Tailieumoi. vn xin ra mắt đến những quý thầy cô, những em học viên lớp 9 tài liệu tác giả tác phẩm Bố của Xi-mông hay nhất, gồm 6 trang vừa đủ những nét chính về văn bản như :
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm tay nghề biên soạn chi tiết cụ thể giúp học viên thuận tiện hệ thống hóa kiến thức và kỹ năng từ đó thuận tiện nắm vững được nội dung tác phẩm Bố của Xi-mông Ngữ văn lớp 9 .
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem không thiếu tài liệu tác phẩm Bố của Xi-mông Ngữ văn lớp 9 :
BỐ CỦA XI-MÔNG
Bài giảng: Bố của Xi-mông
( Mô-pa-xăng )
A. Nội dung tác phẩm
Truyện viết về cậu bé Xi-mông. Mẹ của cậu là Blăng-sốt bị một người đàn ông lừa dối rồi sinh ra cậu. Vì thế, dưới con mắt mọi người, cậu bé không có bố. Khi mới đến trường, cậu bị đám bạn chế giễu là không có bố. Cậu cảm thấy xấu hổ, đau đớn và buồn bã. Cậu bé muốn ra bờ sông tự tử, nhưng gặp một bác thợ rèn tên Phi-líp Rê-mi. Bác công nhân hỏi thăm, khuyên cậu không nên tự tử. Xi-mông ý kiến đề nghị Phi-líp làm bố của cậu và ông đồng ý chấp thuận. Hôm sau Xi-mông sung sướng đến trường, lớn tiếng thông tin rằng cậu giờ đây đã có một người cha .
B. Đôi nét về tác phẩm
1. Tác giả
– Mô-pa-xăng ( 1850 – 1893 )
– Là nhà văn Pháp .
– Là tác giả của nhiều tiểu thuyết và hơn 300 truyện ngắn .
– Tác phẩm của ông phản ánh thâm thúy nhiều phương diện của xã hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX .
2. Tác phẩm
a, Hoàn cảnh sáng tác
– Văn bản “ Bố của Xi-mông ” trích trong truyện ngắn cùng tên viết vào nửa cuối thế kỉ XIX.
b, Bố cục
4 phần
– Phần 1 ( Từ đầu → khóc hoài ) : Tâm trạng vô vọng của Xi-mông .
– Phần 2 : ( Tiếp theo → một ông bố ) : Xi-mông gặp bác Phi-líp .
– Phần 3 ( Tiếp theo → bỏ đi rất nhanh ) : Xi-mông dẫn bác Phi-líp về nhà gặp mẹ và nhận làm bố .
– Phần 4 ( Còn lại ) : Câu chuyện ở trường sáng hôm sau .
c, Ý nghĩa nhan đề
– “ Bố của Xi-mông ” – nhan đề gắn với vai trò, ý nghĩa của sự Open nhân vật bác Phi-líp, người chuyển tải thông điệp của Guy đơ Mô-pa-xăng về lòng nhân đạo và ứng xử đầy tình thương yêu giữa con người với con người .
d, Ngôi kể
– Ngôi thứ ba
e, Giá trị nội dung
– Qua diễn biến tâm trạng của Xi-mông, Blăng-sốt, Phi-líp, nhà văn nhắc nhở tất cả chúng ta về lòng yêu quý bè bạn, lan rộng ra ra là lòng yêu quý con người, sự thông cảm với những nỗi đau hoặc lỡ lầm của người khác .
g, Giá trị nghệ thuật
– Ngòi bút miêu tả tâm trạng nhân vật của tác giả thật thâm thúy, tinh xảo : tâm trạng của Xi-mông từ buồn đến vui ; tâm trạng của Blăng-sốt từ ngượng ngùng đến đau khổ, rồi quằn quại, hổ thẹn ; tâm trạng của bác Phi-líp vừa phức tạp, vừa giật mình .
– Hình thức giản dị và đơn giản, trong sáng, bộc lộ một nội dung cô đọng, thâm thúy .
C. Đọc hiểu văn bản
1. Nhân vật Xi-mông
– Tuổi tác, dáng dấp : “ Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh tươi, rất thật sạch vẻ nhút nhát, gần như là vụng dại ” .
– Hoàn cảnh đáng thương :
+ Không có bố, tuổi thơ xấu số với những ánh nhìn dè bỉu, chê bai, lạnh nhạt của mọi người .
+ Lần tiên phong đến trường : bị bạn hữu trêu chọc, nhục mạ và đánh đập .
– Giải quyết mọi việc theo cách rất trẻ con : ra bờ sông định tự tử. Vừa thút thít xong, rất thèm được ngủ, nhưng bất chợt nhìn thấy “ một chú nhái con màu xanh nhảy dưới chân ”, nhu yếu nghịch ngợm trong em lại trỗi dậy : ” Em định bắt nó. Nó nhảy thoát. Em đuổi theo nó và vồ hụt ba lần liền “. Chú nhái xanh khiến Xi-mông “ nhớ đến một thứ đồ chơi … Thế là em nghĩ đến nhà, rồi nghĩ đến mẹ, và thấy buồn vô cùng ” .
– Để làm điển hình nổi bật nỗi đau đớn của Xi-mông, tác giả nhiều lần miêu tả tiếng khóc của em : “ em lại khóc. Người em rung lên … những cơn nức nở lại kéo đến, dồn dập, xốn xang choán lấy em. Em chẳng nghĩ ngợi gì nữa, chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa mà chỉ khóc hoài … ”. Khi gặp bác Phi-líp, em nói không nên lời, cứ bị đứt quãng hoặc lặp đi tái diễn : “ Em vấn đáp, mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào : – Chúng nó đánh cháu … vì … cháu … cháu … không có bố … không có bố … Em bé nói tiếp một cách khó khăn vất vả giữa những tiếng nấc buồn tủi : Cháu … cháu không có bố ”. Thấy mẹ “ Xi-mông nhảy lên ôm lấy cổ mẹ, lại òa khóc ”. Nỗi đau không có bố trở thành nỗi đau ám ảnh, nặng nề đè nén trái tim non nớt của Xi-mông khiến em đau khổ tột cùng và không muốn sống .
– Khát khao chính đáng và mãnh liệt của Xi-mông là có bố và được sống trong tình yêu thương. Chính vì thế, khi bác Phi-líp hứa sẽ cho Xi-mông “ một ông bố ”, Xi-mông vui tươi theo bác về nhà, từ bỏ dự tính tự tử và bảo bác Phi-lip làm bố. Thấy bác không vấn đáp, em sợ mất thời cơ nên dọa bác là em sẽ tự tử. Cuối cùng, khi bác Phi-líp nhận làm bố mình, như một sự hồi sinh kì diệu, Xi-mông hết buồn, tự hào “ đưa con mắt thử thách ” lũ bạn và mặc cho chúng vẫn hô hoán, chế giễu, Xi-mông không bỏ chạy nữa .
=> Qua đoạn trích, nhà văn đã làm điển hình nổi bật hình ảnh chú bé Xi-mông đáng thương với tâm hồn nhạy cảm. Nhân vật Xi-mông được khắc họa qua cái nhìn đầy nhân văn, đầy yêu thương và sự cảm thông của tác giả. Từ đó, ta nhận ra một chân lí giản đơn : có một mái ấm gia đình toàn vẹn, có bố là điều vô cùng niềm hạnh phúc .
2. Nhân vật Blăng-sốt
– Blăng-sốt là cô gái một thời lầm lỡ khiến cho Xi-mông trở thành đứa con không có bố. Nhưng thực ra, chị là người phụ nữ đức hạnh, từng là “một trong những cô gái đẹp nhất vùng”. Bị lợi dụng, bị lừa dối, chị đã vượt qua nghịch cảnh, vượt qua định kiến xã hội để sinh con và nuôi con.
– Bản chất của chị được nhà văn quan tâm bộc lộ qua hình ảnh : “ một ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, rất là thật sạch ”. Ngôi nhà ngăn nắp, ngăn nắp như chính con người chị đã khiến cho không ai hoàn toàn có thể bỡn cợt được. Chị nghèo nhưng sống trong sáng, đứng đắn, trang nghiêm. Thái độ so với khách cũng thể hiện thực chất của chị :
+ Khi gặp Phi-líp, một người lạ, chị “ đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị một kẻ khác lừa dối ” .
=> Là người mẹ yêu thương con bằng cả trái tim .
+ Khi nghe con nói bị bạn đánh vì không có bố, đôi má chị “ đỏ bừng và tê tái đến tận xương tủy, chị ôm con, hôn lấy hôn để, trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi ” .
=> Đó là tình thương con của một người mẹ lầm lỡ. Chị “ hổ thẹn, tĩnh mịch, quằn quại ” trước nỗi vô vọng của con trong khi chính chị cũng là nạn nhân .
+ Trước câu hỏi ngây thơ của con, chị có vẻ như không hề đứng vững được nữa, chị “ dựa vào tường, hai tay ôm ngực ”. Chính đức hạnh, tình mẫu tử thiêng liêng trong con người chị đã khiến bác thợ rèn Phi-líp hiểu bản tính chị không phải là người lẳng lơ, phóng túng. Trong lần lẩm lỡ của tuổi trẻ, chị đáng thương hơn là đáng trách. Với vẻ nề nếp, trung hậu và tấm lòng yêu thương con hết mực, chị là hiện thân của một người phụ nữ mẫu mực và là một người mẹ hiền lương
=> Bằng những chi tiết cụ thể miêu tả tinh tế, tác giả đã khắc họa thành công xuất sắc nhân vật Blăng-sốt – một người phụ nữ đẹp, đức hạnh, yêu thương con hết mực .
3. Nhân vật Phi-líp.
– Phi-lip là một người thợ rèn “ to lớn ”, “ râu tóc đen, quăn ”, “ vẻ mặt nhân hậu ” .
– Phi-líp là một người lao động chân chính, biết san sẻ và cảm thông với những người xấu số. Gặp Xi-mông khóc bên bờ sông, bác đã an ủi và đưa em về nhà .
+ Trên đường đi, bác đã mỉm cười, vì “ bác chẳng không dễ chịu được đến gặp chị Blăng-sốt ”. Phi-líp nghĩ bụng hoàn toàn có thể đùa cợt với chị Blăng-sốt và tự nhủ thầm rằng : “ một tuổi xuân đã lầm lỡ rất hoàn toàn có thể lầm lỡ lần nữa ” .
+ Nhưng khi gặp chị Blăng-sốt, Phi-líp “ bỗng tắt nụ cười, vì bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa ”. Bác “ ngần ngại ”, “ ấp úng ”, lời lẽ trở nên sang trọng và quý phái : “ Đây, thưa chị, tôi dắt về trả cho chị cháu bé bị lạc ở gần bờ sông ” .
– Có trái tim nhân hậu vượt lên những định kiến phi lí, tàn khốc, thô bạo : nhận lời làm bố của Xi-mông .
+ Ban đầu, đó chỉ là sự chấp thuận đồng ý làm yên lòng một đứa trẻ, bác “ cười đáp coi như chuyện đùa ” .
+ Sau đó, bằng tình yêu thương với Xi-mông, bằng sự cảm mến Blăng-sốt, bằng vẻ đẹp ấm cúng tình người luôn cháy sáng trong trái tim mình, Phi-lip đã bảo phủ và chở che cho Xi-mông, bù đắp cho em những mất mát. Hành động “ nhấc bổng em lên, bất ngờ đột ngột hôn vào hai má ” thắp sáng niềm tin cho Xi-mông. Trong phần cuối tác phẩm, bằng việc cầu hôn Blăng-sốt và trở thành bố thực sự của Xi-mông, Phi-lip đã hàn gắn vết thương cho người phụ nữ xấu số khổ đau
=> Phi-líp là hiện thân của tình thương, của niềm hạnh phúc và tình phụ tử thiêng liêng cao quý. Phi-líp là con người thông thường nhưng tạo ra sự những điều khác thường. Phi-lip chính là nhân vật truyền tải thông điệp của tác giả tới mọi người : Hãy sống để cho đi, cho đi tình thương và bạn sẽ nhận lại nhiều hơn thế .
D. Sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy Phân tích Bố của Xi-mông
Dàn ý chi tiết Phân tích Bố của Xi-mông
1. MỞ BÀI
– Giới thiệu sơ lược tác giả, tác phẩm :
+ Guy đơ Mô-pa-xăng là nhà văn hiện thực vĩ đại của nước Pháp trong thế kỉ XIX, một bậc thầy về truyện ngắn với nội dung phản ánh thâm thúy hiện hiện thực xã hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX .
+ Đoạn trích là một phần của truyện ngắn Bố của Xi-mông, khắc họa thành công nét đẹp của các nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt và Phi-líp
2. THÂN BÀI
a) Luận điểm 1: Xi-mông – một đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên nhưng đầy nghị lực
– Xi-mông là một đứa trẻ đáng thương :
+ Một bé trai độ 7 – 8 tuổi, hơi xanh lè, rất thật sạch nhưng có vẻ như nhút nhát .
+ Không biết bố là ai .
+ Bị lũ bạn trêu chọc, em rất đau khổ .
– Tâm trạng ở bờ sông :
+ Xi – mông ra bờ sông định tự tự .
+ Trước cảnh đẹp, trời ấm, ánh nắng mặt trời êm đềm, nước lấp lánh lung linh như ánh gương, … làm em quên đi chuyện đau khổ, chỉ muốn ngủ rồi muốn chơi đùa .
+ Em đuổi theo con nhái rồi vồ hụt, tóm được hai đầu chân sau, rồi bật cười. -> Tâm trạng vui đùa, bị hấp dẫn bởi vạn vật thiên nhiên .
+ Em nhớ mẹ, em lại khóc
-> Tâm trạng của một em bé hiện ra qua cảnh vạn vật thiên nhiên đẹp, hành vi và cử chỉ rất tương thích với tâm lí lứa tuổi .
– Diễn biến tâm lí lứa tuổi được miêu tả tài tình :
+ Tâm trạng khi gặp bác Phi – líp và về nhà
- Như được dịp trút nỗi lòng đau khổ
- Mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào, nấc buồn tủi.
-> Sự bất lực, vô vọng của đứa bé .
+ Khi gặp mẹ : em la khóc, đau đớn, buồn tủi .
+ Hỏi bác Phi-líp : ” Bác có muốn làm bố cháu không ? ” -> mong ước có bố rất mãnh liệt .
=> Lời đối thoại rất tự nhiên, khát khao, tham vọng rất đáng thương, ngây thơ của Xi – mông dù là những điều bình dị nhất .
+ Sáng hôm sau đến trường .
- Xi-mông quát vào mặt chúng: “Bố tao tên là Phi – líp” -> sự hãnh diện, tự hào.
=> Niềm vui, niềm tự hào lớn cho em sức mạnh để sống và học tập .
b) Luận điểm 2: Bác Phi-líp – người thợ rèn có lòng nhân hậu, thương người, đáng quí trọng
– Được ra mắt là một người :
+ Cao lớn, râu tóc quăn đen
+ Vẻ mặt nhân hậu, làm nghề thợ rèn .
+ Bàn tay cứng ngắc, giọng ồm ồm .
– Khi gặp Xi-mông :
+ Đặt tay lên vai em, an ủi và đưa em về .
+ Lúc đầu tâm lý hoàn toàn có thể đùa cợt với chị Blang – sốt nhưng khi gặp bác hiểu chị là người tốt, không hề đùa được .
=> Thương Xi-mông, cảm mến chị Blang-sốt .
– Trò chuyện và nhận làm bố của Xi-mông
=> Bác Phi-líp là người có lòng nhân hậu, thương người, đã cứu sống Xi-mông, nhận làm bố của Xi-mông, đem lại niềm vui cho em, thật đáng quí trọng .
c) Luận điểm 3: Blăng-sốt – người thiếu phụ đẹp, đức hạnh, trót lỡ lầm
– Từng là cô gái đẹp nhất vùng vì nhẹ dạ nên đã một lần lầm lỡ .
– Là một thiếu phụ, to lớn, xanh lè, nghiêm nghị ,
– Sống cùng đứa con trai Xi-mông trong ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, rất là thật sạch .
– Thái độ với khách : đứng nghiêm nghị … như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa. -> Thái độ nghiêm nghị khiến người khác không hề đùa cợt .
– Nỗi lòng với con :
+ Mặt đỏ bừng tái tê đến tận xương tủy, hôn con, nước mắt lã chã .
+ Lặng ngắt và quằn quại vì hổ thẹn
-> Thương và hiểu lòng con .
=> Nghệ thuật miêu tả, nghiên cứu và phân tích tâm lí cho thấy Blăng-sốt là một người thiếu phụ đẹp, đức hạnh, trót lỡ lầm, hoàn cảnh rất cần sự cảm thông .
3. KẾT BÀI
– Khái quát lại giá trị nội dung và thẩm mỹ và nghệ thuật của đoạn trích :
+ Nội dung : Khắc họa hình tượng cậu bé Xi-mông, cảm thông với những nỗi đau hoặc lỡ lầm của người khác, ca tụng tình yêu thương và lòng nhân hậu của con người .
+ Nghệ thuật : Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, mê hoặc ; miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật rực rỡ .
Bài văn mẫu Phân tích Bố của Xi-mông – mẫu 1
Bố của Xi-mông là một truyện ngắn hiện thực khá hay của Guy-đơ Mô-pa-xăng. Truyện này nói lên nỗi đau khổ của em bé Xi-mông và mẹ em vì những thành kiến, thói tục cổ lỗ, khi Xi-mông không rõ bố mình là ai và niềm sung sướng tràn ngập khi em được nhận chú Phi-lip làm bố. Đặc biệt, truyện đã đề cao tấm lòng nhân hậu của Phi-lip người thợ rèn đáng quý mến.
Hành động nhận làm bố Xi-mông của chú bị 1 số ít người cười chê là khờ dại. Thật ra, đó là một việc làm nhân đạo, cao quý. Vì chính việc làm này đã mang lại nhiều sung sướng, niềm hạnh phúc cho Xi-mông, cứu em thoát khỏi cái chết. Bởi lẽ ngay từ ngày tiên phong đi học ở trường Xi-mông đã bị đám bè bạn gian ác, vô ý thức đùa cợt, trêu chọc về việc em không có bố. Bị chế giễu, bị đánh đập, Xi-mông tức giận ném đá vào bọn chúng rồi bỏ đi ra bờ sông. Em đã khóc ròng và nghĩ đến việc nhảy xuống sông cho chết đuối. Em ngắm đàn cá lượn lờ bơi lội, em bắt con nhái chơi, nhưng cái dự tính tự tử ấy cứ lởn vởn mãi. Em lại khóc người em cứ run lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ. Nhưng em không đọc hết được bài kinh vì những cơn nức nở lại dồn dập, xốn xang, choáng ngợp lấy em. Đang lúc đau khổ như thế thì Xi-mông gặp chú Phi-lip. Biết được tình cảnh của em, chú ấy đã dẫn em về nhà. Trước mặt mẹ Xi-mông chú đã vấn đáp câu hỏi của em can đảm và mạnh mẽ và dứt khoát : ” Có chứ, chú có muốn “. Thế là lần thứ nhất chú Phi-lip đã cứu Xi-mông ra khỏi cơn vô vọng giành em ra khỏi tay thần chết. Tuy nhiên so với Phi-lip, lúc đầu chú nghĩ đây là một việc làm nhất thời, cố để an ủi cho Xi-mông trong phút giây thoát khỏi cơn vô vọng. Nhưng sau đó, đến lúc Xi-mông đến nói với chú tại lò rèn : Bố Phi-lip này lúc nãy thằng con bác Mi-cốt bảo con rằng bố không phải là bố của con hẳn hoi vì bố không phải là chồng của mẹ. Lúc này, không còn là nhất thời nữa rồi ! Vấn đề đặt ra trước chú Phi-lip lúc này là một yếu tố trang nghiêm. Xi-mông lại hoàn toàn có thể đứng trước tình thế vô vọng một lần nữa, nếu như chú Phi-lip xem lời nói của mình lần trước là lời nói đùa .
Chính những bác thợ rèn đồng nghiệp của chú Phi-lip, những vị thần khổng lồ ấy đã giúp chú vượt qua định kiến so với mẹ Xi-mông. Chị ta lầm lỗi không phải là do lỗi ở chị ta, để đi đến quyết định hành động sau cuối : ngỏ lời cầu hôn với người phụ nữ đáng thương mến này. Việc làm của chú Phi-lip đã mang lại cho Xi-mông niềm hạnh phúc thật sự, cậu bé nhờ có đủ nghị lực để công bố với những bạn cùng lớp : Bố tớ là Phi-lip Reemi ( bác thợ rèn ) và bố tớ hứa sẽ kéo tai tổng thể những đứa nào bắt nạt tớ .
Chú Phi-lip và những bác thợ rèn trong truyện ngắn này được Guy đờ Mô-pa-xăng miêu tả như những vị phúc thần. Chú đã giải thoát cho Xi-mông khỏi nỗi đau khổ của em và mang lại cho em niềm hạnh phúc. Việc làm ấy cũng giúp cho mẹ Xi-mông thoát khỏi đau khổ do lầm lỡ. Chú Phi-lip và những bác thợ đã nói và làm theo tiếng gọi của lương tri, thoát khỏi những thành kiến hẹp hòi, cổ hủ. Việc làm của họ như là đại diện thay mặt cho sự công minh, cho lòng nhân ái, giúp cho những nhân vật bị đau khổ, xấu số khỏi đau khổ và có niềm hạnh phúc .
Hình ảnh của họ thật đẹp, thật hào hùng mà cũng nhân hậu xiết bao. Có quan điểm cho rằng việc làm của chú Phi-lip : nhận làm bố của Xi mông và làm chồng của mẹ em bé này thật là khờ dại. Không đúng. Phải nói đây là một việc làm nhân đạo, cao quý, xuất phát từ một tấm lòng yêu thương to lớn, đồng cảm thâm thúy so với cảnh ngộ đáng thương mến của Xi mông và của em bé này. Chú đã khơi dậy trong lòng người đọc tình cảm quý mến so với việc làm tốt đẹp, thấm đẫm tình người của một người lao động nhân hậu, cao quý .
Bài văn mẫu Phân tích Bố của Xi-mông – mẫu 2
Với hàng chục tiểu thuyết, khoảng chừng 300 truyện ngắn, tên tuổi Mô-pa-xăng, nhà văn vĩ đại Pháp cuối thế kỷ XIX trở thành bất tử. Cuộc đời nhà văn là những trang buồn. Có lẽ vì vậy nên ông mới viết về thân phận con người với nhiều cảm thương thân thiện thế ?
Truyện ngắn Bố của Xi-mông kể về nỗi tủi nhục của một em bé “không có bố” với bao tình yêu thương, chứa chan tinh thần nhân đạo. Bé Xi-mông và mẹ em – chị Blăng-sốt, thật đáng thương; cuộc đời hai mẹ con để lại trong lòng độc giả nhiều thương cảm. Xi-mông là đứa con ngoài giá thú. Mẹ em là “một cô gái đẹp nhất vùng” đã bị lầm lỡ tình yêu… Hai mẹ con sống âm thầm trong một ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng hết sức sạch sẽ. Người đàn bà này tên là Blăng-sốt, “cao lớn, xanh xao”, phải lao động cực nhọc để nuôi con trước cái nhìn ghẻ lạnh của người đời. Tuổi thơ của Xi-mông là những chuỗi ngày cô đơn trong ngôi nhà nhỏ, lạnh lẽo. Em thiếu tình thương và sự chăm sóc của bố. Trường học cũng không phải là cái nôi hạnh phúc của em. Tám tuổi, em mới được đến trường. Lớp học là nơi hội tụ của những đứa trẻ thô lỗ, cục cằn; cái ác cái xấu sớm ngự trị trong tâm hồn chúng. Xi-mông đau khổ, cay đắng bị lũ trẻ hạ lưu dùng những lời “ác độc” nhất, những tiếng cười khả ố nhất, giễu cợt nhất đẩy dồn em đến chân tường. Xi-mông phải tự vệ và đã bị lũ trẻ “quỷ quái” hành hạ suốt ngày này qua ngày khác. Người đọc đã hơn một thế kỷ nay không khỏi buồn phiền xót xa khi nghĩ về em Xi-mông bị bạn học cùng lớp làm cho đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Bị bọn trẻ “‘xua đuổi”, bị đánh tơi tả, bé Xi-mông đau khổ, bế tắc hoàn toàn. Em phải chết. Em không thể sống trong tủi nhục vì “không có bố”. Dòng sông, nơi em sẽ đến tự tử có thể xoa dịu nỗi đau khổ và cô đơn của em? Một đứa bé 8 tuổi cảm thấy không thể sống trong nỗi đau khổ, nỗi nhục, phải nhảy xuống sông tự tử, thì bi kịch về thân phận con người đã lên đến cực điểm. Tình tiết này rất cảm động và điển hình cho nỗi đau khổ cô đơn của những em bé trên cõi đời vì một lí do nào đó mà “không có bố”.
Xi-mông với bãi cỏ xanh, với chú nhái cạnh dòng sông được miêu tả đầy chất thơ. Thiên nhiên rất đẹp. Trời ấm. Ánh nắng êm đềm sưởi nóng cỏ. Nước lấp lánh lung linh như gương. Bãi cỏ xanh như chiếc nôi xoa dịu nỗi đau khổ đơn độc của em. Xi-mông ngắm dòng sông, em rất thèm được nằm ngủ trên bãi cỏ dưới nắng ấm. Con nhái màu xanh “ giương tròn con mắt có vành vàng ” hình như đã níu giữ chân em trước tử thần ? Xi-mông được sống hồn nhiên trước cảnh sắc vạn vật thiên nhiên. Nhưng nỗi đau về thân phận quá lớn. Đây là hình ảnh Xi-mông : “ Người em rung lên, em quỳ xuống và em đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ ”. Em khóc nức nở. Em “ chỉ khóc mà thôi “. Em chẳng nhìn thấy gì nữa. Em đi dần đến vô vọng. Mô-pa-xăng đã miêu tả tâm ý bé Xi-mông với tổng thể tình thương xót. Ông chỉ cho mọi người thấy rằng, dù vạn vật thiên nhiên có đẹp đến đâu, ngoại cảnh có đẹp đến đâu, con người vẫn xấu số, khó sống nổi trong cảnh ngộ đơn độc và thiếu tình thương, nhất là những đứa bé “ không có bố “. Một trường hợp giật mình đã xảy đến. Chú thợ rèn “ to lớn, râu tóc đều quăn … nhân hậu ” đã đến với Xi-mông. Chú đã ” lau khô ” đôi mắt đẫm lệ của em. Chú đã an ủi em với tình thương của một con người “ có phép lạ ” : “ Thôi nào, nguôi đi nào, cháu bé, rồi đi với chú về nhà mẹ. Người ta sẽ cho cháu … một ông bố ”. Một câu nói đơn giản và giản dị sẽ xoa dịu nỗi buồn nỗi đơn độc cho bé Xi-mông, và cả cho mẹ em – chị Blăng-sốt. Cảnh bé Xi-mông giật mình gặp chú thợ rèn bên bờ sông là cảnh rất cảm động. Em bé thơ ngây được sống, và người ta sẽ cho em “ một ông bố “. Đoạn đối thoại giữa chú thợ rèn và bé Xi-mông thấm đẫm tình cảm nhân đạo. Nước mắt khô dần trên má em ; em đã được chú thợ rèn dắt tay đưa về với mẹ .
Tính cách bé Xi-mông được khắc họa đậm nét khi em gặp lại mẹ. Em hỏi chú thợ rèn: “Chú có muốn làm bố cháu không?”. Khi được chú thợ rèn nhấc bổng lên, hôn vào má em và nói: “Có chứ, chú có muốn” thì tâm hồn em “hoàn toàn khuây khỏa” và em đã khắc cái tên Phi-líp vào lòng, với niềm tự hào “có bố”. Câu nói của Xi-mông như một lời nguyền hẹn ước: “Chú Phi-líp, chú là bố cháu đấy nhé”. Có bố, đó là niềm hạnh phúc của mỗi em bé trên cõi đời. Có bố là có nơi nương tựa. “Con có cha như nhà có nóc” (Tục ngữ). Có bố tức là có quyền làm người. Có bố, tuổi thơ mới thực sự được sống hạnh phúc. Xi-mông đã hãnh diện tuyên bố với lũ bạn “như ném một hòn đá”: “Bố tao đấy, bố tao là Phi-líp”. Em đã có bố. Em cảm thấy mình đã lớn lên! Đó là niềm vui và hạnh phúc tuổi thơ! Đọc truyện Bố của Xi-mông, ai mà không xúc động? Mô-pa-xăng đã từng nếm bao cay đắng về thân phận mồ côi từ độ lên mười, nên ông đã dành cho bé Xi-mông và chị Blăng-sốt bao cảm thông về tình thương san sẻ. Tình cảm nhân đạo dào dạt trang văn của ông. Cái hay của đoạn văn là ở bút pháp tinh tế lấy cảnh để tả tình, là ở nghệ thuật đối thoại, là ở tình huống chú thợ rèn gặp bé Xi-mông ở bờ sông, chú thợ rèn gặp chị Blăng-sốt. “Không có bố thì đau khổ”, “Có bố thì hạnh phúc”.
Như một chân lý giản dị, giàu nhân bản. Bé Xi-mông thật đáng thương và cũng rất đáng yêu!