Phù Nam – Wikipedia tiếng Việt

Phù Nam (chữ Hán : 扶南, tiếng Anh : Funan) là tên gọi được đặt cho một quốc gia cổ trong lịch sử Đông Nam Á, xuất hiện khoảng thế kỉ 1 trước Công Nguyên, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông. Theo nhiều thư tịch cổ Trung Quốc, thì trong thời kỳ hưng thịnh, vương quốc này về phía Đông, đã kiểm soát cả vùng đất phía Nam Trung Bộ (Việt Nam), về phía Tây đến Thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), về phía Nam đến phần phía Bắc bán đảo Mã Lai.

Quốc gia này sống sót cho đến khoảng chừng nửa đầu thế kỷ 7 ( sau năm 627 ) thì bị sáp nhập vào chủ quyền lãnh thổ của Chân Lạp ( Campuchia ). Mãi đến thế kỷ 17 – thế kỷ 18, 1 phần chủ quyền lãnh thổ xưa kia được coi là TT của Phù Nam tách khỏi Chân Lạp để trở thành một bộ phận của chủ quyền lãnh thổ Nước Ta, tức Nam Bộ ngày này .Yếu tố sắc tộc-ngôn ngữ của dân cư Phù Nam vẫn còn đang được tranh luận, chưa thể đưa ra được Kết luận đơn cử từ những vật chứng hiện có. Một số giả thuyết cho rằng đa số dân cư Phù Nam nói những tiếng thuộc nhóm ngôn từ Môn-Khmer, có giả thuyết lại cho rằng họ nói một ngôn từ Austronesian, lại có giả thuyết khác cho rằng Phù Nam là một xã hội đa sắc tộc .

Được biết đến trong các ngôn ngữ ngày nay của khu vực như là វ្នំ Vnom (Khmer) hay នគរភ្ Nokor Phnom (Khmer), ฟูนาน (tiếng Thái), tiếng Trung: 扶南; bính âm: Fúnán, tên gọi Phù Nam không được tìm thấy trong bất kỳ văn bản nào có nguồn gốc tại khu vực này trong thời kỳ đó, và người ta cũng không rõ người Phù Nam dùng tên gọi gì để nói tới chính thể của mình. Tên gọi Phù Nam trong tiếng Việt có lẽ là phiên dịch từ tên gọi tiếng Trung, do tên gọi 扶南 xuất hiện trong các thư tịch Trung Hoa khi mô tả về vương quốc này, và phần lớn các mô tả đó chủ yếu dựa trên báo cáo của hai sứ giả Trung Hoa là Khang Thái (康泰) và Chu Ứng (朱應) đã từng sống tại đây trong khoảng giữa thế kỷ 3 cho vua Đông Ngô ở Nam Kinh.

Chung quanh tên gọi Phù Nam hiện vẫn còn nhiều tranh cãi. Ý kiến được nhiều người tán đồng, đó là Phù Nam do chữ Fou Nan mà ra (gọi theo cách phát âm của người Trung Hoa). Từ ngữ này xuất phát từ ngôn ngữ Môn-Khmer cổ: bnam hay vnam, mà ngày nay được đọc là phnom, có nghĩa là núi hoặc đồi.[1] Tuy nhiên, nhà nghiên cứu văn khắc Claude Jacques chỉ ra rằng diễn giải này dựa trên sự phiên âm sai từ tiếng Phạn parvatabùpála trong các văn khắc cổ như là tương đương với từ Khmer bnaṃ và đồng nhất hóa sai lệch vua Bhavavarman I đề cập trong các văn khắc này như là người chinh phục Phù Nam.[2] Jacques cũng đề xuất loại bỏ việc sử dụng tên gọi Funan trong các ngôn ngữ phương Tây và thay vì thế sử dụng các tên gọi như Bhavapura, Aninditapura, Shresthapura hay Vyadhapura, được biết đến từ các văn khắc đã từng được sử dụng vào thời gian đó để chỉ các đô thị trong khu vực và cung cấp ý tưởng chính xác hơn về địa lý của các khu vực Khmer cổ so với các tên gọi như Funan hay Zhenla (Chân Lạp), những tên gọi không được biết đến trong tiếng Khmer cổ.[3]

Theo tác giả Lương Ninh thì một danh từ chung chỉ núi non không thể là nguồn gốc của tên đất nước, mà phải là cái khác, quý báu hơn: tên tộc người bản địa: Bnam.[4] Theo đó các vua Phù Nam là những người thuộc dòng Vua NúiKurung bnam.[5]

Kinh đô của Phù Nam, theo sách Lương thư và Tân Đường thư là thành Đặc Mục (特牧). Học giả G. Coedes cho đó là phiên âm của từ trong tiếng Phạn là Vyadhapura (pura: thành phố/kinh đô, Vyadha: người đi săn), và thành này ở gần ngọn núi Ba Phnom ở làng Banam, thuộc tỉnh Prey Veng (Campuchia) ngày nay.[1][6] Ngược lại, một số tác giả như Paul Pelliot (1903),[7] P. Dupont (1955), L. Malleret (1962) không tán thành thuyết đó, họ cho rằng kinh đô của Phù Nam có thể là Angkor Borei do nhiều hiện vật khảo cổ có niên đại và phong cách Phù Nam tìm thấy ở đây.[8]

Huyền thoại lập quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Theo Khang thịnh sứ giả của Ngô Tôn Quyền thời Tam Quốc chép trong sách Phù Nam thổ tục thì ông vua đầu tiên của nước Phù Nam, có lẽ là một quý tộc người Ấn Độ hay là một tăng lữ Bà-la-môn tên là Hỗn Điền.[9] Một số học giả phương Tây cho rằng truyền thuyết Hỗn Điền là dị bản của truyền thuyết Ấn Độ về Kaundinya.[10]

Vương triều của Kaundinya sống sót khoảng chừng hơn 150 năm, trải qua 3 đời vua. Các thư tịch cổ của Trung Quốc phiên âm tên 3 vị vua này là Hỗn Điền, Hỗn Bàn Huống ( 127 – 217 ) và Hỗn Bàn Bàn ( 217 – 220 ). [ 10 ]
Ngô Văn Doanh ( 2009 ) dẫn Lương thư cho biết rằng quốc vương ở đầu cuối của Vương triều Kaundinya làm vua được 3 năm thì mất. Một vị tướng của Phù Nam mà Lương thư của Trung Quốc phiên âm là Phạm Sư Mạn lên làm vua, lập ra Vương triều họ Phạm. Theo Lương thư, làm vua được 3 năm thì Phạm Sư Mạn mất. Con ông là Phạm Kim Sinh nối ngôi, làm vua được khoảng chừng 5 năm, đến năm 245 thì bị người anh họ tên Phạm Chiên giết chết để đoạt ngôi. Một người con khác của Phạm Sư Mạn là Phạm Trường đã nổi dậy lật đổ được Phạm Chiên, nhưng cũng lập tức bị tướng của Chiên là Phạm Tầm giết. Phạm Tầm lên làm vua. Phù Nam dưới Vương triều họ Phạm trở nên hùng mạnh. Phạm Sư Mạn đã đem quân đi chinh phạt được tới hơn 10 nước, lan rộng ra đáng kể chủ quyền lãnh thổ. Phạm Chiên đã thôi thúc quan hệ ngoại giao với Ấn Độ. Còn Phạm Tầm đã thôi thúc quan hệ ngoại giao với nhà Tấn ở Trung Quốc. Người Phù Nam đã có chữ viết, kiểu chữ viết có nguồn gốc Ấn Độ. [ 11 ]Cho đến giờ chưa phát hiện được tư liệu nào nói về thời kỳ tiếp sau Phạm Tầm. Các nhà khoa học cho rằng vào khoảng chừng giữa thế kỷ 4, quyền quản lý Phù Nam một lần nữa lại vào tay người Ấn Độ. Lương thư và Tấn thư có nhắc tới một người là Trúc Chiên Đàn đã triều cống Mục Đế. Các nhà khoa học sau này cho đó là người Ấn Độ tên là Chandan hoặc Chandana. [ 12 ]

Đến đầu hoặc giữa thế kỷ 5, vẫn là người Ấn Độ nắm quyền cai trị Phù Nam. Lương thư cho biết một người Thiên Trúc là Kiều Trần Như mà các nhà khoa học sau này cho rằng đó có thể là một người Brahman Ấn Độ cũng lại tên là Kaudinya đã thay đổi chế độ nhà nước Phù Nam sang theo kiểu Ấn Độ.[13] Kiều Trần Như ở ngôi khoảng năm 470 đến 514, tự xưng là Người bảo vệ thánh kinh Vê đa. Vào thời kỳ này, nhiều thương gia Phù Nam sang buôn bán ở Quảng Châu (Trung Quốc).[14]

Khi Kaundinya mất, con là Sri Indravarman ( Lương thư phiên âm là Trì Lê Đà Bạt Ma ) lên thay, và đã cho sứ sang triều cống Tống Văn Đế ( nhà Lưu Tống ) vào những năm 438, 453 và 438. Cũng theo Lương thư, thì năm 431 – 432, nước Lâm Ấp muốn đánh Giao Châu của người Việt, nên có nhu yếu vua Phù Nam giúp sức, nhưng Phù Nam đã khước từ .Khi Sri Indravarman mất, người nối ngôi là Jayavarman ( Lương thư phiên âm là Xà Gia Bạt Ma ). Jayavarman đã phái một nhà sư Ấn Độ tên Nagasena đem lễ vật sang Tặng Kèm vua Nam Tề năm 484, và nhu yếu nhà vua giúp mình đánh Lâm Ấp nhưng bị khước từ khéo. Các nhà khoa học đã phát hiện bia ký viết bằng chữ Phạn cho hay dưới thời Jayavarman Phù Nam đã kiến thiết xây dựng nhiều khu công trình thủy lợi, biến nhiều vùng đầm lầy to lớn ở hạ lưu sông Mê Kông thành những vùng đồng bằng phì nhiêu, phong phú. Năm 514, Jayavarman mất .Kế vị ngôi là Rudravarman ( Lương thư phiên âm là Lưu Đà Bạt Ma ), con cả của Jayavarman. Đây là ông vua sau cuối của Phù Nam. Vào năm 517 và 539, nhà vua đều có sai sứ sang Trung Quốc triều cống .
Giữa thế kỷ 5, Chân Lạp nổi lên, chiếm thành Đặc Mục – kinh đô của Phù Nam, hợp nhất chủ quyền lãnh thổ Phù Nam với Chân Lạp. Nhà vua Phù Nam phải bỏ chạy và lập triều đình lưu vong tại Na Phất Na ( vùng Angkor Borei ). Phù Nam diệt vong .

Sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam (tr. 20) viết:

Sau một thời rực rỡ, đế quốc Phù Nam bắt đầu suy thoái vào cuối thế kỷ thứ 6. Nước Cát Miệt,[15] một thuộc quốc của Phù Nam, đến thế kỷ này đã nhanh chóng phát triển thành một vương quốc độc lập và hùng mạnh. Nhân sự suy yếu của Phù Nam, Chân Lạp đã tấn công và chiếm lấy một phần lãnh thổ (tương đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay) của đế chế này vào đầu thế kỷ 7…

Sách Tùy thư chép tương tự:

Nước Chân Lạp ở về phía Tây Nam nước Lâm Ấp, nguyên là một chư hầu của Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam.[16]

Sách Tân Đường thư do Âu Dương Tu & Tống Ký biên soạn cũng đã cho biết đầu niên hiệu Trinh Quán nhà Đường (627-649); trong nước Phù Nam có thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về Na Phất Na.[17]

Căn cứ năm 627, sứ giả Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường, nên hoàn toàn có thể suy ra nước Phù Nam bị hủy hoại phải sau năm này. [ 18 ]

Sau khi Chân Lạp đánh bại Phù Nam, trong sách Trung Quốc đã xuất hiện tên gọi Thủy Chân Lạp để chỉ phần lãnh thổ Phù Nam trên vùng đất Nam Bộ (Việt Nam); và cũng để phân biệt với vùng đất Lục Chân Lạp, tức là vùng đất gốc của Vương quốc Chân Lạp.[19]

Mặc dầu chiếm đoạt được, nhưng trên thực tiễn, việc quản lý vùng chủ quyền lãnh thổ mới này so với Chân Lạp gặp rất nhiều khó khăn vất vả. Trước hết, với truyền thống lịch sử quen khai thác những vùng đất cao, dân số còn rất ít, người Khmer khi đó khó có năng lực tổ chức triển khai khai thác trên quy mô lớn một vùng đồng bằng mới bồi lấp, còn ngập nước và sình lầy. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên chủ quyền lãnh thổ của Lục Chân Lạp yên cầu rất nhiều thời hạn và sức lực lao động. Việc quản lý xứ Thủy Chân Lạp vì thế vẫn phải giao cho những người thuộc dòng dõi Vua Phù Nam .Theo những tài liệu bi ký còn lại hoàn toàn có thể thấy rằng, vào thế kỷ thứ 8 tại vùng TT của Phù Nam trước kia vẫn còn sống sót một tiểu quốc tên là Aninditapura, do một người thuộc dòng dõi vua Phù Nam tên là Baladitya trị vì. Và khi Phù Nam tan rã là lúc nhiều vương quốc nhỏ ở Khu vực Đông Nam Á nổi lên sửa chữa thay thế vai trò đế quốc hàng hải của vương quốc này, mà điển hình nổi bật là vương quốc Srivijaya ở hòn đảo Sumatra và vương quốc Sailendra ở hòn đảo Java, thuộc Indonesia thời nay .Từ cuối thế kỷ 8, vương quốc Sailendra hùng mạnh đã xâm lăng hàng loạt Thủy Chân Lạp đồng thời đưa Lục Chân Lạp vào vị trí chư hầu của mình, tới đầu thế kỷ 9, Sailendra suy yếu mới từ bỏ vùng đất Thủy Chân Lạp .
Linga được khai thác tại di chỉ Óc Eo ( Bảo tàng An Giang ) .Từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1944, nhà khảo cổ học Pháp Louis Malleret cho khai thác khảo cổ ở Óc Eo, [ 20 ] và đã tìm thấy nhiều di vật quý, có niên đại tương thích với thời kỳ vương quốc Phù Nam sống sót ở đây .Tại di chỉ Bình Tả ( xã Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ), trong đợt khai thác vào tháng 2 năm 1987 do Lê Trung Khá chủ trì, đã phát hiện một di vật có tên Bhavavarman ( tên một hoàng thân Phù Nam ) viết bằng chữ Phạn cổ. Đây là một cứ liệu đúng chuẩn được cho phép gắn liền văn hóa truyền thống khảo cổ Óc Eo với Vương quốc Phù Nam trong lịch sử dân tộc. [ 21 ]

Sau năm 1975, thêm nhiều lần khai quật khảo cổ ở Óc Eo và nhiều nơi khác nữa, thì thấy nền văn hóa này phân bố rất phong phú trên địa bàn các tỉnh như Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Thành phố Hồ Chí Minh…[22] Tất cả theo sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, đã khẳng định rằng Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, mà chủ nhân của nó là những cư dân Phù Nam. Nền văn hóa này phát triển trên nền tảng văn hóa Đồng Nai, có quan hệ mật thiết với nền văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, và có quan hệ giao lưu rộng rãi với các nước ở bên ngoài (qua dấu tích vật chất, cho thấy có sự liên hệ khá mật thiết với Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải).[23]

Từ điển Văn hóa Đông Nam Á cho biết chi tiết:

Ở di chỉ Óc Eo đã phát hiện ra nhiều di chỉ khác nhau như di chỉ cư trú, di chỉ kiến trúc tôn giáo, di chỉ mộ táng… cùng rất nhiều hiện vật quý như tượng thờ, linh vật, phù điêu, con dấu, tiền tệ, di vật bằng vàng, đồ trang sức bằng đá quý, vật dụng bằng đá, đồ gốm, vật dụng bằng gỗ, cốt động vật, cốt thực vật…
Qua phân tích các mẫu vật, đã xác định được niên đại của di chỉ Óc Eo là cuối thế kỷ 2 đến thế kỷ 5. Các hiện vật khảo cổ đã nói lên tầm quan trọng rất lớn trong nền văn hóa được mang tên là Óc Eo ở Đông Nam Á. Theo các nhà nghiên cứu, Óc Eo đã từng là một cảng quan trọng của nhà nước Phù Nam.[24]

Và qua tác dụng xét nghiệm những cốt sọ cùng nhiều hiện vật quý của dân cư Phù Nam, phần nhiều những nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã đưa ra 1 số ít quan điểm, hoàn toàn có thể tóm tắt vào mấy điểm chính như sau : [ 25 ]

  • Hai nhà nghiên cứu là Võ Sĩ Khải & Lê Trung Khá, sau khi tìm thấy hai sọ cổ (cư dân của nền văn hóa Phù Nam) ở Gò Tháp (Đồng Tháp) và Óc Eo năm 1984, đã cho biết rằng: “Hai sọ cổ này mang những đặc điểm thường gặp phải ở số đông người Thượng hiện nay; và thường được xếp vào tiểu chủng hay loại hình nhân chủng Indonésien.[26] Trong quá trình phát triển, có sự tiếp xúc và cộng cư với những yếu tố nhân chủng khác.
  • Chế độ nhà nước là chế độ phong kiến. Vương quyền được kết hợp chặt chẽ với thần quyền, tôn giáo được sử dụng như một công cụ hữu hiệu của giai cấp thống trị.
  • Xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo thành các tầng lớp quý tộc, bình dân và nô lệ.

Đồ trang sức đẹp của dân cư Phù Nam .

Đúc kết lại, sách Lịch sử Campuchia viết:

Trên đây là những nét phát họa của một nền văn minh xuất hiện sớm nhất ở miền Nam bán đảo Inđôchina. Văn minh đó của Phù Nam tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh Ấn Độ. Nhưng tất cả những điều mà chúng ta biết đều chứng tỏ rằng ngay từ thuở ban đầu, văn minh Ấn Dộ chỉ là đến ghép trên miếng đất cũ của nền văn hóa Đông Nam Á bản địa vốn có sẵn, để hình thành một nền văn minh và một nền nghệ thuật hết sức độc đáo.[31]

Trong thư tịch cổ[sửa|sửa mã nguồn]

Quyển sách đầu tiên đề cập đến Vương quốc Phù Nam là Dị vật chí của Dương Phù thời Đông Hán (25-220).

Kế đến là Ngô thư thời Tam Quốc (220-280). Theo sách này thì vào tháng Chạp năm Xích Ô thứ 6 (243), vua Phù Nam là Phạm Chiên có sai sứ đến dâng nhạc công và phương vật cho vua Ngô là Tôn Quyền (182-252).

Bia đá cổ được tạo tác vào thời Phù Nam ( khoảng chừng thế kỷ 2-3 ), được tìm thấy ở Đồng ThápThời gian sau, khi đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, vua Đông Ngô cũng đã sai người đến những nước phương Nam ; thì những nước là Phù Nam, Lâm Ấp ( Chămpa ), Minh Đường thảy đều sai sứ đến dâng cống. [ 32 ]

Lương thư còn cho biết vua (Đông) Ngô là Tôn Quyền đã sai Chu Ứng (Tchou Ying) và Khang Thái (Kang Tai) đi sứ các nước phía Nam, trong số đó có Phù Nam. Sau khi đi sứ về, Khang Thái có viết quyển Phù Nam thổ tục còn gọi là Phù Nam truyện.

Các sách có niên đại muộn hơn vào các thế kỷ 6 và 7 như Trần thư, Tùy thư, Thông điển, Tân Đường thư… đều có ghi chép về đất nước Phù Nam. Trích một vài đoạn:

Nam Tề thư
Người Phù Nam thường buôn vàng bạc, tơ lụa. Con cái nhà quý tộc thường mặc xà-rông bằng lụa the. Đàn bà thì mặc một thứ áo vải luồn qua đầu. Người nghèo thì quấn một mảnh vải thô quanh mình. Họ đúc nhẫn và vòng đeo tay bằng vàng, làm bát đĩa bằng ngọc. Họ đốn cây lấy gỗ làm nhà và rào vườn tược chung quanh nhà. Nhà vua ở trong một nhà lầu có tầng gác. Dọc bờ biển, người ta trồng cây thốt nốt lá dài dùng để lợp nhà. Người ta đóng những chiếc thuyền dài tám, chín trượng (tức hơn 20 m), rộng sáu, bảy phần mười trượng. Mũi thuyền và lái thuyền giống như đầu và đuôi cá. Nhà vua ngự trên mình voi. Đàn bà có thể cưỡi voi đi. Họ thích chơi chọi gà. Họ không có nhà tù. Khi có kiện cáo, tranh chấp, họ vứt nhẫn vàng hoặc trứng vào nước sôi. Ai dùng tay lấy ra mà không bị bỏng thì người ấy được kiện. Hoặc người ta bắt cầm ở tay một chiếc xích nung đỏ rồi đi bảy bước. Ai có tội thì bàn tay bị cháy bỏng, người vô tội thì chẳng có việc gì. Cũng có khi người ta nhận những người kiện xuống nước. Người có tội thì chìm hẳn dưới nước, người vô tội thì nổi lên…
Dưới đời vua Kaunđinya Giayavacman, phong tục của đất nước này là tôn thờ thần Mahaxvara. Thần luôn xuống ngự trên đỉnh Mộtan.[33]

Một trong hai tấm bia đá cổ ở chùa Linh Sơn ( Ba Thê ), có khắc chữ viết của người Phù Nam .

Lương thư
Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam, trong một vịnh lớn ở phía Tây biển. Nước cách Nhật Nam chừng 7.000 lý và cách Lâm Ấp hơn 3.000 lý về phía Tây Nam. Đô thành cách biển 500 lý. Một con sông lớn từ Tây Bắc chảy về phía Đông và đổ ra biển. Nước rộng hơn 3.000 lý. Đất thấp và bằng phẳng. Khí hậu và phong tục đại để giống Lâm Ấp…
…Họ (cư dân Phù Nam) không đào giếng gần nhà ở. Mấy chục gia đình chung nhau xây một cái bể chứa nước để dùng. Họ có tục sùng bái các vị thần trên trời. Họ đúc tượng thần để thờ, tượng có một mặt bốn tay hay tượng bốn mặt tám tay; mỗi tay cầm một vật gì đó, hoặc một đứa bé con, hoặc một con chim, một con thú nào đó, hoặc một hình mặt trời hay Mặt Trăng. Nhà vua thường ngự giá trên mình voi, các cung phi và đình thần cũng vậy. Khi vua ngồi, đầu gối chân phải gấp thẳng đứng, đầu gối chân trái gấp bằng sát đất (tư thế thường thấy ở các pho tượng thần Khơ-me và Ấn Độ). Trước mặt vua, người ta trải một tấm vải trên đặt những lọ bằng vàng và những lư hương. Khi có tang, người ta có tục cạo râu và cạo đầu. Về mai táng có bốn cách: hoặc vứt xác chết xuống dòng sông, hoặc hỏa táng, hoặc đào huyệt chôn, hoặc vứt ngoài đồng nội cho quạ chim mổ xẻ.[34]
Tấn thư
[35]
Phù Nam thổ tục
Vương Quốc Phù Nam bề ngang rộng 399 lý, có nhiều đô thị, có tường cao bao quanh và bên trong có nhà ở… Nước da người dân màu đen, tóc quăn, xấu xí… Đàn ông đóng khố, đàn bà mặc cái chăn tròng từ cổ tới chân, xỏ lỗ tai để đeo bông tòn ten.
Nếp sống tuy rất đơn giản nhưng họ không trộm cắp. Họ làm nghề nông theo lối cổ, gieo trồng một lần gặt hái luôn trong 3 năm. Họ thích điêu khắc và dùng đục chạm trổ rất khéo; nhiều món đồ dùng để ăn cơm như chén đĩa đều làm bằng bạc. Dân chúng đóng thuế bằng vàng bạc, trân châu & dầu thơm… Họ biết đọc sách & có văn khố. Văn tự của họ giống như nét chữ của dân Hồ, một sắc dân ở Trung Á dùng Ấn tự… Cảnh vật trong xứ rất đẹp…

Di chỉ Gò Cây Thị ( Óc Eo )[sửa|sửa mã nguồn]

Nhà tọa lạc di chỉ Gò Cây Thị . Một hố khai thác khảo cổ trong khu di tích lịch sử Nam Linh Sơn, nằm cách chùa Linh Sơn ( Ba Thê ) 60 mDi chỉ Gò Cây Thị thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang ; là một di chỉ cung đình mang tính tôn giáo, gồm tiền điện, chính điện và 4 ô ngăn ; đã được nhà khảo cổ Pháp Louis Malleret khai thác tiên phong vào năm 1944 ( từ tháng 2 đến tháng 4 ). Di chỉ có diện tích quy hoạnh 488,8 m², có dạng gần vuông, quay mặt về hướng Đông, nằm trên cánh đồng Óc Eo, cách di tích lịch sử khu di tích lịch sử Nam Linh Sơn ( núi Ba Thê ) khoảng chừng 1.600 m về phía Đông .Ở quanh khu di chỉ này, Louis Malleret còn tìm được 8 ngôi mộ táng. Hiện vật tìm thấy trong mộ hoặc xung quanh mộ, gồm những thỏi đất sét, mảnh gốm mịn, hạt chuỗi, đá quý, vàng lá, xương răng lợn, xương trâu bò, sừng hươu, than củi …

Di chỉ Gò Tháp[sửa|sửa mã nguồn]

Di chỉ Gò Tháp thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, được thám sát vào năm 1931, 1943 và 1984. Đây là khu di chỉ có những mô hình : cư trú, mộ táng và kiến trúc .

Di chỉ Gò Thành[sửa|sửa mã nguồn]

Di chỉ Gò Thành thuộc ấp Tân Thành ( xã Tân Thuận Bình, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang ), được L. Malleret phát hiện năm 1941. Trong nhiều lần khai thác tiếp theo vào những năm : 1979, 1988, 1989, 1990, đã phát hiện ở độ sâu khoảng chừng 1,5 đến 3 m, có nhiều gốm cổ bị vỡ ; nhiều vòi bình ; nhiều di cốt trâu bò, heo và xương cá ; nhiều dấu vết tro, than, vỏ trái cây, lá dừa nước ; cùng với vài cọc gỗ có dấu vết gia công .Nơi đây cũng đã phát hiện được 5 kiến trúc bằng gạch và 12 ngôi mộ xây bằng gạch có size lớn nhỏ khác nhau. Trong và quanh mộ, ngoài những hiện vật bằng vàng, bằng gốm, đất sét còn có hai tượng thần Visnu bằng đá có kích cỡ khá lớn … Bằng kỹ thuật chuyên ngành, những nhà khảo cổ đã nghiên cứu và phân tích một số ít vật mẫu và Tóm lại rằng khu di tích lịch sử khảo cổ Gò Thành có niên đại từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 8. Đây là một khu di chỉ đặc biệt quan trọng vì nó còn lưu giữ khá nguyên vẹn và đa dạng và phong phú về nhiều mô hình di chỉ như : di chỉ cư trú, di chỉ mộ táng, và nhất là di chỉ kiến trúc với nhiều đền tháp ở cạnh nhau có quy mô khác nhau, rất hoành tráng tuy chỉ còn phần nền …

Di chỉ Gò Cây Tung[sửa|sửa mã nguồn]

Bộ xương của người cổ được khai thác ở Gò Cây Tung ( An Giang, Nước Ta ) năm 1994 – 1995 . Vật dụng hoạt động và sinh hoạt của dân cư Phù Nam .Di chỉ Gò Cây Tung thuộc ấp Thới Thuận, xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, được phát hiện và khai thác vào năm 1994 và 1995. Tại đây, người ta đã phát hiện nhiều ngôi mộ cổ với 23 bộ xương người, trong đó có 9 nam, 7 nữ, còn 7 thành viên chưa rõ giới tính … Ngoài ra, người ta còn tìm được nhiều hiện vật đa dạng và phong phú, gồm có đồ gốm có vẻ như màu, hơn 40 chiếc rìu đá ( có hình tứ giác ) cùng bàn mài, chày nghiền …

Cùng với những di chỉ trên, những di vật và mộ táng được phát hiện rất nhiều ở nơi khác như: Bình Tả (Long An), Gò Cây Duối-Thanh Điền, Tây Ninh, Đá Nổi (Kiên Giang), ND 11 (Khu kinh tế mới Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh), Di chỉ Cây Gáo (Đồng Nai) v.v… đã khẳng định rằng Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, mà chủ nhân của nó là những cư dân Phù Nam.

Phù Nam và Chân Lạp[sửa|sửa mã nguồn]

Bộ cọc gỗ nhà sàn của dân cư Phù Nam ( Bảo tàng An Giang ) .

Sách Lịch sử Campuchia viết:

Cho tới nay, vẫn còn không ít người cho rằng nước Phù Nam là tiền thân của nước Chân Lạp.

Quan điểm nhầm lẫn này được nêu ra tiên phong trong những khu công trình nghiên cứu và điều tra của những học giả của Trường Viễn Đông bác cổ từ nửa đầu thế kỷ 20 .Sau, nhờ những nguồn thư tịch cổ của Trung Quốc và những cuộc khai thác khảo cổ, [ 36 ] những nhà nghiên cứu mới có đủ vật chứng để xác lập hai vương quốc này không phải là một .

Tùy thư chép:

Chân Lạp ở về phía Tây Nam nước Lâm Ấp. Nguyên trước là thuộc quốc của Phù Nam. Sau họ ngày một hùng cường, vua Chân Lạp là Ksatriya Citrasena chiếm được Phù Nam và bắt thần phục…[37]

Sử nhà Lương chép :

Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam, trong một vịnh lớn ở phía Tây biển. Nước cách Nhật Nam chừng 7.000 lý và cách Lâm Ấp hơn 3.000 lý về phía Tây Nam. Đô thành cách biển 500 lý…

Tân Đường thư mô tả tương tự:

Nước Phù Nam ở cách quận Nhật Nam bảy ngàn lý về phía Nam…, đất thấp như Hoàn Xương, có thói quen lập những thành phố bọc tường… Vua của họ đóng đô ở thành Đặc Mục. Thành ấy bị Chân Lạp đánh bất ngờ, phải dời đến thành phố Na Phất Na ở phía Nam…[38]

Từ đó, rút ra được hai điểm chính :

  • Vị trí của mỗi nước đều đã được xác định khá rõ ràng, tuy hai nước này có những mối quan hệ với nhau về nhiều mặt.
  • Ban đầu, nước Chân Lạp là một thuộc quốc của Phù Nam, sau dần lớn mạnh, không những cởi bỏ được ách thống trị và còn bắt Phù Nam thần phục lại mình. Sự kiện này xảy ra vào khoảng nửa đầu thế kỷ 7 (sau năm 627). Từ đấy trở đi, có thể nói Phù Nam đã bị diệt vong và đất nước của họ bị sát nhập vào lãnh thổ của Chân Lạp.

Mãi sang tới thế kỷ 17 – thế kỷ 18, phần lãnh thổ xưa kia được coi là trung tâm của Phù Nam, tách khỏi đế quốc Ăngco (tức Chân Lạp) để trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, tức Nam Bộ ngày nay.[39]

Bí ẩn về sự diệt vong[sửa|sửa mã nguồn]

Tượng vũ nữ bằng đá thời Phù Nam, hiện đang tọa lạc tại Bảo tàng An Giang .

Chu Đạt Quan, một sứ thần nhà Nguyên trên đường sang kinh đô Ăngkor vào khoảng tháng 7 năm Bính Thân (1296), đã miêu tả cảnh Thủy Chân Lạp trong sách Chân Lạp phong thổ ký như sau:

Từ chỗ vào Chân Bồ[40] trở đi, hầu hết là rừng thấp cây rậm. Sông dài cảng rộng, kéo dài mấy trăm dặm cổ thụ rậm rạp, mây leo um tùm, tiếng chim muông chen lẫn nhau ở trong đó. Đến nửa cảng mới thấy ruộng đồng rộng rãi, tuyệt không có một tấc cây. Nhìn xa chỉ thấy cây lúa rờn rờn mà thôi. Trâu rừng họp nhau thành từng đàn trăm ngàn con, tụ tập ở đấy. Lại có giồng đất đầy tre dài dằng dặc mấy trăm dặm. Loại tre đó, đốt có gai, măng rất đắng.[41]

Vì sao nền văn hóa truyền thống đa sắc và rực rỡ tỏa nắng này biến mất, hiện vẫn chưa có lời lý giải nào có tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, một vài quan điểm sau đây đang được người chăm sóc chú ý quan tâm :

Bài Phế đô của vương quốc Phù Nam, đã đăng trên báo Tuổi Trẻ,[42] nêu ba giả thuyết:

  • Thứ nhất: do thiên tai (một trận hồng thủy). Nhưng theo nhiều nhà khoa học thế giới thì kỷ tan rã băng hà cuối cùng cách đây ít ra cũng đã 8.000 năm. Những trận động đất hay những cơn sóng thần cục bộ như xảy ra ở Nam Á vừa rồi khó có khả năng xóa được cả một vương quốc như Phù Nam.
  • Thứ hai: do đại dịch bệnh. Nhưng qua các cuộc khai quật, thì thấy những bộ hài cốt cổ không có dấu hiệu bị nhiễm dịch bệnh và đều được táng đàng hoàng trong mộ.
  • Thứ ba: do những cuộc ngoại xâm tàn sát. Và nghi vấn ngoại bang ấy chính là người Java (Mã Lai). Nhưng thư tịch cổ không thấy ghi như thế và cũng chưa tìm được chứng cứ để xác định…

Tượng Phật gỗ thời Phù Nam ( Bảo tàng An Giang ) .

Theo nhóm tác giả sách Lịch sử Campuchia thì:

Vào khoảng giữa thế kỷ 6, nước Phù nam nhanh chóng bước vào thời kỳ tàn tạ. Nền văn minh Phù Nam cổ kính trước sau chỉ được nảy nở ở một số đô thị lớn tập trung dân cư, còn ở các vùng nông thôn rộng lớn thì cuộc sống ở đây không có ai quan tâm đến. Công tác thủy nông không được coi trọng nữa, khiến cho những vụ lũ lụt của sông Mê Kông gây những tai họa khủng khiếp cho các cánh đồng ruộng trũng, biến những vùng đồng bằng vốn phì nhiêu thành những vùng đồng lầy vô dụng ở miền hạ lưu sông Mê Kông; và làng mạc tiêu điều, cư dân xơ xác phải di cư đến những rẻo cao. Ngoài ra, việc Ruđravacman lên ngôi bất hợp pháp khiến xuất hiện nhiều nhóm phái chống đối, ly khai cát cứ thành những vùng độc lập. Để rồi, Phù Nam bị Chân Lạp chinh phục, và hợp nhất tạo thành quốc gia Khmer, mà Bhavaraman I có thể coi là người sáng lập.[43]

Trích quan điểm của Võ Sĩ Khải :

Những chuyển biến trong cơ cấu cư dân (Phù Nam), sự không thích ứng với những điều kiện chính trị, kinh tế và văn hóa dưới thời (lệ thuộc) Chân Lạp, tình trạng chiến tranh triền miên giữa Chân Lạp (trong đó có Phù Nam) trên địa bàn Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, và những ảnh hưởng của các cuộc tấn công của đế quốc Nguyên Mông vào các nước Đông Nam Á vào thế kỷ 13 đã là “những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp đưa quá trình hoang hóa của vùng đất Gia Định và đồng bằng Nam Bộ nói chung”. Các cộng đồng dân tộc bản địa (Phù Nam) sinh sống trên đồng bằng châu thổ từ nhiều thế kỷ đã từ từ rút về sống co thủ ở miền cao trong những điều kiện hoang sơ, chỉ giữ lại trong ký ức hình ảnh của biển cả và một thời “hoàng kim” mà ngày nay chỉ còn tìm lại được qua một số tập quán, trong huyền thoại và những truyền thuyết dân gian.[44]

Quân chủ Phù Nam[sửa|sửa mã nguồn]

STT Âm Tiếng Phạn

Tiếng Việt

Tiếng Trung Tiếng Khmer Trị vì
01 Neang Neak
Soma
Liễu Diệp 柳葉 (Liǔyè) សោមា 68 ?
02 Preah Thong
Kaundinya I
Hỗn Điền / Hỗn Tu
Kiều Trần Như I
混塡 (Hùntián) / 混湏 (Hùnhuì)
憍陳如一世 (Qiáochénrú I)
ហ៊ុនទៀន
កៅណ្ឌិន្យទី១
68 ?
03 Hun Pan-huang Hỗn Bàn Huống 混盤況 (Hùnpánkuàng) Nửa sau thế kỷ 2
04 Pan-Pan Bàn Bàn[45] 盤盤 (Pánpán) 202-205
05 Srei Meara Phạm Sư Mạn 范師蔓 (Fàn Shīmàn) 205-225
06 Fan Chin-sheng Phạm Kim Sinh[46] 范金生 (Fàn Jīnshēng) 230 ?
07 Fan Chan Phạm Chiên 范旃 (Fàn Zhān) 230-243 hoặc muộn hơn
08 Fan Chang Phạm Trường[46] 范長 (Fàn Cháng) Sau 243
09 Fan Hsun Phạm Tầm 范尋 (Fàn Xún) 245/250-287
10 ?
11 Candana Trúc Chiên Đàn 竺旃檀 (Zhú Zhāntán) 357
12 ?
13 Kaundinya II Kiều Trần Như II 僑陳如二世 (Qiáochénrú II) កៅណ្ឌិន្យវម៌្ម 420-434
14 Śrī Indravarman Trì Lê Đà Bạt Ma 持梨陀跋摩 (Chílítuóbámó) ឝ្រីន្ទ្រវម៌្មទី១ 434-440
15 ?
16 ?
17 Kaundinya Jayavarman Kiều Trần Như Xà Gia Bạt Ma 僑陳如•闍耶跋摩 (Qiáochénrú Shéyébámó) កៅណ្ឌិន្យជយវម៌្ម 484-514
18 Rudravarman Lưu Đà Bạt Ma 留陁跋摩 (Liútuóbámó) រុទ្រវម៌្មទី១ 514-545

Tham khảo chính[sửa|sửa mã nguồn]

  • Lược sử vùng đất Nam Bộ (in lần thứ 2) do GS TSKH Vũ Minh Giang chủ biên. Sách của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức biên soạn, Nhà xuất bản thế giới ấn hành, Hà Nội, 2008.
  • Lịch sử Camphchia do Phạm Việt Trung, Nguyễn Xuân Kỳ, Đỗ Văn Nhung biên soạn. Nhà xuất bản Đại học & THCN, 1982.
  • Địa chí văn hóa TP. HCM, tập I, phần 2 do Võ Sĩ Khải biên soạn. Nhà xuất bản TP. HCM, 1987.
  • Ngô Văn Doanh, Từ điển Văn hóa Đông Nam Á phổ thông. Nhà xuất bản VH-TT, 1999.
  • Ngô Văn Doanh (2009), “Vương quốc Phù Nam (khái quát những giai đoạn lịch sử)”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số tháng 3, trang 13-20.
  • Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (gọi tắt là Giáo trình du lịch) giáo trình do Hiệp hội du lịch TP HCM biên soạn, Nhà xuất bản Tp. HCM ấn hành năm 1995.
  • Lương Ninh, Vương quó̂c Phù Nam: lịch sử và văn hóa [Fu Nan: history and culture], Hà NộI, Việ̣̂n văn hóa và Nhà xuá̂t bản Văn hóa thông tin, 2005.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://vvc.vn
Category : Từ Thiện

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay