Trương Quốc Vinh – Wikipedia tiếng Việt

Trương Quốc Vinh (12 tháng 9 năm 1956 – 1 tháng 4 năm 2003), tên khai sinh là Trương Phát Tông, là một nam ca sĩ kiêm diễn viên người Canada gốc Hồng Kông.[2] Qua 26 năm sự nghiệp, bắt đầu từ năm 1977 cho đến khi qua đời, Trương Quốc Vinh đã phát hành khoảng 40 album và tham gia diễn xuất trong khoảng 60 bộ phim.[3][4] Anh là ca sĩ tiên phong, định hình bản sắc cho dòng nhạc Cantopop trong suốt thập niên 1980.[5] Trương Quốc Vinh còn là một biểu tượng của nền điện ảnh Hoa ngữ. Nhiều bộ phim mà anh tham gia diễn xuất như Xuân quang xạ tiết (1997), Bá vương biệt Cơ (1993), A Phi chính truyện (1990), đã trở thành những tác phẩm kinh điển. Anh là một trong số ít ngôi sao châu Á công khai đóng các vai diễn đồng tính nam, tích cực tham gia các hoạt động giành quyền lợi cho cộng đồng LGBT.[6][7]

Trương Quốc Vinh sinh năm 1956 tại Cửu Long, Hồng Kông, sớm sang Anh du học từ năm 12 tuổi. Anh trở về Hồng Kông rồi bước chân vào làng giải trí vào năm 1977, sau khi giành giải nhì một cuộc thi âm nhạc. Sự nghiệp âm nhạc của Trương Quốc Vinh thuở ban đầu không mấy thuận lợi và chỉ bắt đầu khởi sắc khi anh phát hành album Gió tiếp tục thổi vào năm 1982. Năm 1984, anh cho ra mắt ca khúc “Monica”, một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất lịch sử âm nhạc đại chúng Hồng Kông. Năm 1987, album Summer Romance của Trương Quốc Vinh trở thành album bán chạy nhất năm ở Hồng Kông với hơn 700 nghìn bản tiêu thụ. Ở lĩnh vực điện ảnh, Trương Quốc Vinh ghi những dấu ấn đầu tiên với các vai diễn trong Liệt hỏa thanh xuân (1982) và Anh hùng bản sắc (1986).

Sau khi tuyên bố giã từ sân khấu âm nhạc vào năm 1989, Trương Quốc Vinh tập trung cho sự nghiệp diễn xuất và gặt hái được nhiều thành tích trong những năm 1990. Đặc biệt, vai diễn nghệ sĩ kinh kịch Trình Điệp Y trong Bá vương biệt Cơ (1993) đã đưa tên tuổi của Trương Quốc Vinh đến với khán giả phương Tây, là nét tô điểm đậm nhất cho thành công ở lĩnh vực điện ảnh của anh. Năm 1995, Trương Quốc Vinh trở lại với ngành công nghiệp âm nhạc, một năm sau, phát hành album Hồng nhận được sự tán dương nhiệt liệt.

Ngày 1 tháng 4 năm 2003, Trương Quốc Vinh nhảy lầu tự sát từ tầng 24 khách sạn Mandarin Oriental, khu Trung Hoàn, Hồng Kông. Nguyên nhân Trương Quốc Vinh tự sát được cho là do căn bệnh trầm cảm lâu năm.

Trương Quốc Vinh, tên khai sinh là Trương Phát Tông, sinh ngày 12 tháng 9 năm 1956 trong một mái ấm gia đình trung lưu tại Cửu Long, Hồng Kông. [ 1 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] Cha anh là ông Trương Hoạt Hải còn mẹ anh là bà Phan Ngọc Dao. [ 11 ] Trương Hoạt Hải là một thợ may có tiếng, từng may quần áo cho Marlon Brando, Cary Grant và nhà làm phim Alfred Hitchcock. [ 12 ] Ông cũng được biết đến là một người đàn ông phong phú, đa tình. [ 5 ] Trương Hoạt Hải và Phan Ngọc Dao có với nhau mười người con, trong đó ba người qua đời từ khi còn nhỏ, Trương Quốc Vinh là con út. [ 8 ] Vì quá bận rộn, cha mẹ Trương Quốc Vinh gửi những con cho bà ngoại nuôi. Bà ngoại nhiều tuổi, nên Trương Quốc Vinh cùng những anh chị em đa phần sống dưới bàn tay chăm nom của cô bảo mẫu tên Sáu, người mà Trương Quốc Vinh xem là ” người phụ nữ vĩ đại nhất “. [ 8 ] Anh tự nhận mình thuở nhỏ là một đứa trẻ kỳ quặc, không giống trẻ con, ít nói và chẳng khi nào được người khác đoái hoài, để tâm. Trương Quốc Vinh không thân thiện với cả cha lẫn mẹ, cho rằng ” duyên phận ” của mình với đấng sinh thành quá mỏng mảnh. [ 8 ] Anh từng hối hận : “ Điều đáng tiếc nhất trong cuộc sống tôi là đã có quá ít thời hạn với cha mẹ. Kể từ khi tôi sinh ra tới khi họ mất đi, tôi chỉ được sống cùng cha vỏn vẹn năm ngày, với mẹ đại khái nửa năm. ” [ 13 ]Trong thời kỳ mà Hồng Kông vẫn còn thuộc Anh, Trương Quốc Vinh thuận tiện sang Anh du học khi mới chỉ 12 tuổi. Theo học Trường Norwich ở Norfolk, anh bị tẩy chay vì là người châu Á. Tốt nghiệp cấp ba, Trương Quốc Vinh học tiếp chuyên ngành Quản lý dệt may tại Đại học Leeds. Ở trường ĐH, anh mở màn phát huy năng khiếu sở trường ca hát, trở thành ca sĩ nghiệp dư, đi hát ở 1 số ít tụ điểm, phòng trà. [ 3 ] Chưa hoàn thành xong chương trình học, Trương Quốc Vinh đã phải bỏ về Hồng Kông khi hay tin cha lâm bệnh nặng. [ 14 ] [ 15 ]

Những năm đầu[sửa|sửa mã nguồn]

Portrait of Leslie Howard, a British actor in tux and bowtie [16]Nam diễn viên người Anh Leslie Howard là nguồn cảm hứng để Trương Quốc Vinh chọn cho mình cái tên tiếng Anh Leslie Cheung

Năm 1977, tham gia và giành giải nhì Cuộc thi Âm nhạc châu Á do Rediffusion Television tổ chức, Trương Quốc Vinh chính thức bước chân vào làng giải trí.[17] 21 tuổi, anh ký hợp đồng với Polydor Records.[3] Lần lượt trong hai năm 1977 và 1979, Trương Quốc Vinh cùng Polydor cho ra mắt hai album Day Dreamin’Tình nhân tiễn.[18] Những năm đầu làm ca sĩ chuyên nghiệp, Trương Quốc Vinh bị chỉ trích là còn quá non nớt và có “giọng hát nghe như gà”.[12] Anh phải nhận những lời la ó từ khán giả trong buổi diễn đầu tiên trước công chúng. Với việc ba album đầu tay đều mang về doanh thu đáng thất vọng, Polydor Records quyết định chấm dứt hợp đồng với nam ca sĩ.[19] Năm 1982, Trương Quốc Vinh gia nhập Capital Artists, bắt đầu nổi tiếng khi phát hành album đột phá Gió tiếp tục thổi được khán giả yêu thích cuồng nhiệt.[18][20][21] Ca khúc cùng tên, “Gió tiếp tục thổi”, là một trong những ca khúc gắn liền với tên tuổi Trương Quốc Vinh sau này.[22] Năm 1984, anh cho ra mắt ca khúc “Monica” giành Giải Top 10 Ca khúc vàng Trung Quốc do Đài Truyền hình Hồng Kông trao.[23] “Monica” trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất lịch sử âm nhạc đại chúng Hồng Kông, giúp truyền cho người Hồng Kông niềm đam mê ca vũ.[5] Sự nghiệp âm nhạc của Trương Quốc Vinh tiếp tục thăng hoa với các album như Chung tình vì người (1985) và Allure Me (1986).[18]

Tương tự âm nhạc, sự nghiệp điện ảnh của Trương Quốc Vinh có khởi đầu không mấy xán lạn.[18] Năm 1977, anh đóng vai Giả Bảo Ngọc trong Hồng lâu xuân thượng xuân. Vì trong phim có nhiều cảnh nóng táo bạo với bạn diễn, Trương Quốc Vinh bị gán mác đóng phim cấp ba. Anh từng chia sẻ rằng mình bị lừa tham gia Hồng lâu xuân thượng xuân, trước khi đóng phim anh hoàn toàn không biết trong phim có cảnh nóng.[24] Hai năm liên tiếp 1980 và 1981, Trương Quốc Vinh đảm nhận các vai phụ trong hai bộ phim Hát thảiThất nghiệp sinh. Với Thất nghiệp sinh, anh nhận đề cử Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ nhất.[25] Sau đề cử này, Trương Quốc Vinh nhận lời mời đóng vai nam chính trong bộ phim Nịnh mông khả nhạc (1982). Kể từ đó, hầu như anh luôn đảm nhận vai chính trong các bộ phim mà mình tham gia.[26] Năm 1983, nhờ vai diễn Louis trong Liệt hỏa thanh xuân, Trương Quốc Vinh nhận đề cử Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 2.[27][28]

Bắt đầu gặt hái vinh quang[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1986, Trương Quốc Vinh gia nhập Cinepoly Records.[23] Năm 1987, album Summer Romance của anh bán được hơn 700 nghìn bản ở Hồng Kông, trở thành album bán chạy nhất Hồng Kông năm đó, theo thống kê của Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm quốc tế.[29] Thập niên 1980, Trương Quốc Vinh cùng với Đàm Vịnh Lân là hai tên tuổi lớn nhất, cạnh tranh nhau ở làng nhạc Hoa ngữ.[30] Trong những năm gắn bó với Cinepoly Records, Trương Quốc Vinh đã phát hành một số album đáng nhớ khác như Hot Summer (1988), Virgin Snow (1988), Final Encounter (1989), và Salute (1989). Đặc biệt, Salute là album phi lợi nhuận đầu tiên được phát hành bởi một siêu sao trong lịch sử âm nhạc Hồng Kông. Trương Quốc Vinh từng nói Salute là sự tôn kính mà anh dành cho âm nhạc. Anh quyên góp tất cả số tiền thu được từ việc bán album Salute cho Học viện Nghệ thuật Biểu diễn Hồng Kông, về sau trở thành quỹ Học bổng Tưởng nhớ Trương Quốc Vinh.[23]

Giữa những năm 1980 đến giữa những năm 1990 là thời kỳ hoàng kim của ngành công nghiệp điện ảnh Hồng Kông, đây cũng là khoảng thời gian mà kỹ năng diễn xuất của Trương Quốc Vinh đạt tới độ chín.[23] Anh đóng vai Tống Tử Kiệt trong Anh hùng bản sắc (1986) của đạo diễn Ngô Vũ Sâm, bên cạnh Địch Long và Châu Nhuận Phát.[31] Anh hùng bản sắc đưa tên tuổi của Trương Quốc Vinh vươn tầm sao hạng A được nhiều người biết đến, từng bước trở thành diễn viên có sức ảnh hưởng nhất Hồng Kông, để có thêm những tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp ở giai đoạn thập niên 1990.[32] Trương Quốc Vinh sắm vai chàng thư sinh Ninh Thái Thần trong Thiện nữ u hồn (1986) của đạo diễn Từ Khắc.[33] Màn kết đôi của Trương Quốc Vinh và Vương Tổ Hiền trong Thiện nữ u hồn đã để lại dấu ấn khó quên trên màn ảnh Hồng Kông và cũng chính từ bộ phim này mà nam nghệ sĩ có cho mình biệt danh “Ca ca”.[34] Hai vai diễn trong Anh hùng bản sắc II (1987) và Yên chi khâu (1988) mang về cho Trương Quốc Vinh hai đề cử Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 7 và thứ 8.[35][36]

Trong một buổi trình diễn năm 1989, Trương Quốc Vinh biểu lộ ca khúc ” Gió liên tục thổi ” trong nước mắt và chính thức công bố dừng nghiệp ca hát, tập trung chuyên sâu cho nghành điện ảnh. [ 37 ] Năm 1990, anh di cư tới Canada, mua một ngôi nhà ở khu British Properties, Vancouver. Suốt năm năm, Trương Quốc Vinh hạn chế gây quan tâm, bảo vệ tư cách công dân Canada. [ 38 ]

Đỉnh cao điện ảnh[sửa|sửa mã nguồn]

Tôi không muốn trở thành Trình Điệp Y. Cá nhân tôi không muốn trở thành anh ấy. Thành thật mà nói, tôi như mong muốn hơn anh ấy rất nhiều, nhưng tôi vẫn thích đóng vai một nhân vật như anh ấy, vì tôi thích đóng những nhân vật bi thảm .
[39]– Trương Quốc Vinh nói về vai diễn để đời của mình

Sau khi tuyên bố giã từ sân khấu âm nhạc, Trương Quốc Vinh tập trung vào sự nghiệp diễn xuất và những nỗ lực của anh nhanh chóng được đền đáp.[20] Năm 1991, nhờ vai diễn Húc Tử trong A Phi chính truyện (1990) của đạo diễn Vương Gia Vệ, Trương Quốc Vinh nhận giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 10, giải thưởng tiêu biểu đầu tiên trong sự nghiệp diễn xuất của anh.[40]

Bá vương biệt Cơ (1993)Hai bộ phục trang ( phải ) mà Trương Quốc Vinh mặc trong ( 1993 )

Thành công ở lĩnh vực điện ảnh của Trương Quốc Vinh được tô điểm đậm nhất có lẽ là nhờ vai diễn nghệ sĩ kinh kịch Trình Điệp Y trong Bá vương biệt Cơ (1993) của đạo diễn Trần Khải Ca.[41][42] Bá vương biệt Cơ giành giải Cành cọ Vàng tại Liên hoan phim Cannes lần thứ 46, Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại Giải Quả cầu vàng lần thứ 51, nhận đề cử Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại Giải Oscar lần thứ 66, đưa tên tuổi của Trương Quốc Vinh đến với khán giả phương Tây.[43][44] Cũng tại Liên hoan phim Cannes, với vai diễn Trình Điệp Y, một giám khảo đã bỏ phiếu cho Trương Quốc Vinh ở cả hai đề cử Nam và Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.[45][46]

Năm 1994, anh đóng vai Âu Dương Phong trong Đông Tà, Tây Độc của Vương Gia Vệ.[47] Vai diễn này mang về cho Trương Quốc Vinh giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Hiệp hội phê bình phim Hồng Kông.[48] Kim chi ngọc diệp (1994) và Sắc tình nam nữ (1996) giúp Trương Quốc Vinh nhận thêm hai đề cử Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 14 và thứ 16.[49][50] Anh tiếp tục hợp tác với Vương Gia Vệ khi đóng chính cùng Lương Triều Vỹ trong Xuân quang xạ tiết (1997) – được xem là một trong những bộ phim đề tài LGBT hay nhất trong làn sóng New Queer Cinema.[51][52] Năm 1998, với Xuân quang xạ tiết, cả Trương Quốc Vinh lẫn Lương Triều Vỹ đều nhận đề cử Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 17 và Lương Triều Vỹ là người đoạt giải.[53] Trương Quốc Vinh luôn là một tên tuổi bảo chứng cho doanh thu phòng vé. Từ năm 1990 đến 1998, 13 trong tổng số 39 phim mà anh tham gia đã lọt vào Top 10 phim có doanh thu phòng vé cao nhất Hồng Kông.[54] Khoảng thời gian này, một số bộ phim đáng nhớ khác của Trương Quốc Vinh có thể kể đến như Gia hữu hỷ sự (1992), Bạch phát ma nữ (1995), Dạ bác ca thanh (1995).[55]

Trở lại với âm nhạc[sửa|sửa mã nguồn]

Trương Quốc Vinh trong một buổi hòa nhạc năm 1997

Năm 1995, Trương Quốc Vinh quyết định quay trở lại ngành công nghiệp âm nhạc, ký hợp đồng với Rock Records và phát hành album tái xuất Sủng ái.[23] Cùng Rock Records, Trương Quốc Vinh cho ra mắt Hồng (1996), có thể xem là album được hoan nghênh nhất của anh. Hồng là một album kết hợp, pha trộn mượt mà jazz, R&B, trip hop,… vào Cantopop, tạo nên một phong cách độc đáo nhất quán.[23] Xa rời Nhà thi đấu Hồng Kông tám năm, Trương Quốc Vinh tái xuất sân khấu này với Live in Concert 97. Khi trình diễn ca khúc Hồng trong đêm nhạc, anh đã mặc một bộ vest đen lung linh và đi đôi giày cao gót đính sequin đỏ lấp lánh.[56] Năm 1999, Trương Quốc Vinh ký hợp đồng với Universal Music và thành lập công ty riêng Apex Music, qua đây phát hành một số album như Cùng em đếm ngược (1999), Đại nhiệt (2000), Untitled (2000).[18][57] Năm 2000, Trương Quốc Vinh tổ chức tua diễn cuối cùng của mình, Passion Tour.[23] Toàn bộ trang phục trong tua diễn này của Trương Quốc Vinh, ở thời điểm đó, từng bị báo chí chỉ trích vì hình tượng phi giới tính táo bạo.[58] Dù vậy, Passion Tour vẫn nhận được những đánh giá cao từ giới nghệ thuật, trong đó có nữ ca sĩ Madonna.[59] Cùng năm, anh được trao giải Kim vàng, giải thưởng thành tựu trọn đời của dòng nhạc Cantopop.[23]

Hai năm 1999 và 2000, Trương Quốc Vinh tham gia một vài bộ phim: Lưu tinh ngữ (1999), Tình nguyệt đồng thoại (1999), Súng thần (2000).[60] Trương Quốc Vinh đã khắc họa một cách xuất sắc tâm lý nhân vật La Bổn Lương trong Dị độ không gian (2002), bộ phim cuối cùng của anh trước khi qua đời vào năm 2003.[61] Anh cũng từng thử sức trong vai trò đạo diễn với đoạn phim tuyên truyền chống thuốc lá dài gần 40 phút Yên phi yên diệt (2000).[12]

Trong đời sống, Trương Quốc Vinh được miêu tả là người bình dị, luôn lo nghĩ cho bè bạn và mọi người xung quanh. [ 62 ] Anh hoạt động và sinh hoạt khá gọn gàng, nền nếp, coi trọng sức khỏe thể chất, không rượu chè thuốc lá, không hoạt động và sinh hoạt đêm. [ 63 ] Trương Quốc Vinh luôn quan tâm phát hiện, giảng dạy và giúp sức kĩ năng trẻ. Rất nhiều nghệ sĩ Đài Loan, Hồng Kông như Lê Minh, Cổ Thiên Lạc, Vương Lực Hoành, Thư Kỳ, Mạc Văn Úy, Viên Vịnh Nghi, Trương Vệ Kiện, Cổ Cự Cơ, Dương Thái Ni, … đều từng nhận sự trợ giúp từ anh. [ 29 ] Mặc dù xuất thân từ những tầng lớp trung lưu nhưng Trương Quốc Vinh rất hào phóng với số tiền mình kiếm được. Khi một trận động đất xảy ra ở Đài Loan vào năm 1999, Trương Quốc Vinh tham gia một buổi gây quỹ từ thiện, và sau khi thử món cơm rang do Trần Bảo Châu nấu, anh lập tức quyên góp được 250.000 đô la Hồng Kông ( khoảng chừng 32.250 đô la Mỹ ). [ 12 ]Trương Quốc Vinh đã trải qua một vài mối tình với cả nam lẫn nữ. [ 64 ] Anh cũng từng thừa nhận ” Đúng ra thì tôi giống một người tuy nhiên tính. ” [ 65 ] Năm 1977, khi mới bước chân vào làng vui chơi, anh có mối tình đầu với Nghiêm Mễ Tuyết, một cô gái 14 tuổi. Cả hai hẹn hò thời hạn ngắn rồi chia tay vì độc lạ trong tính cách. Trương Quốc Vinh thích sự yên bình còn Nghiêm Mễ Tuyết năng động, ưa náo nhiệt. [ 66 ] Sau Nghiêm Mễ Tuyết, anh bị đồn hẹn hò diễn viên Nghê Thi Bội khi đóng phim cùng cô năm 1981. Mối tình này được cho là cũng chỉ lê dài hai năm. [ 64 ] Mao Thuấn Quân là cô gái tiên phong mà Trương Quốc Vinh công khai minh bạch quan hệ yêu đương. [ 64 ] Hai người gặp nhau khi cùng làm người dẫn chương trình cho một chương trình ca nhạc. [ 67 ] Trương Quốc Vinh từng cầu hôn Mao Thuấn Quân nhưng không được chấp thuận đồng ý vì lúc bấy giờ nữ diễn viên nghĩ anh còn non trẻ, chưa đủ thâm thúy, vững chãi. Không thành vợ chồng, Thuấn Quân – Quốc Vinh vẫn là đôi bạn gắn bó. [ 64 ] Tuy nhiên, mối tình được nhắc đến nhiều nhất của Trương Quốc Vinh phải là mối tình đồng tính với Đường Hạc Đức. [ 64 ] Đường Hạc Đức sinh năm 1958, vốn là con trai đỡ đầu của mẹ Trương Quốc Vinh. Cả hai quen biết nhau từ nhỏ, mối quan hệ của họ mở màn từ năm 1983 và chuyện tình cảm giữa hai người về hình thức vẫn luôn được giữ kín. [ 68 ] Năm 1997, tại một trong những buổi hòa nhạc thuộc tua diễn vòng quanh quốc tế, Trương Quốc Vinh công khai minh bạch trình làng Đường Hạc Đức là tình nhân. [ 69 ] Sau sự kiện này, Trương Quốc Vinh ngày càng tự tin hơn. Anh biểu lộ rõ đậm chất ngầu của mình trên sân khấu và mặc nhiều bộ phục trang lòe loẹt, hào nhoáng trong những màn trình diễn vào những năm cuối đời. Nhiều người đã chỉ trích và công kích hình ảnh của Trương Quốc Vinh trong vai trò nhân vật công chúng. [ 69 ] Anh là diễn viên đóng vai đồng tính nam nhiều nhất trên màn ảnh Hoa ngữ và rất tích cực tham gia những hoạt động giải trí giành quyền lợi và nghĩa vụ cho hội đồng LGBT. [ 7 ]

Tuyệt vọng! Cảm ơn tất cả bạn hữu của tôi. Cảm ơn bác sĩ Felicia. Năm nay thật tồi tệ. Tôi không thể chịu đựng thêm. Cảm ơn anh Đường. Cảm ơn gia đình. Cảm ơn chị Phi. Đời tôi chưa làm gì sai, sao mọi thứ lại diễn ra như vậy?

– Trương Quốc Vinh viết trong thư tuyệt mệnh [ 44 ]
Ngày 1 tháng 4 năm 2003, tại khách sạn Mandarin Oriental, Trương Quốc Vinh nhảy lầu tự sát từ tầng 24, hưởng dương 46 tuổi. [ 70 ] Nhiều người đã tin rằng tin tức về cái chết của anh chỉ là một trò đùa ngày Cá tháng Tư. [ 71 ]Theo Trần Thục Phân, quản trị của Trương Quốc Vinh, trước khi qua đời, nam nghệ sĩ gọi điện thoại thông minh cho Lưu Đức Hoa, nhưng Lưu Đức Hoa không hề bắt máy vì bận việc làm. Trương Quốc Vinh còn gửi tin nhắn cho bạn trai Đường Hạc Đức, hẹn đi đá bóng vào buổi tối. Tiếp đó, anh mới gọi điện rủ Trần Thục Phân tới khách sạn Mandarin Oriental uống cafe. Đến nơi mà vẫn chưa thấy Trương Quốc Vinh, Trần Thục Phân gọi điện và nhận được trả lời : ” Chị đợi tôi ở ngoài khách sạn, năm phút nữa gặp mặt. ” Khi vừa chạy ra khỏi khách sạn, Trần Thục Phân thấy bóng Trương Quốc Vinh nhảy từ tầng 24. Cô ngay lập tức cởi áo khoác, che đi khuôn mặt của Trương Quốc Vinh. [ 70 ] Sau khi được chuyển tới Bệnh viện Queen Mary, anh được xác nhận tử trận vào hồi 7 giờ 6 phút chiều. [ 71 ] Cảnh sát tìm thấy trên thi thể lá thư tuyệt mệnh, bằng lái xe, chứng minh thư, hai thẻ tín dụng thanh toán, chìa khóa xe, điện thoại di động, bật lửa, ví tiền có 9.200 đô la Hồng Kông, vé đậu xe tháng và một chiếc khẩu trang màu xanh. [ 72 ] Theo những nguồn tin, năm 1988, Trương Quốc Vinh mua bảo hiểm tai nạn thương tâm và thương vong trị giá 2 triệu đô la Mỹ. Năm 2001, anh lại mua thêm 1 triệu đô la Mỹ bảo hiểm nhân thọ. [ 73 ]

Về hoạt động của Trương Quốc Vinh ngay trước thời điểm tự sát, theo lời các nhân viên khách sạn, anh đi vào phòng tập thể dục ở tầng 24 khách sạn Mandarin Oriental từ lúc 4 giờ chiều ngày 1 tháng 4. Một nhân chứng khác thì thấy Trương Quốc Vinh đứng ở tầng 4 khách sạn chờ ai đó. Lát sau, có hai người đàn ông đến gặp, một trong hai là Đường Hạc Đức. Theo tờ Apple Daily, Trương Quốc Vinh ghé một câu lạc bộ kín nằm trong khách sạn Mandarin Oriental mà anh là khách quen. Anh uống một ít rượu rồi bước ra hành lang ngắm Cảng Victoria, yêu cầu phục vụ cho mượn giấy và bút để viết thư tuyệt mệnh.[72]

Nguyên nhân thật sự cho quyết định tự sát của Trương Quốc Vinh vẫn còn là ẩn số với người hâm mộ.[22] Có thông tin cho rằng anh bị trầm cảm nặng vì quá nhập vai trong Dị độ không gian (2002).[74] Có người lại cho là anh đau khổ vì mối tình đồng tính với Đường Hạc Đức không thể công khai hay có kết cục tốt đẹp.[22] Trương Quốc Vinh chưa bao giờ tiết lộ căn bệnh trầm cảm nhiều năm của mình, cho tới ngày anh chọn cái chết. Chỉ Đường Hạc Đức, chị gái, quản lý Trần Thục Phân và bác sĩ điều trị biết về bệnh tật của anh.[14] Theo lời người chị cả của Trương Quốc Vinh, một bác sĩ từng giải thích rằng bệnh trầm cảm mà em trai cô phải vật lộn là do sự mất cân bằng sinh lý học, hóa học trong não bộ chứ không phải vì áp lực công việc.[75]

Di sản và tưởng niệm[sửa|sửa mã nguồn]

20 năm làm nghệ thuật và thẩm mỹ, Trương Quốc Vinh luôn là ngôi sao 5 cánh quý phái. Anh có vẻ như là người được Thượng đế chọn để hoàn thành xong thiên chức, một người hiếm có. Nếu không có Trương Quốc Vinh, những gì quốc tế hiểu về châu Á qua điện ảnh sẽ còn hạn chế. Thế giới nhận ra rằng ngoài võ thuật, đánh đấm, điện ảnh Hồng Kông còn có một Trương Quốc Vinh đầy chiều sâu .
Cut của Nhật Bản nói về Trương Quốc Vinh[34]– Tạp chícủa Nhật Bản nói về Trương Quốc VinhTrương Quốc Vinh là nghệ sĩ xuất chúng của nền âm nhạc, điện ảnh Hoa ngữ, có tác động ảnh hưởng sâu rộng tại châu Á. [ 76 ]

Trong vai trò ca sĩ, anh là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của làng nhạc nhẹ Hồng Kông, nguồn cảm hứng cho nhiều ca sĩ, trong đó có cả Tứ đại thiên vương, gồm Lê Minh, Lưu Đức Hoa, Trương Học Hữu và Quách Phú Thành.[29][77] Không sở hữu giọng hát quá tốt nhưng nhờ có khả năng làm chủ sân khấu xuất sắc mà Trương Quốc Vinh được truyền thông ví như “Elvis của Hồng Kông”.[14] Anh là ca sĩ người Hoa đầu tiên nổi danh ở Hàn Quốc, một số đĩa nhạc của anh từng rất gây chú ý ở nước này. Nhờ Trương Quốc Vinh mà các nhà kinh doanh ở Hàn Quốc bắt đầu tăng cường nhập khẩu đĩa nhạc Hoa.[29] Trương Quốc Vinh cũng là nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên tổ chức tới 16 buổi hòa nhạc tại Nhật Bản.[57] Năm 2005, Sở Bưu điện Hồng Kông phát hành một bộ tem tôn vinh các ngôi sao ca nhạc quá cố, trong đó có Trương Quốc Vinh.[78] Năm 2010, anh là ngôi sao châu Á duy nhất có mặt trong Top 5 “Biểu tượng Âm nhạc toàn cầu” do CNN tổ chức bình chọn, sau Michael Jackson và The Beatles.[79] Năm 2012, Trương Quốc Vinh là cái tên Hồng Kông duy nhất xuất hiện trong danh sách 20 ca sĩ hoặc nhóm nhạc nổi tiếng nhất thế giới nửa thể kỷ qua do CNN và Songlines đồng tổ chức bình chọn.[29]

Trong vai trò diễn viên, Trương Quốc Vinh cũng là một biểu tượng của nền điện ảnh Hoa ngữ.[29] Hơn 24 năm, anh đã đóng khoảng 60 bộ phim. Rất nhiều trong số đó, như Xuân quang xạ tiết (1997), Bá vương biệt Cơ (1993), A Phi chính truyện (1990), đã trở thành những tác phẩm kinh điển.[4] Trương Quốc Vinh từng được mời làm giám khảo tại Liên hoan phim quốc tế Tokyo năm 1993 và Liên hoan phim quốc tế Berlin năm 1998.[80][81] Ánh mắt của Trương Quốc Vinh trên phim, cách diễn đạt, thần thái tự nhiên của anh thường được các diễn viên khác học tập. Ngoài việc sở hữu lượng người hâm mộ đông đảo, anh còn là thần tượng của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng.[29] Hiệp hội điện ảnh Hồng Kông cũng khẳng định Trương Quốc Vinh vẫn là nghệ sĩ được yêu mến trong suốt nhiều năm qua.[82] Vương Gia Vệ cho rằng Trương Quốc Vinh sinh ra cho điện ảnh, Từ Khắc thì tuyên bố “Không thể tìm được nghệ sĩ thứ hai như Trương Quốc Vinh. Anh ấy là một tượng đài nghệ thuật.”[83][84] Trần Khải Ca từng luyến tiếc: “Tôi luôn nghĩ Trương Quốc Vinh thuộc về thời đã qua. Đó là vì anh ấy có một đôi mắt chỉ có thể thấy trong những giấc mơ phù hoa về quá khứ của chúng ta.”[41] Năm 2006, đài NHK tổ chức bình chọn 10 diễn viên nước ngoài được yêu thích nhất tại Nhật Bản. Dù đã qua đời, Trương Quốc Vinh là nam nghệ sĩ người Hoa duy nhất lọt vào danh sách.[85] Năm 2010, CNN bình chọn Trương Quốc Vinh là một trong 25 diễn viên châu Á vĩ đại nhất lịch sử.[34]

Một lễ tưởng niệm 3 năm ngày Trương Quốc Vinh qua đời

Trong một chương trình của BBC, tiến sĩ Travis Kong, phó giáo sư chuyên nghiên cứu về giới tính và tình dục của Đại học Hồng Kông, đã bàn về sức ảnh hưởng của Trương Quốc Vinh tới cộng đồng LGBT.[69] Những bộ phim đồng tính xuất sắc mà anh tham gia chính là minh chứng cho cống hiến và tầm ảnh hưởng của anh đối với vấn đề vượt qua rào cản giới tính của điện ảnh Hoa ngữ thập niên 1990.[7]

Ngày 6 tháng 4 năm 2003, Tứ đại thiên vương Hồng Kông hát ca khúc “Tình năm đó” trên một sân khấu trao giải để tưởng nhớ Trương Quốc Vinh.[86] Dù đã qua đời được nhiều năm nhưng hằng năm, vào ngày mất và ngày sinh nhật của Trương Quốc Vinh, giới giải trí Hồng Kông, người hâm mộ, đồng nghiệp thân thiết vẫn luôn dành niềm thương nhớ đến anh.[87] Cứ đến ngày 1 tháng 4, người hâm mộ Trương Quốc Vinh đều tề tựu trước khách sạn Mandarin Oriental khu Trung Hoàn, Hồng Kông để đặt vòng hoa tưởng nhớ.[88] Năm 2019, tưởng niệm 16 năm ngày mất Trương Quốc Vinh, một nhóm người hâm mộ Nhật Bản đã gấp 1.339 con hạc giấy, trong đó, con số “339” là biển số xe của nam nghệ sĩ lúc sinh thời.[89] Theo On, sau khi Trương Quốc Vinh qua đời, người yêu anh là Đường Hạc Đức không hẹn hò ai. Mỗi dịp Giáng sinh, sinh nhật, ngày giỗ Trương Quốc Vinh, anh này thường đăng trên trang cá nhân ảnh bên bạn đời quá cố, thể hiện sự nhớ nhung, quyến luyến.[90]

Danh sách đĩa nhạc[sửa|sửa mã nguồn]

  • I Like Dreamin’ (1977)
  • Day Dreamin’ (1977)
  • Tình nhân tiễn (1979)
  • Gió tiếp tục thổi (1983)
  • Mối tình si (1983)
  • Leslie Trương Quốc Vinh (Monica) (1984)
  • Lựa chọn tốt nhất cho mùa hè – Tất cả phụ thuộc vào bạn (1985)
  • Chung tình vì người (1985)
  • Stand Up (1986)
  • Trương Quốc Vinh (Tình năm đó) (1986)
  • Ái mộ (1986)
  • Allure Me (1986)
  • Summer Romance (1987)
  • Virgin Snow (1987)
  • Hot Summer (1987)
  • Cự tuyệt chơi đùa (1989)
  • Leslie Trương Quốc Vinh (Mặt bên) (1989)
  • Tâm trạng hóng gió (1989)
  • Salute (1989)
  • Final Encouter (1989)
  • Dreaming Tân khúc+Tinh tuyển (1990)
  • Sủng ái (1995)
  • Hồng (1996)
  • Những năm qua (1998)
  • Printemps (1998)
  • Cùng em đếm ngược (1999)
  • Đại nhiệt (2000)
  • Untitled (2000)
  • Forever Tân khúc+Tinh tuyển (2001)
  • Crossover (2002)
  • Mọi thứ theo gió (2003)
  • Chung tình Trương Quốc Vinh (2004)

Danh sách phim[sửa|sửa mã nguồn]

  • Dị độ không gian (2002)
  • Yên phi yên diệt (2000)
  • Duyên tình Okinawa (2000)
  • Súng thần (2000)
  • Lưu tinh ngữ (1999)
  • Tình nguyệt đồng thoại (1999)
  • Tình mong đợi (1998)
  • Hồng sắc luyến nhân (1998)
  • Cửu tinh báo hỷ (1998)
  • Xuân quang xạ tiết (1997)
  • Gia hữu hỷ sự 1997 (1997)
  • Đại tam nguyên (1996)
  • Kim chi ngọc diệp II (1996)
  • Bến Thượng Hải (1996)
  • Sắc tình nam nữ (1996)
  • Trai-Gái: Giới tính trong phim Trung Quốc (1996)
  • Phong nguyệt (1996)
  • Mãn Hán toàn tịch (1995)
  • Dạ bác ca thanh (1995)
  • Cuộc sống tươi đẹp (1994)
  • Kim chi ngọc diệp (1994)
  • Over the Rainbow Under the Skirt (1994)
  • Cẩm tú tiền trình (1994)
  • Đông Tà, Tây Độc (1994)
  • Bạch phát ma nữ 2 (1993)
  • Bạch phát ma nữ (1993)
  • Hoa điền hỷ sự (1993)
  • Đông Thành, Tây Tựu (1993)
  • Bá vương biệt Cơ (1993)
  • Hoa điền hỷ sự (1992)
  • Nam Kong Legend: Anti-Punk Squad (1992)
  • Hào môn dạ yến (1991)
  • A Phi chính truyện (1991)
  • Tung hoành tứ hải (1991)
  • Thiện nữ u hồn II (1990)
  • Aces Go Places V: The Terracotta Hit (1989)
  • Sát chi luyến (1988)
  • Thiện nữ u hồn (1987)
  • Anh hùng bản sắc II (1987)
  • Yên chi khâu (1987)
  • Anh hùng bản sắc (1986)
  • Last Song in Paris (1985)
  • Vì em chung tình (1985)
  • Intellectual Trio (1984)
  • Duyên phận (1984)
  • Tam văn trị (1984)
  • Giáng Sinh vui vẻ (1984)
  • First time (1983)
  • Dương Quá và Tiểu Long Nữ (1983)
  • Cổ thủ (1983)
  • Liệt hỏa thanh xuân (1982)
  • Nịnh mông khả nhạc (1982)
  • Crazy Romance (1982)
  • Energetic 21 (1982)
  • Thất nghiệp sinh (1981)
  • Hái thải (1980)
  • Dog eats Dog (1978)
  • Hồng lâu xuân thượng xuân (1978)

Trao Giải và đề cử chính[sửa|sửa mã nguồn]

Giải Top 10 Ca khúc vàng Trung Quốc của Đài Truyền hình Hồng Kông[sửa|sửa mã nguồn]

Năm Hạng mục Đối tượng đề cử Kết quả Nguồn
1984 Top 10 Ca khúc vàng “Monica” Đoạt giải [23]
1985 Top 10 Ca khúc vàng “Ngọn gió tự do” Đoạt giải [91]
1986 Top 10 Ca khúc vàng “Tình năm đó” Đoạt giải [92]
1987 Top 10 Ca khúc vàng “Không có giấc ngủ” Đoạt giải [93]
CD hay nhất Summer Romance Đoạt giải
Giải doanh số (Album bán chạy nhất năm) Summer Romance Đoạt giải
1988 Top 10 Ca khúc vàng “Im lặng là vàng” Đoạt giải [93]
Top 10 Ca khúc vàng “Không cần quá nhiều” Đoạt giải
Giải IFPI Trương Quốc Vinh Đoạt giải
1999 Top 10 Ca khúc vàng “Tay trái phải” Đoạt giải [93]
2000 Giải Kim vàng Trương Quốc Vinh Đoạt giải [23]
Top 10 Ca khúc vàng “Đại nhiệt” Đoạt giải [93]
2002 Giải Silver Jubilee Trương Quốc Vinh Đoạt giải

Trao Giải Top 10 Kình ca kim khúc[sửa|sửa mã nguồn]

Năm Hạng mục Đối tượng đề cử Kết quả Nguồn
1983 Top 10 Ca khúc vàng “Gió tiếp tục thổi” Đề cử
1984 “Monica” Đoạt giải
1985 “Ngọn gió tự do” Đoạt giải [94]
1986 “Tình năm đó” Đoạt giải [95]
“Có ai cảm thông” Đoạt giải
Giải Kim khúc kim Đoạt giải
1987 Top 10 Ca khúc vàng “Không có giấc ngủ” Đoạt giải [96]
Giải Kim khúc kim Đoạt giải
1988 Top 10 Ca khúc vàng “Im lặng là vàng” Đoạt giải [97]
“Theo sát” Đoạt giải
Nam ca sĩ được hoan nghênh nhất Trương Quốc Vinh Đoạt giải
1989 Top 10 Ca khúc vàng “Bắt đầu từ Không” Đoạt giải [98]
Nam ca sĩ được hoan nghênh nhất Trương Quốc Vinh Đoạt giải
1999 Giải Vinh dự Đoạt giải [99]
2000 Giải Four Channel (Album hay nhất năm) Untitled Đoạt giải [100]
Giải Vinh dự Trương Quốc Vinh Đoạt giải

Trao Giải Điện ảnh Hồng Kông[sửa|sửa mã nguồn]

Giải Kim Mã[sửa|sửa mã nguồn]

Năm Hạng mục Phim Kết quả Nguồn
1991 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất A Phi chính truyện Đề cử [104]
1993 Ca khúc trong phim hay nhất Bạch phát ma nữ Đoạt giải [105]
1994 Kim chi ngọc diệp Đề cử [106]
1995 Dạ bác ca thanh Đề cử [107]
1996 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Phong nguyệt Đề cử [108]
Ca khúc trong phim hay nhất Đề cử
Kim chi ngọc diệp II Đề cử
1997 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Xuân quang xạ tiết Đề cử [109]
2000 Súng thần Đề cử [110]
2002 Dị độ không gian Đề cử [111]

Trao Giải điện ảnh khác[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://vvc.vn
Category : Từ Thiện

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay