|
Công tác quản trị chất thải rắn còn nhiều khó khăn và phức tạp. |
Những nguyên do chính gây nên tình hình này là do thiếu nguồn lực và năng lượng, cũng như chưa có sự phối hợp kinh khủng của những bên tương quan trong thực thi pháp lý về quản trị chất thải rắn ; nhận thức hội đồng chưa cao về thực chất và mối đe dọa của rác thải nhựa ; không nắm rõ những lao lý pháp lý về chất thải rắn và bảo vệ thiên nhiên và môi trường trong kinh doanh thương mại ; tái chế rác thải nhựa chưa có chính sách quản lý và vận hành hiệu suất cao …
Đó là những kết luận chính đã được Quỹ quốc tế Bảo vệ thiên nhiên (WWF) công bố tại hội thảo “Kết quả nghiên cứu về chất thải rắn, rác thải nhựa tại Việt Nam và hướng dẫn xây dựng kế hoạch hành động giảm thiểu rác thải nhựa tại địa phương” được tổ chức từ cuối năm 2019.
WWF cũng chia sẻ những kết quả đánh giá về công tác quản trị chất thải rắn tại cấp trung ương và địa phương; khảo sát nhận thức, quan điểm và thói quen thải loại rác nhựa của gần 400 hộ gia đình, trên 300 hộ kinh doanh quy mô nhỏ và 300 đối tượng thu gom rác tại những khu vực ven biển và kênh rạch tại các địa phương: Quảng Ninh, Đà Nẵng, Kiên Giang và thành phố Hồ Chí Minh; kết quả khảo sát thành phần của gần 200 mẫu chất thải rắn tại 4 tỉnh thành nói trên và tại tỉnh Phú Yên nói riêng.
Nghiên cứu của WWF và các chuyên gia cho thấy, công tác quản trị chất thải rắn còn nhiều khó khăn và phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực và chung tay từ các cấp, các ngành. Dù khung pháp lý của Việt Nam về quản lý chất thải rắn tương đối đầy đủ so với các nước trong khu vực và đang từng bước được kiện toàn; tuy nhiên nguồn lực, năng lực thực thi và cơ chế phối hợp giữa các bên liên quan vẫn là những vấn đề còn nhiều vướng mắc cần có sự chỉ đạo quyết liệt hơn nữa từ các cấp chính quyền. Bên cạnh đó, nhận thức của cộng đồng chưa cao; hơn 50% các hộ kinh doanh quy mô nhỏ thiếu hiểu biết về bản chất của nhựa, tác động của rác thải nhựa và tình trạng rò rỉ rác nhựa ra môi trường; 63% số hộ kinh doanh không nắm được bất cứ một quy định pháp lý nào về chất thải rắn và bảo vệ môi trường và thờ ơ với vấn đề rác thải nhựa diễn ra xung quanh mình. Hiện vẫn còn khoảng 5 – 9% các hộ dân đổ thải trực tiếp ra môi trường dẫn đến tỷ lệ rác nhựa thất thoát ra môi trường ước tính khoảng từ 8 -10%, tương đương 0,4 – 0,7 triệu tấn vào năm 2019. Ước tính khoảng 25% rác thải nhựa tại Việt Nam được quay lại thị trường tái chế thông qua con đường phi chính thức. Kết quả này phù hợp với những nghiên cứu trước đây về lượng rác nhựa thất thoát ra môi trường và tỷ lệ tái chế tại Việt Nam của các tổ chức quốc tế.
Khảo sát sự ủng hộ của người dân với 14 chủ trương tiềm năng về giảm rác nhựa cho thấy người dân đặc biệt quan trọng ủng hộ 3 chủ trương : cấm và phạt với hành vi xả thải bừa bãi ( 63 % ủng hộ ) ; truyền thông online giáo dục về rác thải nhựa ( gần 50 % ủng hộ ) ; hạn chế sử dụng đồ nhựa dùng một lần ( 41 % ). Căn cứ vào những tác dụng điều tra và nghiên cứu thực trạng phát sinh và quản trị rác thải, WWF cùng những chuyên viên đã hướng dẫn những tỉnh thành xác lập những chủ trương về giảm thiểu rác thải nhựa và hoạt động giải trí nâng cao nhận thức, công tác làm việc giáo dục tương thích với điều kiện kèm theo của địa phương và nguồn lực tương hỗ từ những bên tương quan, trong đó có WWF.