Hóa giải ô nhiễm môi trường từ chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam
Gia tăng chất thải rắn sinh hoạt gây áp lực lớn đến môi trường
Theo thống kê của Vụ Năng lượng tái tạo ( Tổng cục Năng lượng – Bộ Công Thương ), với dân số hơn 93 triệu người, hằng năm, lượng rác được thải ra tại Việt Nam là rất lớn. Trung bình có gần 35.000 tấn chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt đô thị và 34.000 tấn chất thải hoạt động và sinh hoạt nông thôn thải ra mỗi ngày. Riêng tại TP.HN và TP. Hồ Chí Minh, mỗi ngày có từ 7.000 – 8.000 tấn rác thải. Chưa kể lượng rác thải nông nghiệp từ cây cối, chế biến nông – lâm – thủy hải sản … đều là tài nguyên .
Trên thực tế, mặc dù nguồn thải lớn nhưng khoảng 85% lượng rác thải hiện nay tại Việt Nam được xử lý chủ yếu bằng công nghệ chôn lấp; vừa lãng phí, đòi hỏi nhiều quỹ đất, vừa gây ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường đất, nước, không khí, nhất là tại các thành phố lớn.
Chia sẻ về về yếu tố này, ông Nguyễn Thượng Hiền – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường ( Bộ Tài nguyên và Môi trường ) cho biết, tại Việt Nam có khoảng chừng 1.000 bãi chôn lấp chất thải hoạt động và sinh hoạt, trong đó chưa đến 20 % bãi chôn lấp là hợp vệ sinh. Tình trạng ô nhiễm môi trường tự nhiên từ hàng trăm bãi chôn lấp này là hiện hữu .
Đáng quan tâm, phần nhiều những bãi chôn lấp đảm nhiệm chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt chưa được phân loại tại nguồn, có thành phần hữu cơ cao nên tính không thay đổi thấp, chiếm nhiều diện tích quy hoạnh đất, phát sinh lượng lớn nước rỉ rác. Nghiêm trọng hơn, nhiều bãi chôn lấp không hợp vệ sinh đã và đang là nguồn gây ô nhiễm thiên nhiên và môi trường, tác động ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất của hội đồng dân cư xung quanh .
Trong nhiều năm qua, các thành phố lớn đã rất quan tâm đến hoạt động thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, tuy nhiên công tác này vẫn còn nhiều bất cập.
Trong nhiều năm qua, những thành phố lớn đã rất chăm sóc đến hoạt động giải trí thu gom, giải quyết và xử lý chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt, tuy nhiên công tác làm việc này vẫn còn nhiều chưa ổn. Hiện nay, Việt Nam hầu hết vận dụng công nghệ tiên tiến giải quyết và xử lý rác khá sơ đẳng. Phần lớn, lượng rác thải được giải quyết và xử lý bằng cách chôn lấp hoặc đốt .
Trên thực tiễn, tuy một số ít địa phương đã góp vốn đầu tư nhà máy sản xuất phân loại rác để lấy nguyên vật liệu tái chế, sản xuất phân vi sinh và đốt rác làm điện nhưng chưa nhiều, hiệu suất còn thấp. Bên cạnh việc rác thải không được tổ chức triển khai phân loại từ đầu nguồn gây khó khăn vất vả, thì việc thiếu nhà máy sản xuất giải quyết và xử lý văn minh, công nghệ cao, hiệu suất cao cũng là nguyên do dẫn đến thực trạng giải quyết và xử lý rác theo cách chôn lấp phổ cập lúc bấy giờ. Cả nước hiện có 381 lò đốt rác, 37 dây chuyền sản xuất chế biến compost ( phân trộn ) .
Ngoài ra, tại một số ít thành phố lớn đã vận dụng chiêu thức giải quyết và xử lý rác thải rắn hoạt động và sinh hoạt bằng công nghệ tiên tiến đốt điện. Tuy nhiên, đến nay, chưa một công nghệ tiên tiến nào được công nhận đạt hiệu suất cao thực sự, thậm chí còn còn làm phát sinh thêm ô nhiễm .
Nguyên nhân đa phần dẫn tới chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt trong những năm qua ngày càng tăng nhanh là do nhận thức và ý thức của người dân chưa cao. Mặc dù người dân ngày càng nhận thức rõ về ô nhiễm thiên nhiên và môi trường xung quanh mình, nhưng họ lại chưa nhận thức / chưa hiểu được chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt mang giá trị tài nguyên nếu có sự phân loại và kinh tế tài chính
Một nguyên nhân khác là do chưa có mô hình thu gom và phân loại chất thải rắn sinh hoạt hợp lý. Điều này được thể hiện qua việc tồn tại các cá nhân thu gom từng loại chất thải rắn sinh hoạt theo chủ định (người dân nhặt ve chai, nhặt rác trên các bãi rác). Trong khi ở các khu dân cư không có không gian và số lượng thùng để chứa từng loại chất thải rắn sinh hoạt, thường trong các khu dân cư chỉ có 2 thùng chứa rác ghi là chất hữu cơ và chất vô cơ, nhưng không có nơi để phân loại chi tiết để có thể tái sử dụng hay tái chế.
Ngoài những nguyên do trên còn do chưa có thị trường tiêu thụ đầu ra của loại sản phẩm phân loại ; Chưa có chủ trương và chính sách tương thích cho việc thu gom và giải quyết và xử lý chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt …
Đồng bộ giải pháp biến rác thải rắn sinh hoạt thành tài nguyên
Để chung tay xây đắp môi trường tự nhiên xanh cần có những giải pháp đồng điệu để biến rác thải thành tài nguyên. Cụ thể như sau :
Hiện nay, Việt Nam chủ yếu áp dụng công nghệ xử lý rác khá sơ đẳng. Phần lớn, lượng rác thải được xử lý bằng cách chôn lấp hoặc đốt.
Một là, tăng cường tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho người dân về phân loại rác thải rắn hoạt động và sinh hoạt để họ phân loại rác tại nguồn ngay từ đầu, từ đó giúp cải tổ kiến thức và kỹ năng thiên nhiên và môi trường cho người dân .
Hai là, xây dựng văn hóa môi trường tập trung nhiều hơn đến lực lượng doanh nhân, doanh nghiệp và hộ gia đình. Xây dựng văn hóa môi trường là một quá trình lâu dài và đòi hỏi sự quyết tâm và thực hành kỷ luật cao của cả hệ thống chính trị.
Ba là, liên tục hoàn thành xong thể chế, chủ trương thiên nhiên và môi trường pháp luật rõ, đơn cử về việc phân loại rác thải rắn và chế tài xử phạt so với việc không tuân thủ phân loại rác. Đồng thời, có chủ trương tạo động lực để lôi cuốn những bên tham gia giải quyết và xử lý rác thải rắn hoạt động và sinh hoạt, đặc biệt quan trọng là doanh nghiệp vào giải quyết và xử lý chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt. Nhanh chóng kiến thiết xây dựng và triển khai xong thị trường mua và bán rác thải để giúp nâng cao chuỗi giá trị chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt một cách vững chắc .
Bốn là, tăng cường góp vốn đầu tư vào khoa học công nghệ tiên tiến trong việc giải quyết và xử lý chất thải rắn hoạt động và sinh hoạt bảo vệ bảo đảm an toàn, hiệu suất cao cho môi trường tự nhiên .
Năm là, có những giải pháp giáo dục thực thi kỷ luật cam kết thiên nhiên và môi trường. Giải pháp của mọi giải pháp là thực thi kỷ luật, thực thi cam kết thiên nhiên và môi trường. Đáng quan tâm, việc triển khai cam kết và thực hành thực tế kỷ luật trong một thời hạn nhất định sẽ tạo điều kiện kèm theo cho văn hóa truyền thống thiên nhiên và môi trường được hình thành và có kết quat như mong ước …