đang xả vàocác khu đất ven hồ, kênh, mương trong nội thành của thành phố. Thành phố Hồ Chí Minh thìlượng rác thải lên tới gần 4000 tấn / ngày ; 24/142 cơ sở y tế lớn là có mạng lưới hệ thống xử lýnước thải. Không chỉ ở 2 thành phố lớn TP.HN và Hồ Chí Minh mà ở những đô thịkhác như TP. Hải Phòng, Tỉnh Nam Định, Huế, TP. Đà Nẵng, Đồng Nai … nước thải sinh hoạtcũng không được giải quyết và xử lý, độ ô nhiễm nguồn nước nơi đảm nhiệm nước thải đều vượtquá tiêu chuẩn được cho phép. Về thực trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp, lúc bấy giờ Việt Nam đa phần dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ tầngcòn lỗi thời, phần nhiều rác thải hoạt động và sinh hoạt và những chất thải của gia súc không được xửlý, làm cho thực trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càngcao. Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng những loại thuốc bảo vệ thực vật, dẫnđến những nguồn nước ở sông, mương, ao, hồ bị ô nhiễm, ảnh hưởng tác động đến lớn môitrường sông của động vật hoang dã và sức khỏe thể chất của con người. Ngoài ra, một số ít làng nghềnhư sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt nhộm cho thấy có lượng nước thảihàng ngàn mét khối trên ngày không qua giải quyết và xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và môitrường trong khu vực. Đây là yếu tố rất khó xử lý khi mà đây chỉ là nhữnglàng nghề bằng tay thủ công, rất là tốn kém và tiêu tốn lãng phí nếu như góp vốn đầu tư kiến thiết xây dựng hệ thốngxử lý nước thải ở những làng nghề như thế này. 2. Ô nhiễm môi trường tự nhiên không khíÔ nhiễm môi trường tự nhiên không khí đang là một yếu tố bức xúc so với môitrường đô thị, công nghiệp và những làng nghề ở nước ta lúc bấy giờ. Ô nhiễm môitrường không khí có tác động ảnh hưởng xấu so với sức khỏe thể chất của con người, ảnh hưởng tác động đếnhệ sinh thái xanh và biến hóa khí hậu, … Công nghiệp hóa càng mạnh, đô thị hóa càngphát triển thì nguồn khí thải gây ô nhiễm môi trường tự nhiên không khí ngày càng nhiều, nhu yếu bảo vệ môi trường tự nhiên không khí càng quan trọng. Ta hoàn toàn có thể chia việc ô nhiễmkhông khí thành những loại :  Ô nhiễm bụi : Ở hầu hết những đô thị nước ta đều bị ô nhiễm, nhiều nơi ô nhiễm bụi trầmtrọng, tới mức báo động. Ô nhiễm bụi hầu hết là do những hoạt đông giaothông và thiết kế xây dựng gây ra. Nồng độ bụi trung bình của những khu dân cư cạnh đường giao thông vận tải lớn vàcác khu công nghiệp đều vượt trị số TCCP từ 1,5 – 3 lần, những trường hợp cábiệt gần xí nghiệp sản xuất nhiệt điện, nhà máy sản xuất gạch đều vượt quá từ 5-8 lần. Còn lạicác khu dân cư xa đường giao thông vận tải lớn, những cơ sở sản xuất hay những khucông nghiệp đều xê dịch tri số TCCP ( trung bình 1 ngày là 0,2 ).  Ô nhiễm chì ( Pb ) và những loại khí ô nhiễm : Việc ô nhiễm chì hầu hết là do những phương tiện đi lại giao thông vận tải chạy xăng phachì gây ra. Ô nhiễm chì trong không khí tác động ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏecon người. Theo tiêu chuẩn chất lượng không khí ở Việt Nam, nồng độ chìtrong không khí không được vượt quá 0,005. Nồng độ khí ở một số ít khucông nghiệp, những nút giao thông vận tải lớn thì vượt quá mức độ được cho phép nhiều lần. Lấy ví dụ, tại Thành Phố Hà Nội mỗi năm phải đảm nhiệm khoảng chừng 80.000 tấn khói bụi, 9.000 tấn khí, 46.000 tấn khí CO từ hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp, đó là chưa kể khói của hơn 100 ngàn ôtô và hơn 1 triệu xe máy. Bảng số liệu nồng độ bụi PM10ở nước ta qua những năm : Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 µg / m³ 6029.76 6572.32 7055.24 7462.78 7145.75 7375.25 Biểu đồ cột biểu lộ nồng độ bụi PM₁₀ ở nước ta từ năm 2005 đến 2010N hậnxét : Tình trạng ô nhiễm không khí ở nước ta đang rất là nghiêm trọng, nồng độbụi chiếm mức cao trong không khí và đang có tín hiệu tang nhanh qua từng năm. Nhưng trong những năm gần đây nhờ có những chủ trương, giải pháp của nhà nước nênnồng độ bụi PM10ở nước ta đã giảm : Năm 2008 là 7462,78 µg / mđến năm 2009 đã giảmcòn 7145,75 µg / m …. Xong vẫn đang nằm ở mức báo động. 3. Ô nhiễm thiên nhiên và môi trường đấtĐất là tài nguyên quý giá nhất, là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng, yếu tố quyết địnhcấu thành những hệ sinh thái. Do nhiều nguyên nhận đất chia làm nhiều loại khácnhau như sa mạc, núi rừng, đất nông nghiệp và đất đô thị. Tùy thuộc vào mức độđối xử của con người với đất mà có thê phất triển theo khunh hướng tốt cũng có thểphát triển theo khunh hướng xấu đi. Nhưng lúc bấy giờ ở nước ta mức độ ô nhiễm môitrường đất đang diễn ra rất là nghiêm trọng mà đa phần do những nguyên do sau :  Ô nhiễm thiên nhiên và môi trường đất do nước bị ô nhiễm : Đất và nước luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau nên việc môi trườngnước bị ô nhiễm cũng đã trực tiếp gây ra những hậu quả xấu cho môi trườngđất nước ta.  Ô nhiễm môi trường tự nhiên đất do chất thải rắn tạo ra : Cùng với sự tăng trưởng của công nghiệp, đời sống của nhân dân ngày càngtăng lên và đô thị hóa nhanh gọn, lượng chất thải rắn cũng ngày càng tăng. Theo thống kê của Cục Hạ tầng Kỹ thuật ( Bộ Xây dựng ), tổng lượng chấtthải rắn hoạt động và sinh hoạt phát sinh trên cả nước hiện ( năm 2013 ) vào khoảng chừng 61.500 tấn / ngày. Đáng lưu tâm nhất là hiện cả nước chỉ có khoảng chừng 26,8 % số bãichôn lấp chất thải rắn là bảo vệ vệ sinh, trong tổng gần 460 bãi chôn lấpđược giám sát. Các thành phần của chất thải rắn gồm có : giấy carton, vải, gỗ, rác hữu cơ, lá cây, thực phẩm, chất dẻo, cao su đặc, nilon, sắt kẽm kim loại, thủytinh, vật tư thiết kế xây dựng Lượng chất thải chưa được thu gom thì bị đổ trựctiếp ra sông ngòi hoặc được chôn lấp sơ sài do nhiều người dân chưa có ýthức bảo vê môi trường tự nhiên nên gây ra những tai hại tiềm tàng về môi trườngvà cho sức khỏe thể chất của mọi người. IV-Nguyên nhânTình trạng ô nhiễm môi trường tự nhiên nêu trên có nhiều nguyên do khác nhau, tuy nhiên tập trung chuyên sâu ở những nguyên do hầu hết sau đây : Thứ nhất, nhiều người vô tư vứt rác bừa bãi ( cả công khai minh bạch lẫn lén lút ) bất kểđịa điểm, thậm chí còn cả ở nơi có biển “ cấm đổ rác ” … Tệ hại hơn họ còn coi đó làđiều thông thường, không hề cảm thấy xấu hổ. Ý thức của nhiều người dân về bảovệ thiên nhiên và môi trường còn kém, chưa hiểu rõ hết mối đe dọa của những hành vi ấy tác độngđến thiên nhiên và môi trường xung quanh như thế nào. Công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệmôi trường trong xã hội còn hạn chế, dẫn đến chưa phát huy được ý thức tự giác, nghĩa vụ và trách nhiệm của những tổ chức triển khai, cá thể, hội đồng trong việc tham gia gìn giữ vàbảo vệ môi trường tự nhiên. Thứ hai, quyền hạn pháp lí của những tổ chức triển khai bảo vệ thiên nhiên và môi trường, nhất là của lựclượng Cảnh sát thiên nhiên và môi trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã hạn chế hiệu suất cao hoạtđộng nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn ngừa những hành vi vi phạm pháp luậtvề bảo vệ thiên nhiên và môi trường. Các cở sở pháp lí, chế tài xử phạt so với những loại hành vigây ô nhiễm môi trường tự nhiên và những loại tội phạm về môi trường tự nhiên vừa thiếu, vừa chưa đủmạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe so với những hànhvi xâm hại môi trường tự nhiên. Rất ít trường hợp gây ô nhiễm thiên nhiên và môi trường bị xử lí hình sự ; còn những giải pháp xử lí khác như buộc phải sơ tán ra khỏi khu vực gây ô nhiễm, ngừng hoạt động và đình chỉnh hoạt động giải trí của những cơ sở gây ô nhiễm môi trường tự nhiên cũngkhông được vận dụng nhiều, hoặc có vận dụng nhưng những cơ quan chức năng thiếukiên quyết, doanh nghiệp trây ỳ nên cũng không có hiệu suất cao. Thứ ba, những cấp chính quyền sở tại chưa nhận thức vừa đủ và chăm sóc đúng mứcđối với công tác làm việc bảo vệ môi trường tự nhiên, dẫn đến buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệmtrong việc kiểm tra, giám sát về thiên nhiên và môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môitrường của những cơ quan chức năng so với những cơ sở sản xuất có vẻ như vẫn mangtính hình thức, hiện tượng kỳ lạ “ phạt để sống sót ” còn phổ cập. Công tác đánh giá và thẩm định vàđánh giá ảnh hưởng tác động thiên nhiên và môi trường so với những dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư còn sống sót nhiều chưa ổn vàchưa được coi trọng đúng mức, thậm chí còn chỉ được triển khai một cách hình thức, qua loa đại khái cho đủ thủ tục, dẫn đến chất lượng thẩm định và đánh giá và phê duyệt khôngcao. Thứ tư, trình độ trình độ, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách côngtác bảo vệ thiên nhiên và môi trường còn hạn chế ; phương tiện kỹ thuật ship hàng công tác làm việc kiểm trachưa phân phối được yên cầu của thực tiễn. Do đó, trong nhiều trường hợp, đoànkiểm tra không hề phát hiện được những thủ đoạn phức tạp của doanh nghiệp thảicác chất gây ô nhiễm ra môi trường tự nhiên. Thứ năm, những hạn chế, chưa ổn của chính sách, chủ trương, pháp lý về bảo vệmôi trường và việc tổ chức triển khai triển khai của những cơ quan chức năng. Theo thống kêcủa Bộ Tư pháp, lúc bấy giờ có khoảng chừng 300 văn bản pháp lý về bảo vệ môi trườngđể kiểm soát và điều chỉnh hành vi của những cá thể, tổ chức triển khai, những hoạt động giải trí kinh tế tài chính, những quy trìnhkỹ thuật, tiến trình sử dụng nguyên vật liệu trong sản xuất. Tuy nhiên, mạng lưới hệ thống cácvăn bản này vẫn còn chưa triển khai xong, thiếu đồng điệu, thiếu chi tiết cụ thể, tính ổn địnhkhông cao, thực trạng văn bản mới được phát hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổsung là khá thông dụng, từ đó làm hạn chế hiệu suất cao kiểm soát và điều chỉnh hành vi của những cánhân, tổ chức triển khai, những hoạt động giải trí kinh tế tài chính trong việc bảo vệ thiên nhiên và môi trường. V-Giải phápBảo vệ môi trường sinh thái trong quy trình công nghiệp hóa, văn minh hóahiện nay là nhu yếu cấp thiết đặt ra so với cả mạng lưới hệ thống chính trị, những cấp, cácngành, những tổ chức triển khai, doanh nghiệp và của mọi công dân. Để ngăn ngừa, khắc phụcvà xử lí có hiệu suất cao những hành vi gây ô nhiễm môi trường tự nhiên, cần thực thi đồng bộmột số giải pháp đa phần sau đây : Một là, tăng nhanh công tác làm việc tuyên truyền, giáo dục về môi trường tự nhiên trong toàn xãhội nhằm mục đích tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luậtbảo vệ thiên nhiên và môi trường, nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội của dân cư, doanh nghiệp trong việc gìngiữ và bảo vệ thiên nhiên và môi trường ; kiến thiết xây dựng ý thức sinh thái xanh, làm cho mọi người nhận thứcmột cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên – con người – xã hội. Hai là, tăng cường công tác làm việc nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát vềmôi trường ( liên tục, định kỳ, đột xuất ) ; phối hợp ngặt nghèo giữa những cơ quanchuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường tự nhiên với lực lượng cảnh sátmôi trường những cấp, nhằm mục đích phát hiện, ngăn ngừa và xử lí kịp thời, triệt để nhữnghành vi gây ô nhiễm thiên nhiên và môi trường của những tổ chức triển khai, cá thể. Đồng thời, nâng caonăng lực trình độ, nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác làm việc môitrường ; trang bị những phương tiện kỹ thuật tân tiến để Giao hàng có hiệu suất cao hoạtđộng của những lực lượng này. Ba là, chú trọng công tác làm việc quy hoạch tăng trưởng những khu, cụm, điểm côngnghiệp, những làng nghề, những đô thị, bảo vệ tính khoa học cao, trên cơ sở tính toánkỹ lưỡng, tổng lực những xu thế tăng trưởng, từ đó có chủ trương tương thích ; tránh tìnhtrạng quy hoạch tràn ngập, thiếu đồng nhất, chồng chéo. Bốn là, chú trọng và tổ chức triển khai triển khai tráng lệ việc đánh giá và thẩm định, đánh giátác động môi trường tự nhiên so với những dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môntham mưu đúng mực cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định hành động việc cấp haykhông cấp giấy phép góp vốn đầu tư. Thực hiện công khai minh bạch, minh bạch những quy hoạch, cácdự án góp vốn đầu tư và tạo điều kiện kèm theo để mọi tổ chức triển khai và công dân hoàn toàn có thể tham gia phảnbiện xã hội về tác động ảnh hưởng môi trường tự nhiên của những quy hoạch và dự án Bất Động Sản đó. Năm là, liên tục hoàn thành xong mạng lưới hệ thống pháp lý về bảo vệ thiên nhiên và môi trường, trong đónhững chế tài xử phạt ( cưỡng chế hành chính và xử lí hình ) phải thực sự đủ mạnhđể đủ sức răn đe những đối tượng người dùng vi phạm. Bên cạnh đó, cần thiết kế xây dựng đồng nhất hệthống quản lí thiên nhiên và môi trường trong những xí nghiệp sản xuất, những khu công nghiệp theo những tiêuchuẩn quốc tế, đồng thời tổ chức triển khai giám sát ngặt nghèo nhằm mục đích hướng tới một môitrường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người .

Source: https://vvc.vn
Category : Môi trường

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay