Mối tương quan tương duyên cộng tồn vô cùng mật thiết chẳng những giữa con người với con người, mà với các loài khác và với môi trường sinh thái là điều rất quan trọng. Nhận thức được như vậy, việc bảo vệ môi trường sinh thái trên trái đất đã trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng và bức xúc nhất của loài người hiện nay. Thật vậy, mối đe dọa đến hệ sinh thái đã được thế giới báo động đỏ, vì sự tác hại càng ngày càng gia tăng của các chất độc hại đến sức khỏe và mạng sống của con người, đến mọi sinh vật, cùng đất đai, không khí, sông biển, cây cối, cho đến tuổi thọ của trái đất cũng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Và chính con người là tác nhân gây ra tình trạng tệ hại này. Vì vậy, nhiều tổ chức thế giới đã và đang cùng nhau đề ra nhiều biện pháp để ngăn ngừa hoặc hạn chế sự ô nhiễm môi sinh, điển hình như Ngày Môi trường Thế giới, hoặc 10 Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường.
Việc bảo vệ sự sống và môi trường sinh thái mới được quốc tế báo động trong những thập niên gần đây. Nhưng so với tuệ giác của Đức Phật, đó là một điều luật cơ bản mà Ngài đã pháp luật từ 25 thế kỷ trước cho hàng đệ tử phải tuân theo. Đức Phật dạy những người phát tâm đi trên lộ trình giải thoát giác ngộ với Ngài, phải thực thi tâm từ bi, theo đó chẳng những không được sát hại, mà phải tôn trọng sự sống của loài người, loài vật, cho đến cỏ cây hoa lá và hơn thế nữa l phải bảo vệ toàn bộ muôn loài.
Với trí tuệ của bậc Toàn giác, Đức Phật nhận chân được sự đồng nhất, không sai biệt trên dạng thể tánh của muôn loài trong vũ trụ và trên mặt hiện tượng giới, sự sống của muôn vật đều cộng tồn, cộng hưởng một cách mật thiết, không thể tách rời. Đức Phật dạy sự tương quan tương duyên chằng chịt giữa muôn sự, muôn vật trên hành tinh này như sau: “Cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt”. Nhận thức được cốt tủy này, thì dễ dàng hiểu rằng nếu ta gây tổn hại đến người khác, đến các loài khác, đến môi sinh là làm hại chính mình.
Ngoài ra, chúng ta còn thấy một số lời dạy của Đức Phật trong các kinh điển Nguyên thủy có liên quan đến việc bảo vệ môi trường, như trong kinh Anguttara Sutra, Ngài dạy rằng: “Trồng cây cho ta bóng mát, ngoài việc thanh lọc không khí, nó còn bảo tồn trái đất, đó là điều lợi lạc cho tất cả mọi người và cho cả bản thân ta”. Hoặc kinh Vinaya-matrka-sastra dạy rằng: “Một Tỳ kheo trồng ba loại cây: cây ăn trái, cây cho hoa và cây cho lá để cúng dường Tam bảo thì sẽ ân hưởng sự gia trì và sẽ không phạm tội”, hoặc: “Có năm loại cây mà một người không được chặt, đó là cây bồ đề, cây thuốc, những cây lớn mọc bên đường, cây trong rừng xứ lạnh và cây đa”. Đức Phật cũng khuyên mọi người không nên lãng phí, mà phải biết trân quý tài nguyên.
Ngày nay, con người tự cho rằng mình đã đạt đến đỉnh cao của văn minh, nghĩa là đã phát triển trí khôn cao độ; nhưng con người lại sử dụng trí khôn một cách sai lầm và vị kỷ để hủy hoại sự sống của các loài khác, tàn phá núi rừng sông biển, khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi và cuối cùng dẫn đến hậu quả tồi tệ là tàn phá môi trường sống của chính mình.
Có thể khẳng định rằng, tất cả mọi việc làm tác hại đến môi trường sinh thái và hủy hoại trái đất này đều phát xuất từ tâm tham lam, tâm trục lợi, tâm ích kỷ, tâm si mê của con người. Thực tế cho thấy những người, hay những phe nhóm vì lòng tham vô bờ bến, nên họ thường tóm thu về cho cá nhân hay cho phe nhóm, khiến họ trở thành mù quáng và rất tàn ác, mất cả nhân tính. Họ sẵn sàng sát hại, gây chiến tranh, làm cho nghèo đói, bệnh tật lan tràn, tiêu hủy mạng sống của con người, của các loài và môi sinh cũng từ đó ngày càng hư hoại thêm. Hoặc để thu được món lợi khổng lồ, song song với việc khai thác tài nguyên bừa bãi, họ còn xả chất độc hại vào lòng đất, vào sông ngòi, vào không khí, làm ô nhiễm môi sinh, tác hại đến sức khỏe và gây bệnh tật cho nhiều người.
Hàng đệ tử Phật thể nghiệm giáo pháp Phật dạy, không tham lam, không làm những việc mối đe dọa đến muôn loài, qua cách sống thiểu dục tri túc. Đó là cách sống hiểu biết và hùng vĩ, hạn chế tâm vị kỷ, không vì làm lợi cho riêng mình mà gây tổn hại đến người khác, đến những sinh vật khác, sống hòa giải với vạn vật thiên nhiên, không hủy hoại môi sinh, không khai thác tài nguyên vạn vật thiên nhiên một cách bừa bãi, chỉ khai thác những gì thiết yếu và khai thác có mức độ, để thế hệ sau đó hoàn toàn có thể liên tục được hưởng của cải vạn vật thiên nhiên, chứ không để con trẻ mình phải hứng chịu những tai ương kinh khủng gọi là “ Thiên nhiên nổi giận ” như trận sóng thần ví dụ điển hình. Thể hiện tinh thần Phật dạy về nếp sống hòa giải với vạn vật thiên nhiên, những ngôi chùa ở 1 số ít vương quốc cũng như ở quốc gia ta thường được thiết kế xây dựng trên đồi núi, hay trong khu rừng. Đặc biệt hơn nữa, lúc bấy giờ nạn phá rừng tràn ngập gây ra nhiều tai hại ở nhiều lãnh vực mà quốc tế đang cảnh báo nhắc nhở. Trong khi đó, nhà chùa đang ra sức gìn giữ, bảo lãnh rừng và trồng rừng một cách tích cực và đạt được nhiều hiệu quả rất tốt. Những ngôi chùa với khu rừng thiền cây cối xanh tươi, ao hồ sạch sẽ và đẹp mắt, tỏa không khí trong lành và nếp sống an bình đã là thắng tích mà khách thập phương thường tìm đến để hưởng được sự thanh thản cho tâm hồn và sự khỏe mạnh cho thân thể. Có thể nói những đồi núi, rừng thiền của chùa chiền chính là lá phổi trong sáng của toàn cầu tất cả chúng ta, một trong những yếu tố vô cùng thiết yếu cho việc bảo vệ môi trường sinh thái trong thời đại quá nhiều nhiễm ô lúc bấy giờ. Tóm lại, hoàn toàn có thể thấy rõ Đức Phật là một nhà tiên phong trong lãnh vực bảo vệ môi trường sinh thái của toàn cầu này. Sống theo Phật là sống tỉnh giác và sống yêu thương muôn loài, cho nên vì thế hiểu rõ những gì nên làm và làm những gì quyền lợi cho nhiều người mà không gây tổn hại đến người khác, đến môi trường sống của muôn loài. Thế giới sống tốt đẹp hoàn hảo nhất như vậy được gọi là Tịnh độ mà toàn bộ đệ tử Phật đời đời kiếp kiếp tinh tấn thiết kế xây dựng và bảo lãnh cho chính mình an trú và cho mọi người, mọi loài cùng cộng tồn, cùng thăng hoa trong đời sống niềm hạnh phúc, an nhàn, hòa hợp, độc lập và tăng trưởng.