Cần hoàn thiện các quy định pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển
07/01/2019
Nước Ta đã phát hành nhiều văn bản pháp lý về trấn áp ô nhiễm môi trường biển, pháp luật khá đơn cử về nghĩa vụ và trách nhiệm, nghĩa vụ và trách nhiệm của những chủ thể trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn ngừa, giải quyết và xử lý ô nhiễm môi trường biển. Nhưng thực tiễn trấn áp ô nhiễm môi trường biển những năm qua cho thấy, những pháp luật pháp lý về yếu tố này vẫn còn nhiều hạn chế, chưa ổn .
Theo Tiến sĩ Bùi Đức Hiển,Viện Nhà nước và Pháp luật, để tạo thực hiện kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, pháp luật hiện hành quy định có 2 nhóm quy chuẩn kỹ thuật về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển. Đó là Nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với nước biển và Nhóm quy chuẩn với chất thải, nước thải ra biển. Trên cơ sở đó, năm 2015, Việt Nam đã ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 10-MT:2015/BTNMT về chất lượng nước biển, để đánh giá và kiểm soát chất lượng nước biển của các vùng biển, phục vụ mục đích thể thao, giải trí dưới nước, nuôi trồng thủy sản, bảo vệ môi trường biển và các mục đích khác; các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quản lý chất thải nhằm kiểm soát hiệu quả ô nhiễm môi trường biển.
Tuy vậy, qua nghiên cứu và điều tra cho thấy, đa phần những quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về chất thải, nước thải ra biển đã được ban hành cách đây hơn 10 năm, nhiều thông số kỹ thuật đã bị lỗi thời so với quy chuẩn của khu vực và quốc tế, không cung ứng được nhu yếu trấn áp ô nhiễm môi trường biển trên trong thực tiễn. Chẳng hạn như quy chuẩn kỹ thuật vương quốc QCVN 10 : 2008 / BTNMT về chất lượng nước biển ven bờ ; quy chuẩn kỹ thuật vương quốc QCVN 11 : 2008 / BTNMT về nước thải công nghiệp chế biến thủy hải sản ; quy chuẩn kỹ thuật vương quốc QCVN 38 : 2011 / BTNMT về chất lượng nước mặt bảo vệ đời sống thủy sinh …
( Ảnh minh họa : IE )
Luật BVMT năm 2014; Luật Tài nguyên, Môi trường Biển và hải đảo năm 2015; Bộ luật Hàng hải năm 2015; Luật Dầu khí năm 1993, sửa đổi, bổ sung năm 2008; Luật Du lịch năm 2005; Luật Thủy sản năm 2017 và các văn bản hướng dẫn, quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển đều quy định dựa trên nguyên tắc BVMT phải lấy phòng ngừa là chính. Song thực tế còn nhiều bất cập như chưa xây dựng được Danh mục thu hút đầu tư các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thân thiện môi trường theo quan điểm đề ra trong Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 432/QĐ-TTg; thiếu các quy định cụ thể về phát hiện ô nhiễm môi trường biển; thiếu các công cụ đánh giá thiệt hại do ô nhiễm môi trường biển gây ra…
Cụ thể, trong Luật BVMT năm năm trước đã có lao lý chung về phát hiện ô nhiễm môi trường, như quan trắc môi trường, thông tin về tình hình môi trường, thanh tra, kiểm tra ô nhiễm môi trường, nhưng chưa lao lý đơn cử về phát hiện ô nhiễm môi trường biển. Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo năm năm ngoái có lao lý về yếu tố này đơn cử hơn, nhưng vẫn còn thiếu những yếu tố bảo vệ cho quy trình này. Chẳng hạn nguồn lực con người, kinh tế tài chính, cơ sở vật chất, khoa học công nghệ tiên tiến, đặc biệt quan trọng là chưa có pháp luật về ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Về thông tin tình hình môi trường biển, những lao lý pháp lý mới đa phần nhấn mạnh vấn đề hợp tác san sẻ thông tin ô nhiễm môi trường biển mà chưa nhấn mạnh vấn đề đến hợp tác san sẻ kinh nghiệm tay nghề, nguồn kinh tế tài chính, khoa học công nghệ tiên tiến để tạo cơ sở tổng hợp cho trấn áp ô nhiễm môi trường biển được hiệu suất cao. Hơn nữa, pháp lý vẫn chưa lao lý và nhìn nhận đúng mức vai trò của hội đồng, truyền thông báo chí, tổ chức triển khai cá thể sử dụng biển như ngư dân, thủy thủ tàu biển, những lực lượng trên biển … trong giám sát, phát hiện ô nhiễm môi trường biển, trong khi đó đây là những chủ thể quan trọng .
Theo pháp luật của pháp lý, giải quyết và xử lý ô nhiễm môi trường biển là nghĩa vụ và trách nhiệm của những chủ nguồn thải, cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền. Ngoài việc phải khắc phục ô nhiễm, phục sinh thực trạng môi trường biển, những chủ thể có hành vi vi phạm pháp lý môi trường hoàn toàn có thể phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý. Tùy theo mức độ vi phạm pháp lý thì chủ thể hoàn toàn có thể phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý khác nhau như nghĩa vụ và trách nhiệm hành chính, hình sự, dân sự, kỷ luật. Thực tế những năm qua cho thấy, môi trường biển ở Nước Ta bị ô nhiễm trầm trọng và có khuynh hướng ngày càng tăng. Trong khi đó nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự với hành vi gây ô nhiễm môi trường, vi phạm những pháp luật về quản trị chất thải, hủy hoại nguồi lợi thủy hải sản … đã được lao lý từ Bộ luật Hình sự năm 1999 đến nay, thậm chí còn trong Bộ luật Hình sự năm năm ngoái và sửa đổi, bổ trợ năm 2017 đã vận dụng nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự với cả pháp nhân có hành vi làm ô nhiễm môi trường, nhưng đến nay chưa có một cá thể, tổ chức triển khai nào bị giải quyết và xử lý hình sự về hành vi này .
Đối với nghĩa vụ và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về TN&MT đã được pháp luật đơn cử tại Nghị định số 03/2015 / NĐ-CP của nhà nước ; Nghị định đã xác lập nghĩa vụ và trách nhiệm nhu yếu bồi thường thiệt hại này thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng vẫn chưa hiệu suất cao. Còn với thiệt hại về sức khỏe thể chất, tính mạng con người, gia tài và quyền lợi hợp pháp của cá thể, tổ chức triển khai đã được lao lý trong Bộ luật Dân sự năm năm ngoái, Luật BVMT năm năm trước. Nhưng đến nay chưa có vụ nhu yếu bồi thường thiệt hại môi trường nào được xử lý tại tòa án nhân dân. Quy định pháp lý hiện hành cũng gây khó khăn vất vả cho cá thể, tổ chức triển khai trong quy trình nhu yếu bồi thường thiệt hại, do khó để chứng tỏ được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi làm ô nhiễm môi trường và thiệt hại xảy ra .
Pháp luật môi trường hiện hành lao lý đơn cử nghĩa vụ và trách nhiệm từ nhà nước đến Ủy Ban Nhân Dân những cấp tỉnh, huyện, xã, cũng như nghĩa vụ và trách nhiệm của những Bộ : Tài nguyên và Môi trường, Giao thông Vận tải, Xây dựng, Quốc phòng, Công an … những Sở, phòng, ban trong trấn áp ô nhiễm môi trường biển, nhưng những năm gần đây môi trường biển Nước Ta vẫn xảy ra thực trạng ô nhiễm. Qua đó cho thấy hiệu suất cao quản trị nhà nước về môi trường biển là rất thấp, trong khi đó chính sách giám sát từ phía Nhà nước cũng như hội đồng, tiếp thị quảng cáo, báo chí truyền thông so với hoạt động giải trí trấn áp ô nhiễm môi trường biển vẫn chưa hiệu suất cao .
Hiện Luật Tài nguyên, Môi trường Biển và hải đảo quy định nội dung các nguồn thải từ đất liền phải được kiểm soát. Tuy vậy trong thời gian vừa qua, thải nhựa trên biển phát sinh nhiều vấn đề báo động. Điều này chứng tỏ việc kiểm soát chất thải từ đất liền vẫn chưa được quan tâm thích đáng. Cần có các quy chế quy định chặt chẽ hơn về vấn đề này. Các nội dung về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo được quy định tại Điều 43, Luật Tài nguyên, Môi trường Biển và hải đảo mới chỉ dừng lại ở mức độ điều tra, thống kê, đánh giá, phân loại ô nhiễm từ nguồn phát thải từ đất liền. Việc thực thi các biện pháp giải pháp, hạn chế, kiểm soát việc ô nhiễm này lại liên quan đến luật môi trường và các luật chuyên ngành trên đất liền. Điều đó làm quá trình kiểm soát ô nhiễm biển từ đất liền không được thực hiện một cách thống nhất liên tục.
Tiến sĩ Bùi Đức Hiển cho rằng, chủ trương pháp lý về bảo vệ TN&MT biển đóng vai trò quan trọng trong quy trình tăng trưởng kinh tế tài chính biển của Nước Ta, nhưng nhiều lao lý pháp lý về trấn áp ô nhiễm môi trường biển đã thể hiện những chưa ổn, hạn chế, dẫn tới môi trường biển ngày càng bị ô nhiễm, suy thoái và khủng hoảng nghiêm trọng. Để tăng cường công tác làm việc bảo vệ môi trường biển, cần điều tra và nghiên cứu và hoàn thành xong những lao lý pháp lý về trấn áp ô nhiễm môi trường biển. Đồng thời, nâng cao hiệu suất cao thực thi pháp lý về trấn áp, tăng cường công tác làm việc phối hợp với những bên tương quan và những cá thể trên biển, cũng như ứng dụng công nghệ tiên tiến mới trong việc trấn áp ô nhiễm môi trường biển .
Đức Anh (Theo tinmoitruong.vn)