(TN&MT) – (TN&MT) – Để bảo tồn voi hoang dã, vấn đề sống còn là duy trì sinh cảnh của chúng. Thế nhưng, những năm qua, những cánh rừng già nguyên sinh – sinh cảnh cố hữu của voi, đã và đang bị khai thác tràn lan, suy thoái về chất lượng khiến số lượng khiến voi bị suy giảm nghiêm trọng
Trong khoảng gần hơn 30 năm trở lại đây, số lượng voi ở Việt Nam suy giảm nhanh. Hiện chỉ còn khoảng 124 đến 148 cá thể voi hoang dã, 91 voi nuôi. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do môi trường sống của Voi ngày càng bị thu hẹp.
Theo PGS.TS Bảo Huy – Khoa Lâm nghiệp Trường ĐH Tây Nguyên, Trưởng nhóm điều tra và nghiên cứu đề án Bảo tồn voi Đắk Lắk, trong những khu vực có voi rừng sinh sống lúc bấy giờ, chỉ vùng lõi của VQG Yok Đôn là ít bị con người ảnh hưởng tác động. Còn hàng chục ngàn ha rừng ở khu vực phía Tây Bắc huyện Ea Súp, vốn là môi trường sống lý tưởng của voi rừng, lại bị tỉnh giao cho những doanh nghiệp để trồng cao su đặc .
Tại Tây Nguyên – thủ phủ của voi, chính quyền đã cấp phép đầu tư cho 700 dự án (trồng rừng, cải tạo, trồng cao su…) trên đất lâm nghiệp với diện tích hơn 215.720 ha. Trong đó, riêng tỉnh Đắk Lắk đã cho 90 doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh vào khảo sát, lập 104 dự án đầu tư trồng rừng, trồng cao su và một số loại cây nông lâm nghiệp khác. Theo kết quả kiểm kê rừng của Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT), từ năm 2008-2014 diện tích rừng tự nhiên tại Tây nguyên mất gần 359 nghìn ha.
Không những thế một số ít dự án Bất Động Sản thủy điện khi đi vào hoạt động giải trí cũng tác động ảnh hưởng không nhỏ đến đàn voi hoang dã. Sông Sêrêpôk có 6 con đập lớn tạo hồ chứa cho những nhà máy sản xuất thủy điện chắn ngang dòng là Buôn Tuôr Sar, Buôn Kuôp, Hòa Phú, Đray H’ling, Sêrêpôk 3, Sêrêpôk 4. Các thủy điện trên sông Sêrêpôk làm đổi khác dòng chảy, kéo theo sự biến hóa sinh cảnh ven sông, thu hẹp khoảng trống sống sót của loài voi và tác động ảnh hưởng đến những “ hố nước ” vốn rất quan trọng với tập tính sống sót của loài voi, nhất là vào mùa khô .
Việc voi bị mất sinh cảnh, nguồn thức ăn và hiên chạy chuyển dời là nguyên do đẫn đến thực trạng voi hoang dã bỏ rừng kéo về phá nương rẫy để kiếm ăn, gây nguy cơ tiềm ẩn đến gia tài và tính mạng con người của con người. Báo cáo của Trung tâm Bảo tồn Voi Đắk Lắk cho thấy, từ tháng 6/2012 đến tháng 12/2018, voi đã làm thiệt hại khoảng chừng 100 ha cây cối những loại cũng như một số ít chòi rẫy, công cụ, dụng cụ sản xuất nông nghiệp của nhân dân và doanh nghiệp trên địa phận. Voi rừng tiến công làm chết 01 voi nhà và làm bị thương nhiều voi nhà thả kiếm ăn trong rừng. Từ năm 2011 đến năm nay, voi làm chết 1 người dân huyện Ea Hleo và 1 người dân huyện Ea Súp, làm bị thương một người dân huyện Ea Súp .
|
Voi rừng tàn phá ruộng mía của người dân
|
Không chỉ có voi hoang dã, voi nhà cũng cần được trợ giúp. Voi nhà bị nuôi nhốt trong những điều kiện kèm theo chật hẹp, không phù. Điều kiện sống trong môi trường nuôi nhốt tồi tệ khiến voi phải chịu nhiều đau đớn : thiếu thức ăn, nước uống, bị đánh đập, bị xích một chỗ và không được thể hiện hành vi tự nhiên, tương tác với đàn, đặc biệt quan trọng là ở những khu du lịch có ship hàng cưỡi voi và ở rạp xiếc. Có tới hơn nửa số voi nhà của tỉnh Đắk Lắk bị xiềng xích và ngày ngày phải chở khách du lịch thăm quan du lịch, hoặc luân chuyển sản phẩm & hàng hóa nông sản .
Một nài voi ở Khu du lịch Buôn Đôn cho biết, trước đây voi nhà rất ít khi bị nhốt một chỗ và phải làm việc liên tục như bây giờ. Phần lớn thời gian sinh sống của voi đều được chủ thả trong rừng cùng với quần thể voi nhà khác để tự kiếm ăn, khi nào có việc cần đến voi giúp sức như chở lúa, bắp, hay kéo một vài khúc gỗ về dựng nhà… thì chủ mới gọi voi về. Hiện nay, do nhu cầu của du khách nên những chủ voi trên địa bàn xã Krông Na đều liên kết tham gia làm du lịch tại Khu du lịch sinh thái Buôn Đôn. Không được ăn uống đầy đủ, lại bị khai thác phục vụ du lịch quá sức, cộng với những mối hiểm họa từ thiên nhiên và con người, số lượng voi nhà cũng đang suy giảm nghiêm trọng.
Để ngăn đà suy giảm của quần thể voi, đã đến lúc tất cả chúng ta phải thanh tra rà soát lại mạng lưới hệ thống rừng đặc dụng, thiết kế xây dựng mới những khu bảo tồn vạn vật thiên nhiên, tăng cường góp vốn đầu tư, trợ giúp kỹ thuật để bảo vệ bảo đảm an toàn cho nơi sống của voi ; kiến thiết xây dựng, chỉ huy những địa phương xử lý đơn cử những vụ xung đột voi với người ; tuyên truyền bảo tồn voi trên phương tiện thông tin đại chúng …