Thực trạng chất thải rắn y tế của các bệnh viện và thách thức trong phòng dịch Covid-19
03/08/2021
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng phát thải chất thải rắn y tế (CTRYT) từ các bệnh viện hạng 1 làm bằng chứng khoa học giúp cho quản lý phù hợp chất thải y tế từ hoạt động khám chữa bệnh. Nghiên cứu áp dụng phương pháp thiết kế nghiên cứu cắt ngang, đối tượng là 34 Bệnh viện hạng 1 tuyến Trung ương và 58 Bệnh viện hạng 1 tuyến tỉnh. Thu thập dữ liệu thứ cấp qua kết quả quan trắc môi trường của 4 viện chuyên ngành Bộ Y tế kết hợp điều tra hiện trường, phỏng vấn sâu. Kết quả cho thấy, phát thải trung bình 1,7 kg/giường bệnh/ ngày, trong đó CTR nguy hại 0,24 kg/giường bệnh/ngày. Bệnh viện tuyến Trung ương phát thải nhiều hơn so với tuyến tỉnh, chưa thấy khác biệt phát thải giữa Bệnh viện đa khoa và chuyên khoa, phát thải tăng đột biến ở Bệnh viện thu dung điều trị bệnh nhân Covid-19. Kết luận là phát thải CTRYT trung bình 1,74 kg/giường bệnh/ngày, trong đó 85,56% là chất thải thông thường, 13,63% chất thải lây nhiễm, 0,81% chất thải nguy hại khác, nguy cơ tăng phát thải đột biến nếu Bệnh viện thu dung điều trị bệnh nhân Covid-19.
Từ khóa: Chất thải rắn y tế, bệnh viện hạng 1, phát thải trung bình ngày. Nhận bài: 21/6/2021; Sửa chữa: 25/6/2021; Duyệt đăng: 27/6/2021.
1. Đặt vấn đề
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, quản lý tốt chất thải y tế (CTYT) góp phần giảm thiểu nguy cơ gây hại cho sức khỏe con người và môi trường, là giảm chi phí trong quản lý, xử lý CTYT [2].
Hiện nay, tại những bệnh viện đã thực thi việc giám sát phát sinh CTYT trải qua những đơn vị chức năng quan trắc môi trường tự nhiên ( QTMT ) có đủ tính năng theo định kỳ hàng năm. Để dữ thế chủ động BVMT tại những bệnh viện tốt hơn, cần phải có những số liệu quan trắc CTYT tiếp tục và được update liên tục, bệnh viện phải dữ thế chủ động trong hoạt động giải trí BVMT .
Trong dịch bệnh Covid-19, yếu tố phát thải CTYT nói chung và CTYT nguy cơ tiềm ẩn nói riêng đang là thử thách từ khâu thu gom phân loại tới tiêu hủy bảo đảm an toàn. Do dịch bệnh, lượng CTYT nguy cơ tiềm ẩn tăng lên đáng kể, qua công bố của những bệnh viện tại thành phố Vũ Hán trong đợt bùng phát dịch tiên phong, qua cảnh báo nhắc nhở của những bệnh viện tại Ấn Độ trong vụ bùng phát dịch Covid-19 năm 2021 cho thấy, gánh nặng CTYT nguy cơ tiềm ẩn tăng lên nhiều lần, do vậy yên cầu sự cung ứng để quản trị CTYT nguy cơ tiềm ẩn rất bức xúc [ 7 ]. Đặc biệt, do phải cách ly nhiều người nhiễm, nghi nhiễm vi rus tại những khu tập trung chuyên sâu mà còn tại những hộ mái ấm gia đình, nên việc quản trị CTYT tương quan tới dịch Covid-19 phức tạp, cần có cách tiếp cận hài hòa và hợp lý và thực tiễn .
2. Phương pháp
2.1. Đối tượng, thời gian nghiên cứu
Đối tượng: Bệnh viện đa khoa, chuyên khoa hạng 1 tuyến Trung ương và tuyến tỉnh tại một số địa phương đại diện.
Thời gian : 2020 – 2021
2.2. Thiết kế và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang, với phương pháp mô tả và phân tích cơ sở dữ liệu thứ cấp, phương pháp phỏng vấn sâu một số Trưởng khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện.
Cỡ mẫu và giải pháp chọn mẫu điều tra và nghiên cứu ; Mẫu nghiên cứu và điều tra gồm 92 bệnh viện hạng 1 gồm : 34 BV hạng 1 tuyến Trung ương và 58 BV hạng 1 tuyến tỉnh .
Các chỉ số chính :
Khối lượng chất thải rắn ( CTR ) y tế phát sinh tại những bệnh viện ( kg / giường bệnh / ngày ) .
Tỷ lệ những loại CTR y tế phát sinh trung bình ( kg / ngày ) .
Khối lượng CTR y tế phát sinh theo tuyến bệnh viện ( kg / giường bệnh ngày ) .
Khối lượng CTR y tế phát sinh theo mô hình bệnh viện ( kg / giường bệnh ngày ) .
Phương pháp tích lũy số liệu : Truy cập cơ sở tài liệu về công tác làm việc quản trị thiên nhiên và môi trường của Viện Sức khỏe nghề nghiệp và thiên nhiên và môi trường, Viện Pasteur Nha Trang, Viện VSDT Tây Nguyên và Viện YTCC HCM. Các tài liệu này được gửi về Cục Quản lý thiên nhiên và môi trường Y tế – Bộ Y tế ; nội dung số liệu nghiên cứu và điều tra được trích xuất vào “ Phiếu tổng hợp thông tin quản trị thiên nhiên và môi trường bệnh viện ” và mã hóa những thông tin theo từng bệnh viện dưới sự giám sát của cán bộ quản trị cơ sở tài liệu của Cục Quản lý môi trường tự nhiên Y tế – Bộ Y tế .
Phương pháp xử lý số liệu : Số liệu được nhập vào ứng dụng Microsoft Excel 2007 và nghiên cứu và phân tích ứng dụng SPSS 20.0 .
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Thực trạng phát thải CTR y tế
Bảng 1. Khối lượng CTR y tế phát sinh tại các Bệnh viện (n = 92)
Đơn vị : kg / giường bệnh / ngày
Loại chất thải
|
X ± SD
|
Trung vị (Q1 -Q3)
|
Min – Max
|
CTYT thường thì
|
1,53 ± 0,83
|
1,35 ( 0,95 – 1,93 )
|
0,43 – 4,64
|
CTYT lây nhiễm
|
0,22 ± 0,15
|
0,21 ( 0,15 – 0,28 )
|
0,01 – 1,12
|
CTNH không lây nhiễm
|
0,02 ± 0,04
|
0,004 ( 0,001 – 0,013 )
|
0,0 – 0,38
|
Tổng
|
1,77 ± 0,90
|
1,586 ( 1,157 – 2,135 )
|
0,53 – 5,17
|
Bảng 2. Tổng khối lượng CTR y tế phát sinh trung bình ngày (n = 92)
Đơn vị : kg / ngày
Loại CTRYT
|
Tuyến TW (n = 34)
|
Tuyến tỉnh
(n = 58)
|
Chung
|
CTYT thường thì
|
49591
|
50860
|
100451
|
CTYT lây nhiễm
|
8323,3
|
7673,81
|
15997,11
|
CTNH không lây nhiễm
|
537,11
|
418,46
|
955,57
|
Tổng
|
58451,41
|
58952,27
|
117403,68
|
Tổng lượng CTYT phát sinh tại mỗi Bệnh viện trung bình là 1,77 ± 0,90 kg / giường bệnh / ngày, trong đó lượng CTYT thường thì chiếm tỷ trọng cao nhất ( 1,53 ± 0,83 kg / giường bệnh / ngày ), tiếp đến là CTNH lây nhiễm ( 0,22 ± 0,15 kg / giường bệnh / ngày ), thấp nhất là CTNH không lây nhiễm ( 0,02 ± 0,04 kg / giường / ngày ) .
Tổng lượng CTYT phát thải trung bình là 117403,68 kg / ngày, trong đó gồm có 100451 kg CTYT thường thì, 955,57 kg CTYT nguy cơ tiềm ẩn không lây nhiễm và 15997,11 kg CTYT nguy cơ tiềm ẩn lây nhiễm .
Trong số những loại CTYT phát sinh tại những Bệnh viện, CTYT thường thì chiếm tỷ suất cao nhất ( 85,56 % ). Tiếp theo, CTNH không lây nhiễm của những Bệnh viện chiếm 13,63 %, CTNH lây nhiễm chiếm 0,81 % ( Bảng 3 ) .
Bảng 3. Khối lượng CTYT phát sinh theo tuyến Bệnh viện
Đơn vị : kg / giường bệnh / ngày
Loại CTYT
|
Trung vị (Q1 – Q3)
X ± SD
|
P
(Kiểm định Mann-Whitney U)
|
Tuyến trung ương (n = 34)
|
Tuyến tỉnh (n = 58)
|
Thông thường
|
1,55 ( 0,99 – 2,33 )
1,74 ± 0,91
|
1,28 ( 0,87 – 1,67 )
1,41 ± 0,76
|
0,083
|
Nguy hại lây nhiễm
|
0,21 ( 0,09 – 0,29 )
0,24 ± 0,22
|
0,20 ( 0,16 – 0,26 )
0,21 ± 0,09
|
0,984
|
Nguy hại không lây nhiễm
|
0,002 ( 0,001 – 0,004 )
0,02 ± 0,06
|
0,007 ( 0,002 – 0,021 )
0,01 ± 0,017
|
0,001
|
Tổng
|
1,71 ( 1,36 – 2,49 )
2,00 ± 1,03
|
1,53 ( 1,12 – 1,96 )
1,63 ± 0,79
|
0,074
|
Lượng CTYT trung bình ở Bệnh viện tuyến Trung ương là 2,00 ± 1,03 kg / giường bệnh / ngày, cao hơn trung bình ở Bệnh viện tuyến tỉnh ( 1,63 ± 0,79 ). Tuy nhiên, sự độc lạ này không có ý nghĩa thống kê ( p > 0,05 ) ( Bảng 4 ) .
Trung bình lượng CTYT phát sinh từ những Bệnh viện chuyên khoa là 1,79 ± 1,01 kg / giường bệnh / ngày cao hơn không có ý nghĩa thống kê ( p > 0,05 ) so với những Bệnh viện đa khoa ( 1,76 ± 0,86 kg / giường bệnh / ngày ) .
Về lượng CTNH lây nhiễm phát sinh trung bình của Bệnh viện đa khoa là 0,25 ± 0,16 kg / giường bệnh / ngày, cao hơn có ý nghĩa thống kê ( p < 0,05 ) so với nhóm Bệnh viện chuyên khoa ( 0,16 ± 0,11 kg / giường bệnh / ngày ) .
Bảng 4. Khối lượng CTYT phát sinh theo loại Bệnh viện chuyên khoa và Bệnh viện đa khoa
Đơn vị : kg / giường bệnh / ngày
Loại CTYT
|
Trung vị (Q1 – Q3)
X ± SD
|
P
(Kiểm định Mann-Whitney U)
|
Tuyến trung ương (n = 34)
|
Tuyến tỉnh (n = 58)
|
Thông thường
|
1,39 ( 0,73 – 2,15 )
1,61 ± 1,00
|
1,33 ( 1,02 – 1,71 )
1,50 ± 0,76
|
> 0,05
|
Nguy hại lây nhiễm
|
0,17 ( 0,08 – 0,27 )
0,16 ± 0,11
|
0,22 ( 0,17 – 0,29 )
0,25 ± 0,16
|
< 0,05
|
Nguy hại không lây nhiễm
|
0,0025 ( 0,0014 – 0,02 )
0,03 ± 0,07
|
0,0046 ( 0,0016 – 0,0132 )
0,01 ± 0,02
|
> 0,05
|
Tổng
|
1,66 ( 0,92 – 2,36 )
1,79 ± 1,01
|
1,57 ( 1,18 – 2,03 )
1,76 ± 0,86
|
> 0,05
|
Không có sự độc lạ có ý nghĩa thống kê về khối lượng CTYT thường thì và khối lượng CTNH không lây nhiễm phát sinh trung bình theo giường bệnh trong ngày giữa những Bệnh viện đa khoa và Bệnh viện chuyên khoa ( p > 0,05 ) ( Bảng 5 ) .
Đối với CTYT nguy cơ tiềm ẩn lây nhiễm, có 38,0 % Bệnh viện thuê giải quyết và xử lý ; 50 % Bệnh viện tích hợp phương pháp thuê giải quyết và xử lý và giải quyết và xử lý bằng lò đốt của Bệnh viện ; 12,0 % Bệnh viện tích hợp thuê giải quyết và xử lý và giải quyết và xử lý bằng lò hấp. Có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê về phương pháp giải quyết và xử lý CTYT nguy cơ tiềm ẩn lây nhiễm giữa nhóm Bệnh viện tuyến Trung ương và nhóm Bệnh viện tuyến tỉnh ( p < 0,001 ) : hầu hết những Bệnh viện Trung ương thuê giải quyết và xử lý ( 76,5 % ), còn Bệnh viện tuyến tỉnh có lò đốt để giải quyết và xử lý và tích hợp thuê giải quyết và xử lý ( 75,9 % ) .
Đối với chất thải hóa học, 52,9 % Bệnh viện tuyến Trung ương và 41,4 % Bệnh viện tuyến tỉnh thuê đơn vị chức năng giải quyết và xử lý. Các Bệnh viện còn lại chọn phương pháp giải quyết và xử lý là trả lại nhà cung ứng. Không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê ( p > 0,05 ) về những phương pháp giải quyết và xử lý CTYT hóa học tại những Bệnh viện .
Đối với CTYT nguy cơ tiềm ẩn khác, 100 % Bệnh viện thuê giải quyết và xử lý. Có 95,7 % những Bệnh viện thuê giải quyết và xử lý CTYT thường thì. Không có sự độc lạ về tỷ suất này giữa hai tuyến Bệnh viện ( Bảng 6 ) .
Trong tổng số 92 Bệnh viện, có 51 Bệnh viện có lò đốt CTYT, trong đó 3,9 % Bệnh viện đạt tổng thể những tiêu chuẩn nhìn nhận về lò đốt CTYT theo QCVN 02 : 2012 / BTNMT. Xét trên từng tiêu chuẩn, có 98 % Bệnh viện đạt tiêu chuẩn về lượng oxy dư, 96,1 % Bệnh viện đạt tiêu chuẩn về thời hạn lưu cháy trong vùng đốt thứ cấp, 92,2 % Bệnh viện có mạng lưới hệ thống giải quyết và xử lý khí thải lò đốt, 84,3 % Bệnh viện đạt tiêu chuẩn về nhiệt độ vùng đốt sơ cấp. Tỷ lệ Bệnh viện có lò đốt đạt những tiêu chuẩn về nhiệt độ vùng đốt thứ cấp, nhiệt độ bên ngoài vỏ lò, nhiệt độ khí thải ra thiên nhiên và môi trường lần lượt là 56,9 %, 51,0 %, 29,4 % và 23,5 % ( Bảng 7 ) .
Trong 51 Bệnh viện có lò đốt CTYT, có 80,4 % Bệnh viện có quá trình hướng dẫn quản lý và vận hành lò đốt, 84,4 % Bệnh viện có phân định tro xỉ theo pháp luật tại QCVN 07 : 2009 / BTNMT. Tỷ lệ Bệnh viện có lò đốt có thực trạng quản lý và vận hành tốt và liên tục bảo trì đạt tương ứng 47,1 % và 58,8 %. Có 39,2 % Bệnh viện có kế hoạch ứng phó sự cố và chỉ 2 % Bệnh viện có giải quyết và xử lý nước thải phát sinh từ lò đốt. Tỷ lệ Bệnh viện có tác dụng quan trắc khí thải lò đốt CTRYT đạt QCVN 02 : 2012 / BTNMT chỉ chiếm 3,9 % ( Bảng 8 ) .
Trong 92 Bệnh viện có 11 Bệnh viện có lò hấp CTYT. Tỷ lệ đạt tổng thể những tiêu chuẩn tương quan đến quản trị, sử dụng lò hấp tại Bệnh viện là 36,4 %. Cụ thể, 100 % Bệnh viện có quy trình tiến độ hướng dẫn quản lý và vận hành lò hấp, 81,8 % Bệnh viện có giải quyết và xử lý nước thải phát sinh, 72,7 % Bệnh viện có thực trạng quản lý và vận hành lò hấp tốt. Tỷ lệ Bệnh viện có bảo trì liên tục lò hấp đạt 54,5 %, 36,4 % Bệnh viện có kế hoạch ứng phó sự cố, nhìn nhận hiệu suất cao bất hoạt vi sinh vật với tần suất nhìn nhận theo pháp luật tại QCVN 55 : 2013 / BTNMT .
3.2. Dịch Covid-19 và vấn đề CTYT nguy hại
Dịch Covid-19 đã để lại cho Trung Quốc lượng lớn CTYT. Hơn 20 thành phố tăng cường xử lý rác thải. Vũ Hán, trung tâm của dịch, bị ảnh hưởng nặng nề nhất, đang phát thải trên 240 tấn rác y tế mỗi ngày buộc chính quyền phải triển khai các cơ sở xử lý di động (South China Morning Post, 12/3/2020).
Theo Trung tâm Khoa học và Môi trường ( CSE ), Ấn Độ đã tận mắt chứng kiến sự ngày càng tăng đáng kể CTR nguy cơ tiềm ẩn từ những Bệnh viện do tương quan đến Covid-19 trong tháng 4 – 5/2021 ( India Today 12/6/2021 ) .
Báo cáo công bố gần đây của Ấn Độ cho thấy, sự ngày càng tăng đáng kể trong việc phát sinh chất thải y sinh tương quan đến Covid-19 trong đợt bùng phát lần thứ hai, ” Ấn Độ phát thải 139 tấn chất thải Bệnh viện tương quan đến Covid-19 mỗi ngày vào tháng 4/2021, khi vương quốc này phải chống chọi với làn sóng thứ 2 của dịch Covid-19 và số lượng này vào tháng 5/2021, đã tăng lên tới 203 tấn mỗi ngày, tương tự tăng 46 % ” .
Đối với Nước Ta, qua những đợt dịch bùng phát dịch Covid-19 từ năm 2020 – 2021, chưa có thống kê hay tìm hiểu an toàn và đáng tin cậy nào cho biết mức phát thải CTR y tế nguy cơ tiềm ẩn biến hóa. Nhưng với việc ngày càng tăng đáng kể những loại vật tư tiêu tốn sử dụng một lần cho điều trị bệnh nhân Covid-19, cho lấy mẫu khám sàng lọc, cho những khu vực cách ly tập trung chuyên sâu … thì lượng CTYT nguy cơ tiềm ẩn tăng lên lớn .
Chưa có đo lường và thống kê đúng chuẩn về tổng lượng CTYT trên toàn thế giới từ khi COVID-19 trở thành đại dịch, nhưng thông tin từ những vương quốc và vùng chủ quyền lãnh thổ cho thấy sự ngày càng tăng chóng mặt so với trước đó. Theo tờ The Verge, chỉ tính riêng tại Vũ Hán, lượng rác thải y tế tại những bệnh viện đã tăng gấp 6 lần so với trước khi khủng hoảng cục bộ xảy ra, ước tính mỗi ngày có tới 240 tấn rác .
4. Bàn luận
Kết quả quan trắc môi trường tại 92 Bệnh viện hạng 1 tuyến Trung ương và tuyến tỉnh cho thấy, lượng CTYT phát sinh theo kg/giường bệnh/ngày trung bình là 1,77±0,90 kg/giường bệnh/ngày, trong đó 0,22 ± 0,15 kg/giường bệnh/ngày là CTYT lây nhiễm. Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu trên 7 Bệnh viện huyện của TP. Hải Phòng năm 2015 với lượng chất thải phát sinh là 1,02 kg/giường bệnh/ ngày, chất thải lây nhiễm là 0,99. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi thấp hơn lượng chất thải tại Pakistan với 2,07 kg/giường bệnh/ngày (khoảng từ 1,28-3,47) [10]. Kết quả thấp hơn so với nghiên cứu của Eker
H. H. và tập sự ( 2011 ) nghiên cứu và điều tra trên 357 cơ sở y tế tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy, lượng CTR hoạt động và sinh hoạt so với khu nội trú là 4,23 ± 9,98 kg / giường bệnh / ngày, khu ngoại trú là 3,62 ± 33,19 kg / giường bệnh / ngày. Tuy vậy, lượng CTRYT nguy cơ tiềm ẩn khu nội trú là 0,168 ± 0,649 kg / người / ngày, ngoại trú là 0,018 ± 0,062 kg / người / ngày .
Nghiên cứu này cho thấy, có sự độc lạ có ý nghĩa thống kê lượng 1 số ít loại chất thải theo những tuyến, theo những tuyến bệnh viện đa khoa và chuyên khoa, theo mô hình bệnh viện. Trong đó, lượng chất thải nói chung tuyến tỉnh cao hơn tuyến Trung ương ; tuy nhiên, với chất thải lây nhiễm thì tuyến Trung ương cao nhất, tiếp đến tuyến tỉnh và tuyến huyện. Kết quả nghiên cứu và điều tra tương tự như với số liệu tổng hợp của WHO tại Nam Phi, trong đó Bệnh viện tuyến Trung ương là 1,24 kg / giường bệnh / ngày, tuyến tỉnh 1,53 kg / giường bệnh / ngày ; Bệnh viện khu vực 1,05 kg / giường bệnh / ngày ; Bệnh viện huyện 0,65 kg / giường bệnh / ngày .
Như vậy, ở mỗi bệnh viện khác nhau có lượng chất thải và thành phần CTR phát sinh là khác nhau, do vậy việc góp vốn đầu tư công nghệ tiên tiến cũng như thực hành thực tế thu gom, giải quyết và xử lý chất thải là khác nhau. Tuy nhiên, cũng cần chú ý quan tâm rằng lượng chất thải và thành phần chất thải không riêng gì nhờ vào vào quy mô, mô hình, dịch vụ khám, chữa bệnh mà còn phụ thuộc vào vào thực hành thực tế của cán bộ y tế và mỗi người bệnh .
Kết quả tìm hiểu của nghiên cứu và điều tra này chỉ ra rằng, hầu hết những bệnh viện ( 95,7 % ) đều thuê giải quyết và xử lý CTR thường thì, còn lại tỷ suất nhỏ bệnh viện vận dụng chiêu thức chôn lấp CTR ngay tại khuôn viên cơ sở. Kết quả này cũng tương đương với nghiên cứu và điều tra của tác giả Đặng Ngọc Chánh và tập sự tại 30 bệnh viện khu vực miền Nam năm năm ngoái ( 94 % bệnh viện có hợp đồng giải quyết và xử lý chất thải hoạt động và sinh hoạt với đơn vị chức năng có giấy phép ) .
Đối với chất thải nguy cơ tiềm ẩn có rủi ro tiềm ẩn lây nhiễm, chiêu thức vừa thuê giải quyết và xử lý và vận dụng lò đốt tại những bệnh viện chiếm hầu hết ( 88 % ). Các bệnh viện còn lại thuê giải quyết và xử lý và lò hấp ( 12 % ). Riêng so với CTYT hóa học, 45,7 % được thuê giải quyết và xử lý và 54,3 % còn lại sẽ trả lại nhà phân phối giải quyết và xử lý. Các CTYT nguy cơ tiềm ẩn khác ( chất thải phóng xạ, bình ga, bình khí dung … ) được thuê giải quyết và xử lý ở tổng thể những bệnh viện khảo sát ( 100 % ). Tỷ lệ Bệnh viện có sử dụng lò đốt để giải quyết và xử lý CTYT trong điều tra và nghiên cứu này cao hơn điều tra và nghiên cứu của Phạm Minh Khuê, Phạm Đức Khiêm tại Bệnh viện tuyến huyện TP. Hải Phòng năm năm ngoái, với 14,3 % .
Bảng 5. Các phương thức xử lý CTYT tại các Bệnh viện
Loại chất thải
|
Phương thức xử lý
|
Trung ương (n=34)
|
Tuyến tỉnh (n=58)
|
Chung (n = 92)
|
P
|
SL
|
%
|
SL
|
%
|
SL
|
%
|
CTYT thường thì
|
Thuê giải quyết và xử lý
|
34
|
100
|
55
|
94,8
|
89
|
96,7
|
> 0,05 *
|
Chôn lấp tại Bệnh viện
|
0
|
0
|
3
|
5,2
|
1
|
3,3
|
CTYT nguy cơ tiềm ẩn lây nhiễm
|
Thuê giải quyết và xử lý
|
26
|
76,5
|
9
|
15,5
|
35
|
38,0
|
< 0,001 *
|
Thuê giải quyết và xử lý và Lò đốt
|
2
|
5,9
|
44
|
75,9
|
46
|
50,0
|
Thuê giải quyết và xử lý và Lò hấp
|
6
|
17,6
|
5
|
8,6
|
11
|
12,0
|
CTRYT hóa học
|
Thuê giải quyết và xử lý
|
18
|
52,9
|
24
|
41,4
|
42
|
45,7
|
> 0,05 * *
|
Trả lại nhà cung ứng
|
16
|
47,1
|
34
|
58,6
|
50
|
54,3
|
CTRYT nguy cơ tiềm ẩn khác
|
Thuê giải quyết và xử lý
|
34
|
100
|
58
|
100
|
92,0
|
100
|
–
|
Lưu trữ tại Bệnh viện
|
0
|
0,0
|
0
|
0,0
|
0
|
0,0
|
* Fisher Exact test
* * Pearson Chi-Square
Bảng 6. Tỷ lệ lò đốt đạt tiêu chí đánh giá tại các Bệnh viện (n=51)
Tiêu chí đánh giá
|
SL
|
Tỷ lệ
%
|
Số Bệnh viện có lò đốt
|
51
|
100
|
Nhiệt độ vùng đốt sơ cấp ( ³ 650 oC )
|
43
|
84,3
|
Nhiệt độ vùng đốt thứ cấp ( ³ 1050 oC )
|
29
|
56,9
|
Thời gian lưu cháy trong vùng đốt thứ cấp ( ³ 2 giây )
|
49
|
96,1
|
Lượng oxy dư ( đo tại điểm lấy mẫu ) ( 6-12 % )
|
50
|
98,0
|
Nhiệt độ bên ngoài vỏ lò ( hoặc lớp chắn cách ly nhiệt ) ( ≤ 60 oC )
|
26
|
51,0
|
Nhiệt độ khí thải ra thiên nhiên và môi trường ( đo tại điểm lấy mẫu ) ( ≤ 180 oC )
|
15
|
29,4
|
Chiều cao ống khói ( ³ 20 m )
|
12
|
23,5
|
Có mạng lưới hệ thống giải quyết và xử lý khí thải
|
47
|
92,2
|
Đạt tổng thể những chỉ tiêu
|
2
|
3,9
|
Bảng 7. Thực trạng quản lý, sử dụng lò đốt tại Bệnh viện (n=51)
Tiêu chí đánh giá
|
Số lượng
|
Tỷ lệ
%
|
Vận hành tốt
|
24
|
47,1
|
Bảo dưỡng liên tục
|
30
|
58,8
|
Có quá trình hướng dẫn quản lý và vận hành
|
41
|
80,4
|
Có kế hoạch ứng phó sự cố
|
20
|
39,2
|
Có giải quyết và xử lý nước thải phát sinh
|
1
|
2,0
|
Có phân định tro xỉ theo lao lý tại QCVN 07 : 2009 / BTNMT
|
43
|
84,3
|
Thông số quan trắc khí thải lò đốt đạt QCVN 02 : 2012 / BTNMT
|
2
|
3,9
|
Số Bệnh viện có lò đốt
|
51
|
100
|
5. Kết luận
Tình hình dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, việc khám chữa bệnh, cách ly người nhiễm, nghi nhiễm tại các cơ sở tập trung, khuynh hướng áp dụng hình thức cách ly tại hộ gia đình sẽ tiếp tục dẫn đến việc gia tăng một số lượng lớn CTYT nguy hại, cần được đánh giá chính xác, quản lý chặt chẽ và xử lý có hiệu quả.
Phạm Ngọc Châu
Học viện Quân y
Đàm Thương Thương
Viện Sức khỏe nghề nghiệp và thiên nhiên và môi trường, Bộ Y tế
( Nguồn : Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số Chuyên đề Tiếng Việt II / 2021 )
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
Bộ Y tế. Điểm tin y tế ngày 15/12/2017 .
-
Chartier Y et al. Safe management of wastes from health – care activities. World Health Organization. 2014 .
-
Tạp chí Môi trường. Các bệnh viện thực thi phân loại rác thải tại nguồn 2019 .
-
Bộ Y tế. Sổ tay hướng dẫn quản trị chất thải y tế trong bệnh viện. Nhà xuất bản Y học Thành Phố Hà Nội. 2015 .
-
Komilis D., Fouki A. and Papadopoulos D. ( 2012 ). Hazardous medical waste generation rates of different
categories of health-care facilities. Waste Manag, 32(7): 1434-41.
-
Sanida G., Karagiannidis A., Mavidou F., et al. ( 2010 ). Assessing generated quantities of infectious medical wastes : a case study for a health region administration in Central Macedonia, Greece. Waste Manag, 30 ( 3 ) : 532 – 8 .
-
South China Morning Post, 12/3/2020, Mountain of hospital waste in Wuhan in Covid-19 2020 .
-
India today, 12/6/2021. 46% increase in Covid biomedical waste in April-May, says report.
THE STATUS OF EMISSIONS OF MEDICAL SOLID WASTE OF HOSPITALS AND CHALLENGES IN THE PREVENTION OF COVID-19
Pham Ngoc Chau – Military Academy of Medicine
Dam Thuong Thuong – Institute of Occupational Health and Evironmetal Hygiene
ABSTRACT
The study aims to describe the current situation of medical solid waste emissions from first-class hospitals as scientific evidence for appropriate management of medical waste from hospital therapy activities. Methods: cross-sectional study design, subjects were 34 central level 1 hospitals and 58 grade 1 provincial hospitals. Collecting secondary data through environmental monitoring results of 4 MOH specialized institutes combined with field investigation and in-depth interviews. Results: Average emission 1.7 kg/GB/day, of which hazardous waste is 0.24 kg/GB/day. Central hospitals emit more emissions than provincial hospitals, there is no difference in emissions between general and specialized hospitals, emissions spike in hospitals that treat Covid-19 patients. Conclusion: The average MSW emission is 1.74 kg/GB/day, of which 85.56% is common waste, 13.63% infectious waste, 0.81% other hazardous waste, risk sudden increase in emissions if the hospital accepts treatment for Covid-19 patients.
Key word: Medical solid waste, grade 1 hospital, average daily emission.