Có cảnh tượng thương tâm nào hơn cảnh một em bé mồ côi mẹ chết cóng trong đêm giao thừa. Câu chuyện về “ Cô bé bán diêm ” của An – Đec – Xen đã đưa người đọc đến với quốc gia Đan Mạch vào những năm giữa thế kỷ XIX bần hàn, bần hàn. Đan Mạch là một nước nhỏ thuộc khu vực Bắc Âu, diện tích quy hoạnh chỉ bằng một phần tám diện tích quy hoạnh nước ta, thủ đô hà nội là Cô-pen-na-ghen. An-Đec-Xen là nhà văn nổi tiếng nhất của Đan Mạch .
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- An-Đec-Xen ( 1805 – 1875 ) là nhà văn nổi tiếng nước Đan Mạch với loại truyện kể về trẻ nhỏ. Nhiều truyện ông biên soạn lại từ truyện cổ tích, nhưng cũng có những truyện do ông trọn vẹn phát minh sáng tạo ra .
- Nhiều truyện ngắn của An-Đec-Xen đã đi cùng tuổi thơ của biết bao em nhỏ khắp năm châu : Cô bé bán diêm, Nàng tiên cá, Nàng công chúa và hạt đậu …
-
Các truyện của ông nhẹ nhàng, tươi mát, toát lên lòng yêu thươn con người, nhất là những người nghèo khổ và niềm tin vào sự thắng lợi cuối cùng của cái tốt đẹp trên thế gian.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Cô bé bán diêm” sáng tác năm 1845, ra đời vào thời điểm Am-Đec-Xen sáng tác nhiều nhất.
b. Tóm tắt: Cô bé bán diêm
Trong đêm giao thừa, trời rét mướt, có một cô bé đầu trần, chân đi đất, bụng đói đang rầu rĩ đi bán diêm trong bóng tối. Cô bé bán diêm ấy đã mồ côi mẹ và cũng đã mất đi người yêu quý em nhất là bà nội. Em không dám về nhà vì sợ bố sẽ đánh em. Vừa lạnh vừa đói, cô bé ngồi nép vào một góc tường rồi khẽ quẹt một que diêm để sưởi ấm. Que diêm thứ nhất cho em có cảm xúc ấm cúng như ngồi bên lò sưởi. Em vội quẹt que diêm thứ hai, em được thấy một bàn ăn thịnh soạn hiện lên. Rồi em quẹt que diêm thứ ba và được thấy cây thông Nô-en. Quẹt que diêm thứ tư : bà nội hiền hậu của em hiện lên xinh xắn, thân thiện và phúc hậu biết mấy. Nhưng ảo ảnh đó nhanh gọn tan đi sau sự vụt tắt của que diêm. Em hấp tấp vội vàng quẹt hết cả bao diêm để mong níu bà nội lại. Cô bé bán diêm đã chết trong giá rét khi mơ cùng bà bay lên cao mãi .
c. Bố cục: 3 phần
- Phần 1 : Từ đầu … cứng đờ ra : Hoàn cảnh của cô bé bán diêm
- Phần 2 : Tiếp theo … về chầu thượng đế : Những lần quẹt diêm của cô bé
- Phần 3 : Còn lại : Cái chết của cô bé bán diêm
II. Tìm hiểu văn bản
1. Cô bé trong đêm giao thừa
a. Gia cảnh của cô bé bán diêm
- Mẹ chết, sống với người bố khó chiều chuộng, bà nội – người yêu thương em cũng đã qua đời .
- Nhà nghèo, sống “ chui rúc trong xó tối tăm ”. “ trên gác sát mái nhà ”, em “ luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa ” .
- Vì gia cảnh nghèo túng mà em phải đi bán diêm để kiếm sống .
b. Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa
- Ở đoạn đầu của tác phẩm, tác giả đã sử dụng rất thành công nghệ thuật trái chiều – tương phản .
+ Trời đông rét mướp tuyết rơi > < cô bé thì “ đầu trần, chân đi đất, bụng đói, đang dò dẫm trong bóng tôi ” .
+ Ngoài đường thì lạnh buốt và tối đen > < nhưng “ hành lang cửa số mọi nhà đều sáng rực ánh đèn ” .
+ Em bé “ bụng đói ”, cả ngày chưa siêu thị nhà hàng gì > < mà “ trong phố sực nức mùi ngỗng quay ” .
- Những hình ảnh trái chiều tương phản có tính năng rất lớn, nhằm mục đích làm điển hình nổi bật tình cảm rất là tội nghiệp : rét, đói, khổ của em bé – đã rét lại càng rét hơn khi thấy “ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn ” ; đã đói lại càng đói hơn khi “ trong phố sực nức mùi ngỗng quay ” .
- Ngoài ra, hình ảnh “ cái xó tối tăm ” em sống chui rúc với bố lúc bấy giờ và “ ngôi nhà xinh xắn có dây trưỡng xuân xung quanh ” năm xưa khi bà nội em còn sống .
- Hình ảnh tương phản này không chỉ làm điển hình nổi bật nỗi khổ về vật chất mà cả sự mất mát về chỗ dựa ý thức của em bé vì chỉ có bà nội là người thương em .
- Đến tận đêm vẫn không bán được bao diêm nào, vẫn không dám về vì sợ bố đánh .
=> Hoàn cảnh thật đáng thương. Chưa cần biết diễn biến của câu truyện thế nào, chỉ nội một cảnh tiên phong cũng đã gợi ra rất nhiều thương tâm, đồng cảm trong lòng người đọc .
c. Cảnh thực và những ảo ảnh
- Đêm giao thừa đơn độc, ngập chìm trong tuyết lạnh, cô bé : “ thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em cảm thấy rét buốt hơn ”, “ lúc này đôi bàn tay ” mỗi lúc lại “ cứng đờ ra ” .
- Trong tình cảnh đó, cô bé đã nghĩ tới việc đánh diêm để “ hơ ngón tay ”, để phần nào xua đi cái đơn độc lạnh cóng .
- Câu chuyện được liên tục nhờ chí tiết lặp lại và biến hóa rất tự nhiên, hài hòa và hợp lý và mê hoặc qua cụ thể 5 lần cô bé quẹt diêm. Trong đó, cảnh thật và cảnh ảo xen kẽ nhau .
-
Lần thứ nhất:
+ Cảnh ảo : “ Hiện ra lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng tỏa ra hơi nóng dịu dàng êm ả ” .
+ Cảnh thật : Bên tay cầm diêm, ngón cái nóng bỏng lên .
=> Đó là hình ảnh tưởng tượng tiên phong vì em đang rét cóng nên mơ ước tiên phong, gần nhất ắt phải là cái lò sưởi. Điều mơ ước đó là thiết thực và hài hòa và hợp lý. Tuy nhiên, khi “ em vừa duỗi chân ra sưởi thì ngon lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất ”. Ước mơ và hiện thực là một khoảng cách xa vời. Một cái lò sưởi trong đêm đông giá rét, một mái nhà ấm cúng mãi mãi là tham vọng, là khát vọng của em bé mà thôi .
+ Cảnh ảo : một bàn ăn sang chảnh, thức ăn ngon lành tỏa mùi thơm ngào ngạt : “ Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Em nhìn thấu vào tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá và có cả một con ngỗng quay ” .
+ Cảnh thực : là khi que diêm vừa tắt thì “ chẳng có bàn ăn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt … và mấy người khách qua đường quần áo ấm cúng vội vã đi đến những nơi hẹn hò, trọn vẹn lãnh đạm với cảnh bần hàn của em bé bán diêm ”
=> Trong ánh sáng ngắn ngủi của que diêm, em tưởng tượng ra những thứ mình cần, chính do sau cái rét là cái đói. Những bức tường câm lặng, những bức tường không biết nói do chính con người tạo ra để che chở cho người này và để tạo ra sự ngăn cách so với người khác .
+ Cảnh ảo : hiện ra một cây thông noel
+ Cảnh thật : vẫn không đổi .
=> Cây thông noel là mơ ước đi dạo trong đêm giáng sinh mới diễn ra cách đó 5,6 ngày. Cây thông noel đã làm em thèm thuồng thì giờ đây lại hiện ra trước mắt em và lại biến mất trong nháy mắt cùng với ánh lửa que diêm .
+ Cảnh ảo : Hình ảnh người bà đã mất Open, sống lại với nụ cười êm ả dịu dàng với dứa cháu mồ côi nhỏ bé, đáng thương. Em bé cất lời nói với bà để biểu lộ tình cảm nhớ thương bà, ước nguyện đi cùng bà .
+ Cảnh thật : vẫn không biến hóa .
=> Vì trong tình cảm của em bé mẹ và bà là những người yêu dấu em nhất. Nó gắn với trong thực tiễn vì em đang rất đơn độc, bơ vơ, khao khát được yêu thương chăm nom. Những bộc lộ đó để sẵn sàng chuẩn bị hài hòa và hợp lý cho lần quẹt diêm thứ năm – lần sau cuối .
- Lần thứ năm – lần sau cuối : Em quẹt diêm liên tục cho kỳ hết bao diêm để dẫn tới hình ảnh diêm nối nhau chiếu sáng như ban ngày :
+ Cảnh ảo : Hình ảnh bà nội hiện lên trong tưởng tượng chưa khi nào to lớn, đẹp lão như thế. Em muốn níu giữ bà em lại với em. Em lại muốn bà em đi với em, em đi theo bà .
+ Cảnh thật : vẫn không đổi. Em đã chết vì rét trong đêm giao thừa .
- Chỉ là một tưởng tượng, đây là tích tắc em bé đã ra đi vĩnh viễn trong đói khát, rét mướt, trong niềm kỳ vọng tan biến .
- 5 lần quẹt diêm, 5 lần lặp lại và đổi khác, thực tại xen lẫn ảo ảnh, tiếp nối đuôi nhau, trở đi trở lại, tổng thể được sắp xếp và tưởng tượng tuyệt khéo gợi lên cho người đọc vẻ đẹp hồn nhiên, tươi tắn của em bé đáng thương như một tiểu thiên thần .
- Tác giả bày tỏ niềm cảm thông thâm thúy của mình với em bé xấu số. Ngòi bút nhân ái và lãng mạng của nhà văn đã làm cho câu truyện cảm động đau thương vẫn nhẹ nhàng đầy chất thơ .
- Hình ảnh một em bé nghèo nàn, xấu số, đáng thương, đáng trọng. Một con người phải đương đầu với những khó khăn vất vả thử thách ở đời mà vẫn không nguôi mong ước, khát vọng những điều tốt đẹp nhất .
=> Em bé thật tội nghiệp. Người đời đối xử với em quá lạnh nhạt, chỉ có bà và mẹ là yêu thương em nhưng đều đã qua đời. Cha em có lẽ rằng vì quá bần hàn nên cũng đối xử với em thiếu tình thương ; khách qua đường chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em nên em chẳng bán được bao diêm nào ; những người nhìn thấy thi thể em vào sáng ngày mồng 1 tết cũng vô tình và hờ hững .
2. Một cảnh thương tâm
- Ngày mồng một, người ta nhìn thấy thi thể em bé mồ côi ngồi giữa những bao diêm một cách vô tình, hờ hững .
- Chỉ có cái nhìn đầy cảm thông cùng tấm lòng nhân hậu và lãng mạn của An-Đec-Xen mới hoàn toàn có thể viết lại một câu truyện thương tâm mà vẫn làm cho người đọc bớt đi cảm xúc bi thương .
- Cho đến những dòng ở đầu cuối của tác phẩm, nhà văn vẫn dùng hình ảnh trái chiều, tương phản rất rực rỡ : Giữa ngày đầu năm hứa hẹn những mầm sống mới mọc lên, có một em bé chết .
- Miêu tả một cảnh thương tâm về cái chết của cô bé bán diêm, ngòi bút của tác giả vừa thực, vừa mộng. Sự thực là em bé khốn khổ kia đã chết, nhưng đây là một cái chết đẹp, hình hài thể xác chết mà linh hồn, khát vọng của em vẫn sống, sống trên đôi má hồng, đôi môi đang mỉm cười. Rõ ràng, đến với những dòng cuối của áng văn, tình thương, niềm tin con người và khát vọng những điều tốt đẹp nhất con người trong cõi lòng nhà văn Đan Mạch thấm đẫm chất nhân đạo, nhân văn .
- Trong cái xã hội thiếu tình thương, nhà văn An-Đec-Xen đã viết truyện này với toàn bộ niềm cảm thông, yêu thương so với em bé xấu số. Nhưng rõ ràng, truyện ngắn “ Cô bé bán diêm ” là một cảnh tượng thương tâm .
-
Cái chết của cô bé là tiếng nói tố cáo xã hội mạnh mẽ, phê phán lối sống ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà văn kể chuyện thiên tài An-Đéc-Xen.
III. Tổng kết
1. Nội dung
- Qua số phận xấu số của em bé nghèo, tất cả chúng ta thấy được xã hội mà em sống, đó là một xã hội không có tình người. Đồng thời truyện còn có sức tố cáo xã hội ; phê phán lối sống ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của quốc tế văn minh. Câu chuyện còn toát lên niềm thương cảm của nahf văn so với những em bé nghèo nàn. Vì thế, truyện vừa có giá trị hiện thực, vừa có giá trị nhân văn, nhân đạo .
2. Nghệ thuật
- Tác giả thành công xuất sắc trong việc sử dụng nghệ thuật và thẩm mỹ trái chiều – tương phản. Những hình ảnh trái chiều tương phản càng lúc càng nóng bức, trong thực tiễn và mộng tưởng, cuộc sống và ảnh ảo cứ sóng đôi hiện hiện, đan cài, tranh chấp nhau, nâng dần lên, bay cao lên .
- Nghệ thuật kể chuyện mê hoặc, xen kẽ giữa hiện thực và mộng tưởng, với những chi tiết cụ thể tương phản, diễn biến hài hòa và hợp lý, truyền cho tất cả chúng ta lòng thương cảm so với em bé xấu số, lay động trong ta thình thương và niềm tin ở con người .