Giáo trình Hệ sinh thái cửa sông ven biển: Phần 2.pdf (hệ sinh thái) | Tải miễn phí

Giáo trình Hệ sinh thái cửa sông ven biển: Phần 2

pdf

Số trang Giáo trình Hệ sinh thái cửa sông ven biển: Phần 2
47
Cỡ tệp Giáo trình Hệ sinh thái cửa sông ven biển: Phần 2


676 KB
Lượt tải Giáo trình Hệ sinh thái cửa sông ven biển: Phần 2
0
Lượt đọc Giáo trình Hệ sinh thái cửa sông ven biển: Phần 2
4
Đánh giá Giáo trình Hệ sinh thái cửa sông ven biển: Phần 2

4.9 (
21 lượt)

47676 KB

Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu

Đang xem trước 10 trên tổng 47 trang, để tải xuống xem rất đầy đủ hãy nhấn vào bên trên

Chủ đề tương quan

Tài liệu tương tự

Nội dung

CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI ĐẾN MÔI TRƯỜNG VÙNG VEN BỜ

Các tác động của con người đến môi trường vùng ven bờ có thể xếp vào 3 loại:
Các tác động vào cấu trúc: bắt nguồn từ việc biến đổi và phá hủy nơi cư trú.
Các tác động vào quá trình: là hậu quả của việc tác động có chủ đích và không chủ
đích vào các nhân tố vật lý hóa học và sinh học của môi trường.
Các tác động tiện ích: sự thay đổi môi trường làm giảm cơ hội hiện tại và tương lai
đối với việc sử dụng một vùng thiên nhiên bao gồm cả việc sử dụng mà hiện nay
không biết trước.
Các hoạt động phát triển mang ý nghĩa phục vụ cho lợi ích của xã hội, gia tăng tiện ích cho
con người. Tuy nhiên, những hoạt động này cần phải sử dụng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên khác nhau như đất, nước, nguyên nhiên vật liệu, v.v. do vậy có nguy cơ gây hại đến
môi trường và các hệ sinh thái tự nhiên bằng nhiều cách khác nhau. Bảng sau đây nêu ra một
vài ví dụ cho thấy mối tương quan giữa các hoạt động phát triển vùng ven biển và mối nguy
cho môi trường.
Bảng 3.1: Các hoạt động phát triển và nguy cơ cho môi trường
Hành động
Mục đích của con người
Khai hoang
Hình thành trang trại, cảng
biển, v.v.
Khai thác
Cung cấp nguyên vật liệu và
thực phẩm
Xây đập nước

Cấp điện, chống lũ

Hình thành khu công nghiệp

Sản xuất hàng hóa phục vụ
nhu cầu con người
Phục vụ nhu cầu giải trí, thư
giãn

Khu nghỉ mát

Khả năng tác động lên MT
Mất vùng cư trú, mất cân
bằng sinh thái
Cạn kiệt tài nguyên không tái
tạo, và cũng có thể cả tài
nguyên tái tạo
Thay đổi dòng chảy, chặn
đường di lưu sinh vật
Mất vùng cư trú, nguy cơ ô
nhiễm chất thải
Mất vùng cư trú, xáo trộn
cuộc sống tự nhiên

Nói chung, các tác động phối hợp đối với vùng ven biển trong các đô thị cũng như vùng ven
biển nông thôn bao gồm:
Phát triển xây dựng (như các bến du thuyền và các đê chắn sóng) có thể gây nên sự
phá hủy nơi cư trú và gây xáo trộn cuộc sống tự nhiên.
Các loại hình công nghiệp khác nhau sẽ mang đến nguy cơ ô nhiễm cho môi trường.
Thay đổi việc sử dụng đất (ví dụ chuyển đổi nông thôn thành thành thị) gây ra sự suy
thoái vùng ven bờ, tăng khả năng tác động của thiên tai như lũ lụt.
Cải tạo đất cho bến cảng, kho hàng và phát triển đô thị làm mất diện tích vùng triều và
tài nguyên nước.
Hoạt động sản xuất nông nghiệp góp phần vào việc phát tán các chất hóa học và chất
dinh dưỡng theo dòng nước làm tăng sự lắng đọng trầm tích do đất bị xói mòn.
Du lịch và giải trí dẫn đến việc thay đổi môi trường ven bờ và sử dụng quá mức tài
nguyên.
1. Đô thị hoá
Đô thị hóa là quá trình mở rộng các điểm dân cư đô thị và phổ cập lối sống thành thị trên lãnh
thổ nhằm phát triển mạng lưới đô thị hoàn chỉnh phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại
39

CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI ĐẾN MÔI TRƯỜNG VÙNG VEN BỜ

Các tác động của con người đến môi trường vùng ven bờ có thể xếp vào 3 loại:
Các tác động vào cấu trúc: bắt nguồn từ việc biến đổi và phá hủy nơi cư trú.
Các tác động vào quá trình: là hậu quả của việc tác động có chủ đích và không chủ
đích vào các nhân tố vật lý hóa học và sinh học của môi trường.
Các tác động tiện ích: sự thay đổi môi trường làm giảm cơ hội hiện tại và tương lai
đối với việc sử dụng một vùng thiên nhiên bao gồm cả việc sử dụng mà hiện nay
không biết trước.
Các hoạt động phát triển mang ý nghĩa phục vụ cho lợi ích của xã hội, gia tăng tiện ích cho
con người. Tuy nhiên, những hoạt động này cần phải sử dụng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên khác nhau như đất, nước, nguyên nhiên vật liệu, v.v. do vậy có nguy cơ gây hại đến
môi trường và các hệ sinh thái tự nhiên bằng nhiều cách khác nhau. Bảng sau đây nêu ra một
vài ví dụ cho thấy mối tương quan giữa các hoạt động phát triển vùng ven biển và mối nguy
cho môi trường.
Bảng 3.1: Các hoạt động phát triển và nguy cơ cho môi trường
Hành động
Mục đích của con người
Khai hoang
Hình thành trang trại, cảng
biển, v.v.
Khai thác
Cung cấp nguyên vật liệu và
thực phẩm
Xây đập nước

Cấp điện, chống lũ

Hình thành khu công nghiệp

Sản xuất hàng hóa phục vụ
nhu cầu con người
Phục vụ nhu cầu giải trí, thư
giãn

Khu nghỉ mát

Khả năng tác động lên MT
Mất vùng cư trú, mất cân
bằng sinh thái
Cạn kiệt tài nguyên không tái
tạo, và cũng có thể cả tài
nguyên tái tạo
Thay đổi dòng chảy, chặn
đường di lưu sinh vật
Mất vùng cư trú, nguy cơ ô
nhiễm chất thải
Mất vùng cư trú, xáo trộn
cuộc sống tự nhiên

Nói chung, các tác động phối hợp đối với vùng ven biển trong các đô thị cũng như vùng ven
biển nông thôn bao gồm:
Phát triển xây dựng (như các bến du thuyền và các đê chắn sóng) có thể gây nên sự
phá hủy nơi cư trú và gây xáo trộn cuộc sống tự nhiên.
Các loại hình công nghiệp khác nhau sẽ mang đến nguy cơ ô nhiễm cho môi trường.
Thay đổi việc sử dụng đất (ví dụ chuyển đổi nông thôn thành thành thị) gây ra sự suy
thoái vùng ven bờ, tăng khả năng tác động của thiên tai như lũ lụt.
Cải tạo đất cho bến cảng, kho hàng và phát triển đô thị làm mất diện tích vùng triều và
tài nguyên nước.
Hoạt động sản xuất nông nghiệp góp phần vào việc phát tán các chất hóa học và chất
dinh dưỡng theo dòng nước làm tăng sự lắng đọng trầm tích do đất bị xói mòn.
Du lịch và giải trí dẫn đến việc thay đổi môi trường ven bờ và sử dụng quá mức tài
nguyên.
1. Đô thị hoá
Đô thị hóa là quá trình mở rộng các điểm dân cư đô thị và phổ cập lối sống thành thị trên lãnh
thổ nhằm phát triển mạng lưới đô thị hoàn chỉnh phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại
39

hóa, đồng thời mở ra những cơ hội đầu tư lớn mạnh về mọi phương diện cho các thành phần
kinh tế.
Các vùng ven biển là nơi sinh sống thuận lợi của con người từ thời tiền sử. Vùng ven biển
thuận lợi vì một loạt lý do, trong đó có sự điều hòa ảnh hưởng đại dương đến các điều kiện
khí hậu khắc nghiệt; gần với vùng đất nông nghiệp màu mỡ, dễ dàng tiếp cận với tài nguyên
sinh vật biển và dễ dàng vận chuyển bằng đường thủy. Kết quả là khoảng 70% các thành phố
lớn trên thế giới có dân số trên 2,5 triệu dân nằm dọc theo bờ biển. Sự gia tăng dân số vùng
ven biển đang vượt quá tốc độ gia tăng dân số toàn cầu do hậu quả của sự di cư ra vùng ven
biển. Sự di cư này đặc biệt lớn ở các nước đang phát triển nơi mà sự chuyển dịch ra các trung
tâm đô thị ven biển có liên quan tới sự tìm kiếm việc làm, giáo dục, y tế và các dịch vụ khác.
Hình dưới đây cho thấy các thành phố đông dân trên thế giới đều được đặt ở vùng ven biển.

5-<8 triệu 8-<10 triệu >10 triệu

Đô thị hóa có những tác động sâu sắc đến các nguồn tài nguyên ven biển. Có thể là việc ô
nhiễm vùng nước ven bờ do ảnh hưởng của nước chảy tràn bề mặt và nước thải, đến suy thoái
các bãi biển và các môi trường tự nhiên khác do sử dụng không đúng hay quá mức; giảm
thiểu diện tích các vùng đất cỏ hoang bụi rậm ven bờ, các vùng đất ngập nước, suy thoái
vùng cư trú. Khi các vùng định cư đô thị được thành lập, thường ít có các nghiên cứu về các
tác động của đô thị đến môi trường xung quanh. Kết quả là nước chảy tràn bề mặt và các hệ
thống chất thải được dẫn trực tiếp vào sông và các nguồn nước mà không chú ý đến ảnh
hưởng của các chất thải này đến chất lượng nguồn nước nhận. Thêm vào đó, nhiều khu vực
tập trung đông dân số đã khai thác quá mức các hoạt động giải trí.
Trong hầu hết các trường hợp, sự phát triển các khu đô thị mới đều gây nên những sự chuyển
đổi các nguồn tài nguyên từ dạng này sang dạng khác. Trong một số trường hợp, các mục tiêu
bảo tồn cũng bị bỏ qua trong quá trình phát triển, gây ra mất mát các vùng cư trú và suy giảm
chất lượng môi trường nói chung. Việc phát triển các đô thị mới mà quá trình quản lý không
hiệu quả cũng làm tăng thêm các tác động không mong muốn về các nguồn tài nguyên.
Chẳng hạn, đất đai bị thu hẹp, hệ thống giao thông, thủy lợi, các hệ thống phục vụ sinh hoạt
40

tăng lên gây ra những khó khăn về môi trường sinh thái. Tốc độ đô thị hóa càng nhanh thì
nguyên nhân gây nên các vấn đề môi trường ở vùng ven bờ càng lớn như là các bãi rác thành
phố làm ô nhiễm nguồn nước ngầm. Ngoài ra các bãi đất trống bị xâm chiếm một cách
nghiêm trọng. Khi tốc độ đô thị hóa tăng thì dân số tập trung cao, khi đó để phục vụ nhu cầu
của con người công nghiệp phải phát triển để đáp ứng việc làm và các nhu cầu khác. Với sự
đô thị hóa này nó gây ra áp lực trong quản lý, từ đó nảy sinh những vấn đề ảnh hưởng đến
môi trường. Ví dụ như sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp qui mô nhỏ không có các
biện pháp xử lý nước thải và chất thải rắn, v.v.
Hệ sinh thải thủy vực bị ô nhiễm như tình trạng ô nhiễm đại dương, bờ biển và sông ngòi
hiện nay là mối quan tâm của con người. Quá trình đô thị hóa dẫn đến nhu cầu mở rộng đất ở
vùng triều và vùng ven bờ tăng nhanh, chủ yếu sử dụng cho nông nghiệp, thủy sản và dùng
cho xây dựng nhà ở, xí nghiệp, mở rộng mạng lưới giao thông, bền cảng,… Nguồn nước thải
sinh hoạt được thải trực tiếp từ các khu dân cư ra vùng ven biển. Chất lượng nước thải chủ
yếu là giàu chất hữu cơ, phân rác, cùng với chất thải từ các nhà máy công nghiệp ven biển.
Lượng chất thải này được thải trực tiếp vào biển không qua xử lý hoặc thải vào sông rồi qua
biển gây ô nhiễm hữu cơ, làm giảm lượng oxy trong nước, mất nơi cư trú của các loài sinh
vật biển. Thêm vào đó sự ô nhiễm biển còn do chế phẩm phục vụ nuôi tôm, dư lượng các loại
thuốc kích thích, trừ sâu, bảo vệ thực vật,… góp phần làm gia tăng tần suất xuất hiện hiện
tượng tảo nở hoa mà trong nhiều trường hợp gây thiệt hại nghiêm trọng đến nền kinh tế biển,
mất cân bằng sinh thái biển.
Do dân cư tập trung đông đúc ở các đô thị ven bờ nên nhu cầu về nước ngọt sử dụng cho
công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt tăng lên, dẫn đến việc khai thác nước ngầm ven biển quá
mức gây ô nhiễm nước ngầm, gia tăng sụt lún đất ở vùng ven bờ. Quá trình đô thị hóa làm
nhiều ao hồ bị san lấp, nhiều sông mương bị thu hẹp, đây là nguyên nhân làm giảm khả năng
chứa, giảm dòng chảy từ sông đổ ra biển làm mất cân bằng hệ sinh thái sông và cửa sông.
Quá trình xây dựng nhà ở, công trình ven bờ đã gây ra lắng đọng trầm tích, bùn cát làm kìm
hãm sự phát triển của san hô và cỏ biển, trong trường hợp nghiêm trọng có thể làm biến mất
vĩnh viễn các khu hệ sinh thái giàu có này.
Do tăng nhanh dân số, cùng với sự phát triển của các khu công nghiệp, đô thị, v.v. đòi hỏi
phải gia tăng nhu cầu lương thực, thực phẩm, chất đốt, nguyên vật liệu xây dựng, nơi ở,… vì
vậy nhiều nơi đã phá hủy rừng ngập mặn để lấy đất sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, xây dựng thành phố mới, bến cảng,… Hậu quả là thu hẹp diện tích rừng ngập mặn nhanh
chóng, tài nguyên lâm, thủy sản cạn kiệt dần, nạn xói lở bờ sông, bờ biển tăng làm cho môi
trường ngày càng xấu đi.
Một tác động thứ cấp phát sinh khi là việc sử dụng đất ở các vùng kế cận xảy ra để mở rộng
diện tích đô thị. Việc mở rộng này có thể tạo ra những áp lực cho việc cung cấp các dịch vụ
và cơ sở hạ tầng. Ở những vùng ngoại vi này, cư dân cũng sẽ trông chờ vào các dịch vụ và cơ
sở hạ tầng như đường sá, cấp nước và giáo dục. Sự trông đợi như vậy thường gây thêm áp lực
đối với chính quyền địa phương và các thành phần cung cấp dịch vụ khác, để đáp ứng đầy đủ
điều kiện vật chất.

2. Nông nghiệp
Cũng như các nơi khác, hoạt động nông nghiệp ở vùng ven bờ cũng chiếm dụng một diện tích
đất lớn và gây ảnh hưởng đến chất lượng môi trường vùng ven biển. Vùng ven bờ có các điều
kiện khí hậu và đất đai thuận lợi cho nông nghiệp. Ngoài chức năng hết sức rõ ràng là cung
cấp lương thực cho cộng đồng ven bờ, nông nghiệp cũng tạo ra nguyên vật liệu cho công
41

nghiệp ở các thành phố cảng. Sản phẩm nông nghiệp có thể tìm thấy trong các thị trường du
lịch, mặc dù các sản phẩm này không phải luôn luôn chiếm vị trí ưu thế. Nông nghiệp cũng
tạo ra kế sinh nhai cho cộng đồng địa phương và bao gồm cả cư dân ở các thành phố ven bờ.
Nông nghiệp vùng ven bờ thường có những lợi ích từ các điều kiện môi trường thuận lợi, từ
các vùng đất tốt và sự giao thông liên lạc đường biển cũng như từ sự phát triển của công
nghiệp và du lịch ven bờ. Tuy nhiên, hoạt động nông nghiệp ven bờ cũng bị tác động liên
quan đến vị trí ở gần biển bao gồm nguy cơ của việc nhiễm mặn đất và nước; chất lượng
nước kém và không an toàn xuất phát từ các hoạt động ở vùng thượng lưu; sự cạnh tranh gay
gắt về đất ở vùng ven bờ. Ngược lại, lĩnh vực nông nghiệp cũng ảnh hưởng lên các lĩnh vực
khác. Các mối tương tác này có thể tích cực nhưng thường là tiêu cực và xoay quanh các vấn
đề cạnh tranh về đất, nước, nguồn vốn và lao động.
Tác động tiêu cực của nông nghiệp đối với các lĩnh vực khác bao gồm: việc làm ô nhiễm
nguồn nước ảnh hưởng trực tiếp lên nghề cá thông qua các hóa chất dùng trong nông nghiệp
và làm tăng độ đục gây hại cho các rạn san hô và các cảng do việc xói mòn đất. Hậu quả làm
mất vùng cư trú sinh vật và suy giảm đa dạng sinh học vùng ven bờ cũng có thể xảy ra.
Nhằm lập kế hoạch thống nhất của nông nghiệp trong việc hoạch định tổng thể của vùng ven
bờ, giai đoạn đầu tiên là thu thập các thông tin thích đáng và hữu ích. Các thông tin này bao
gồm các đặc điểm môi trường kinh tế xã hội, sinh học, vật lý; mối tương tác giữa các lĩnh vực
và sự quản lý, các cơ hội và khả năng lựa chọn trong các lĩnh vực. Giai đoạn tiếp theo là vạch
ra kế hoạch liên quan đến các đặc điểm đặc biệt của nền nông nghiệp ven bờ, trong khi vẫn
bảo đảm kế hoạch này phù hợp với mục tiêu tổng thể của quốc gia về nông nghiệp. Trong
giai đoạn này, các biện pháp giảm thiểu hay tránh các tác động tiêu cực đến các lĩnh vực khác
phải được trình bày. Điều đó có thể phải rà xét lại kinh phí, việc đánh thuế và các qui định
trong khi trình bày các dịch vụ hổ trợ và xem lại cơ cấu hành chính. Kết quả có thể thay đổi
về mô hình sản xuất và phương pháp canh tác. Trong quá trình thực hiện, các người cùng
tham gia và các bên liên quan sẽ được thăm dò và cần duy trì mối liên lạc thích đáng với các
Bộ, Ngành của các lĩnh vực khác.
Các kế hoạch phát triển nông nghiệp vùng ven bờ sẽ trình bày các đặc điểm đặc biệt về nông
nghiệp của vùng, mối tương tác với các lĩnh vực khác và tầm quan trọng của các hoạt động
bền vững.

3. Du lịch và giải trí
Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp không những chứa đựng trong đó những giá trị
kinh tế đơn thuần mà cả những giá trị về lịch sử, văn hóa của một vùng miền. Du lịch ở
những vùng ven bờ đang là nguồn thu nhập cao cho các nước ven bờ biển. Tại đây, người ta
sẽ được thưởng thức những phong cảnh đẹp ở những vùng cửa sông ven biển, những bãi biển
tuyệt vời, các đảo đá với đầy hang động, bờ cát mịn, vùng đầm phá, rừng ngập mặn, các rạn
san hô, v.v. Vùng ven bờ là điều kiện lý tưởng để phát triển tiềm năng du lịch, nghĩ mát và
điều dưỡng, kèm theo đó là các hoạt động dịch vụ phục vụ cho du lịch giải trí như là bơi
thuyền thưởng ngoạn, lặn, lướt sóng, câu cá tắm biển, ngắm san hô, v.v.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đem lại, thì du lịch giải trí đang gây ra những tác động ảnh
hưởng đến môi trường ven bờ. Các hoạt động của con người trong lĩnh vực này đã góp phần
làm cho môi trường ven bờ bị suy thoái. Các tác động tiêu cực của du lịch đến môi trường
vùng ven bờ có thể kể là:

42

Khai thác quá mức và không hợp lý hải sản phục vụ nhu cầu thưởng thức đặc sản biển
cho du khách. Trong những năm gần đây, năng suất đánh bắt một số nghề bị giảm sút
nghiêm trọng (nhất là các nghề hoạt động ven bờ có độ sâu dưới 30 m), sản lượng
khai thác các loại hải sản chưa đến tuổi trưởng thành chiếm khá cao, đặc biệt một số
tôm cá, nhuyễn thể, các sinh vật quý hiếm. Việc phá hủy san hô thông qua sử dụng
thuốc nổ và lấy san hô làm cạn kiệt nguồn tôm giống và các đàn cá gần bờ.
Buôn bán các hàng mỹ nghệ từ hải sản phục vụ khách du lịch: đây là nguyên nhân dẫn
đến cạn kiệt một số loài san hô, trai ốc, tôm hùm và đồi mồi. Việc buôn bán cá cảnh
biển phát triển ở một số trung tâm du lịch kéo theo việc đánh bắt cá quá mức trên các
rạn san hô. Sự khai thác quá mức và không hợp lý ở vùng biển ven bờ đang là mối đe
dọa lớn cho nhiều loài sinh vật biển, đó cũng là nguyên nhân làm mất cân bằng tự
nhiên của các quần xã ven bờ.
Xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động du lịch giải trí: lợi thế kinh tế
trực tiếp cũng được tạo ra bởi các hoạt động du lịch và theo đó đã có sự bùng nổ về du
lịch với việc xây dựng hàng loạt khách sạn, nhà nghỉ, cửa hàng ăn uống và các bãi
biển nhân tạo dọc bờ biển đã được cảnh báo là mối đe dọa lớn nhất đối với môi
trường ven biển thế giới. Các diện tích đất hay mặt nước vùng ven bờ sẽ được dùng
để xây dựng cơ sở hạ tầng, làm giảm dần diện tích đất và mặt nước. Hiện tại các rừng
đước che phủ trên 16 triệu ha ven bờ biển nhưng diện tích đang thu hẹp hàng năm với
tốc độ 2%. Chỉ trong mấy thập kỷ cuối cùng lại đây, hoạt động đánh bắt và nuôi hải
sản của con người (phục vụ cho nhu cầu hàng ngày và du lịch, giải trí,…) đang phá
hủy và làm thay đổi tới 50% diện tích các rừng đước trên thế giới. Điều tồi tệ hơn là
trong tổng diện tích các rừng đước còn tồn tại hiện nay trên phạm vi toàn cầu chỉ có
1% được bảo vệ.
Hoạt động tham quan, du lịch cũng làm ảnh hưởng đến số lượng, nơi cư trú và sinh
sản của một số loài chim sinh sống ở các khu rừng ngập mặn, vùng đất ngập nước ven
bờ: các hoạt động du lịch ở rừng ngập mặn như tham quan đi bộ trong rừng, ngắm
cảnh, chụp ảnh, săn bắn, khám phá,… gây ra tiếng động mạnh hay phá hủy một số nơi
cư trú của một số loài động, thực vật ở nơi đây, làm thay đổi tập tính và đời sống của
chúng. Việc khai phá và chuyển đổi mục đích sử dụng của các vùng đất ven biển làm
mất đi khu hệ cư trú của các loài hoang dã, phá vỡ các nhân tố sinh sản, nuôi dưỡng,
làm tuyệt chủng cục bộ, làm chết các cá thể sinh vật.
Môi trường ven bờ cũng đang chịu sự tác động của những nguồn ô nhiễm từ đất liền
do chất thải sinh hoạt của du khách vãng lai: các chất thải này có nguy cơ làm thay
đổi chất lượng nước, các hệ sinh thái vùng ven bờ. Từ đó dẫn đến mất đa dạng sinh
học do ô nhiễm và phá hủy môi trường sống. Sự thay đổi của một số hợp phần tự
nhiên hoặc sự mất đi của một số loài sinh vật cấu thành nên hệ sinh thái nào đó dưới
tác động của con người sẽ là nguyên nhân làm thay đổi, thậm chí mất đi hệ sinh thái
đó và kết quả là tài nguyên sẽ bị ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau. Các chất thải rắn
từ hoạt động du lịch nếu không được quản lý tốt sẽ làm ô nhiễm môi trường vùng ven
bờ.
Ô nhiễm không khí ở các khu công nghiệp gần vùng biển hay do hoạt động vận
chuyển khách du lịch cũng sẽ tác động đến sự sinh trưởng của nhiều loài sinh vật, làm
di chuyển nơi cư trú của một số loài nhạy cảm với môi trường không khí.
Khách du lịch và phương tiện vận chuyển khách du lịch có thể có thể đem đến một số
loài sinh vật ngoại lai, ảnh hưởng đến sự phát triển của một số hệ sinh thái ven bờ.
Việc xây dựng các công trình du lịch trên cát cồn cát nhạy cảm thường gây ra xói
mòn, thay đổi tính chất bờ biển và dần dần mất đi một số loài sinh vật phát triển trên
một số hệ sinh thái cát ven biển.
43

Chất thải từ các tàu thuyền du lịch, gồm cả máy dầu, tiếng ồn của động cơ sẽ trực tiếp
làm ô nhiễm các thủy vực, môi trường biển. Neo đậu tàu thuyền không đúng nơi quy
định cũng phá hủy nhiều rạn san hô có giá trị.
Những hành vi thiếu ý thức của khách du lịch khi khám phá các rạn san hô và việc
khai thác san hô làm quà lưu niệm của người dân địa phương, ngoài việc phá hủy trực
tiếp rạn san hô còn góp phần làm xói mòn nghiêm trọng vùng bờ, làm mất đi lớp bảo
vệ bờ biển.
Việc sử dụng nước thiếu tính toán cho nhu cầu du lịch dẫn đến tình trạng thiếu nước
cục bộ và làm tăng khả năng bị nhiễm mặn ở khu vực ven biển, làm chết cây cối.
Việc xây dựng các khách sạn, đường sá dẫn đến việc san ủi đất gây ra sự xói mòn và
trôi chảy trầm tích gây tác hại đến vùng cửa sông và rạn san hô.
Nước thải từ các nhà hàng và khách sạn chưa được xử lý đầy đủ gây thêm tình trạng ô
nhiễm vùng ven bờ cũng như làm ô nhiễm nguồn nước dùng cho sinh hoạt, là nguyên
nhân gây bệnh và làm chết rất nhiều loài động vật nước.
Tóm lại, tác động của du lịch ở vùng ven bờ có thể gây ra những thảm hoạ đối với môi
trường và cộng đồng địa phương. Giải pháp cho các vấn đề này là phát triển du lịch dựa vào
các nguyên lý của sự bền vững. Trước khi thực hiện phát triển du lịch ven bờ, cần phải đánh
giá và phân loại cẩn thận các khu vực ven bờ cũng như tính nhạy cảm về sinh thái, xã hội và
văn hoá của nó. Cần phải có các kế hoạch và mục tiêu quản lý đối với từng vùng. Những
vùng có nhạy cảm cao, có đặc thù về mặt môi trường cũng như có ý nghĩa về văn hóa cần
phải thường xuyên bảo vệ, đó là các vùng không nên phát triển.
Ở những vùng phát triển, cần phải có sự cân đối giữa phát triển du lịch và thiên nhiên. Công
nghệ, vật liệu và thiết kế phải ở mức tác động thấp nhất tới sự suy thoái môi trường di sản
văn hóa để du lịch học được kinh nghiệm và duy trì với cộng đồng địa phương.

3. Nuôi trồng thuỷ sản
Vùng ven bờ là nơi thích hợp cho việc nuôi trồng các loài thủy sản biển cũng như các loài
nước ngọt. Việc nuôi trồng thủy sản có ý nghĩa lớn trong việc cung cấp protein và giảm thiểu
đói nghèo cho người dân sống vùng ven bờ. Tuy nhiên hoạt động nuôi trồng thủy sản cũng
đem lại nhiều tác hại về mặt môi trường ở đây.
Trước hết hoạt động nuôi trồng thủy sản cạnh tranh về không gian với các lĩnh vực khác như
du lịch, giải trí và nông nghiệp. Để có thể phát triển, nuôi trồng thuỷ sản cần phải có nước
sạch, không có các sinh vật lạ du nhập; xây dựng cơ sở hạ tầng, như xây dựng nhà cửa, kho
hàng, đường sá, v.v. Các vùng đất thấp ven bờ như rừng ngập mặn, đất nông nghiệp, các bãi
triều đã bị chuyển đổi thành các ao nuôi tôm. Tác động rõ ràng nhất và được quan tâm nhiều
nhất là rừng ngập mặn đa bị biến đổi thành các ao nuôi. Sự suy thoái rừng ngập mặn cùng với
sự phát triển của nuôi tôm xảy ra ở Châu Á, Trung Mỹ. Có khoảng 1-1,5 triệu ha rừng ngập
mặn đã bị chuyển đổi thành ao nuôi tôm trên phạm vi toàn thế giới, trong đó, riêng ở Châu Á,
đa có hơn 500.000 ha rừng ngập mặn đã bị chuyển đổi thành ao nuôi tôm nước lợ. Việc nuôi
tôm mang lại nguồn thu ngoại tệ cho các nước phát triển, nhưng việc mất mát nơi ở nhạy cảm
là khó bù đắp.
Rừng ngập mặn có vai trò trong việc chống xói mòn, duy trì chất lượng nước ven bờ và là nơi
sinh sản của nhiều loài sinh vật. Rừng ngập mặn cung cấp các nguồn tài nguyên tái tạo như
gỗ, sợi, than đá,.. cho cộng đồng người dân địa phương. Chuyển đổi thành ao nuôi tôm, sinh
cảnh này bị phá trụi và rất khó để phục hồi. Tiếc rằng các ao nuôi tôm thường chỉ sinh lợi

44

trong thời gian ngắn, vì đó chính là đối tượng dễ bị nhiễm bệnh cũng như thị trường tiêu thụ
có giá cả không ổn định.
Việc mất rừng ngập mặn sẽ tác động lên nghề khai thác thủy sản truyền thống do diện tích
rừng thu hẹp nghĩa là mất đi môi trường nuôi dưỡng, cung cấp nguồn bổ sung thức ăn quan
trọng cho các loài thuỷ sản tự nhiên. Một tác động thường gặp của việc nuôi tôm thâm canh
đó là sự rò rỉ của nước mặn từ các ao nuôi đến nguồn nước ngầm và các vùng đất nông
nghiệp trồng lúa kế cận.Trong một số vùng ở Thái lan, việc sử dụng nước ngầm để bơm cho
các ao nuôi tôm đã làm cho nguồn nước ngầm bị nhiễm mặn. Điều đó có thể dẫn tới những
tổn thất về mặt xã hội như giảm việc cung cấp nước cho nông nghiệp và sinh hoạt, cũng như
việc chuyển đổi lao động. Một tác động khác đã được báo cáo ở một số vùng ở Châu Á liên
quan đến việc sử dụng nước ngầm cho nuôi tôm là làm cho đất bị lún sụt.
Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, nuôi trồng thủy sản tạo ra các tác động tiêu cực đối với
môi trường như việc dư thừa thức ăn nhân tạo trong quá trình nuôi, gây ô nhiễm hữu cơ
nguồn nước mặt, làm thay đổi cấu trúc chuỗi thức ăn tự nhiên của môi trường, dẫn đến thay
đổi cấu trúc quần xã động vật đáy do một số nhóm ưa các thức ăn dư thừa này hơn một số
nhóm khác. Thêm nữa, một số nhóm sinh vật đáy sống cố định có thể bị chết do hàm lượng
oxygen trong tầng đáy bị suy giảm do quá trình phân hủy của vi sinh vật đã tiêu hao một
lượng lớn oxy hòa tan trong nước. Cùng với thức ăn thừa, một trong những tác động lớn của
việc nuôi trồng thâm canh các loài thủy sản đối với môi trường nước xung quanh là hiện
tượng phú dưỡng do các chất bài tiết của sinh vật nuôi thải ra môi trường. Điều này làm cho
hàm lượng các chất dinh dưỡng trong nước cao hơn mức bình thường gây ra hiện tượng nở
hoa của các loài tảo. Sự phát triển quá mức của một số loài tảo giáp có gai có thể cản trở quá
trình ăn lọc của một số loài cá. Mặc dù một số loài tảo phát triển tốt khi hàm lượng chất dinh
dưỡng trong nước cao, tuy nhiên một số loài tảo độc hại khi nở hoa gây ra hiện tượng triều đỏ
(red tide) có thể gây độc cho các sinh vật khác. Các chất độc của các loài tảo này có thể được
tích tụ trong quá trình ăn lọc của các loài hai mảnh vỏ, có thể gây nguy hiểm đối với sức khỏe
của con người.
Để giảm thiểu các tác động của các chất ô nhiễm từ các ao nuôi đến chất lượng nước ven bờ
người ta có thể áp dụng các biện pháp lọc sinh học như dùng rừng ngập mặn như nơi hấp thụ
các chất dinh dưỡng dư thừa cũng như nơi sa lắng các chất trầm tích. Robertson và Phillips
(1995) ước tính để hấp thụ chất dinh dưỡng từ 1 ha ao tôm bán thâm canh thải ra cần 2-3 ha
rừng ngập mặn, nhưng phải cần đến 22 ha rừng để hấp thụ chất dinh dưỡng từ 1 ha ao nuôi
tôm thâm canh. Cũng có tác giả cho rằng 0,04 – 0,12 ha rừng ngập mặn có khả năng loại bỏ
hoàn toàn nitơ vô cơ trong (Monoroy, 1999). Alongsi, 1991 và Boto 1992 cũng đồng ý rằng
rừng ngập mặn rất có hiệu quả trong việc loại chất thải rắn và các chất dinh dưỡng thải từ ao
nuôi.
Người ta cũng có thể nuôi ghép các loài nhuyễn thể 2 mảnh vỏ hay rong biển với cá và tôm;
sử dụng nước ao tôm để nuôi các loài hàu, vẹm và cỏ biển như những giải pháp tích cực cho
môi trường. Tương tự, việc sử dụng nước trong ao tôm để tưới cho các loài cây trồng chịu
mặn cũng đã được quan tâm. Glenn 1991 và Brown 1999 đã thấy rằng các loài cây chịu mặn
thấp (Salicornia bigelovii, Atrilplex, Distichlis) và chịu mặn cao (Suaeda esteroa) có khả
năng loại nitơ trong nước ao nuôi tôm rất hiệu quả. Cải tiến phương pháp cho ăn hay nâng
cao chất lượng thức ăn bằng cách tạo thức ăn cân bằng chất dinh dưỡng cũng là cách giảm tải
lượng nitrogen và phosphorus vào môi trường. Thức ăn sống như các loài tảo và Chironomid
mặc dù có hàm lượng protein cao nhưng làm giảm việc bài tiết nitrogen do đó ít có tác động
xấu tới chất lượng nước so với thức ăn nhân tạo.
45

Chất thải bùn đáy ao nếu không được quản lý tốt cũng có tácđộng rất lớn đến môi trường.
Các chất trầm tích sa lắng trên nền đáy ao, khi kết thúc vụ nuôi thường được sên vét và đưa
vào môi trường. Lượng bùn này có thể đạt mức 200 tấn/ha/vụ, không qua xử lý và được thải
ra ngoài. Lượng bùn đáy này chứa một lượng lớn các chất ô nhiễm, thức ăn dư thừa, các sản
phẩm bài tiết của vật nuôi, chúng thường thải ra ngoài môi trường không theo qui hoạch hay
thường dùng để bồi đắp các đê bao ao nuôi. Các chất thải trong lượng bùn này sau đó sẽ theo
nước mưa đi vào môi trường nước, làm ô nhiễm môi trường nước tự nhiên hay cả nước trong
các ao nuôi.
Nuôi trồng thủy sản vùng ven biển đòi hỏi một lượng lớn nước ngọt cần thiết cho các hoạt
động sinh hoạt, và vận hành nuôi. Thêm vào đó, ở vùng ven biển miền Trung, nơi có đất cát
và nhiệt độ cao, lượng nước bốc hơi bề mặt và thẩm thấu qua đất có thể lên tới 1-3% thể tích
ao nuôi. Phần lớn các ao nuôi cao triều ở vùng ven biển cần phải bổ sung một lượng lớn nước
ngọt để điều hòa độ muối thích hợp cho vật nuôi. Theo tính toán của các chuyên gia, cứ 1 ha
nuôi tôm trên cát cần từ 16.000 đến 27.000 m3 nước, nếu chỉ tính mỗi năm nuôi 2 vụ, thì
lượng nước ngọt phải sử dụng cho cả hàng ngàn ha ao nuôi tôm trên cát ở khu vực Bắc Trung
bộ và duyên hải miền Trung đã lên tới hàng tỷ m3/năm. Vì vậy, một lượng lớn thể tích nước
ngầm cần phải được bơm lên để có được môi trường nuôi thích hợp, điều đó đã làm cho mức
nước ngầm bị hạ thấp dẫn đến việc nhiễm mặn các vùng đất và các dòng nước kế cận. Ngay
cả khi không bơm nước ngọt lên thì việc thải nước thải có nồng độ muối cao có thể làm
nhiễm mặn đất nông nghiệp. Việc thiếu nước ngọt, nhiễm mặn không chỉ làm giảm nước
cung cấp cho nông nghiệp mà còn ảnh hưởng đến nước uống và các nhu cầu khác của người
dân và của các hệ sinh thái ven bờ. Tại Ninh Thuận, các nhà khoa học đa ghi nhận được hiện
tượng rừng cây phi lao ven biển chết do thiếu nước ngọt. Có nơi rừng phòng hộ bị suy kiệt,
gió cát vùi lấp cả ao nuôi tôm.
Vì một lý do nào đó, khi ao nuôi bị bỏ hoang cũng gây tổn thất lớn. Tuổi thọ trung bình của
một ao nuôi trồng thủy sản phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như chế độ quản lý, chất
lượng nước, trầm tích đáy, và thường dao động trong vòng 7-15 năm. Tại một số vùng nuôi
trồng thủy sản tập trung, do thiếu hệ thống thủy lợi hợp lý hoặc hệ thống xử lý chất thải
không đảm bảo làm cho chất lượng nước trong ao nuôi biến đổi theo chiều hướng xấu, dẫn
đến hiện tượng nền đáy bị tích lũy quá nhiều dưỡng chất và sau một số năm sử dụng, năng
suất nuôi giảm đáng kể, sau đó ao sẽ bị bỏ hoang. Để trả các ao tôm này lại hiện trạng đất tự
nhiên ban đầu không phải là chuyện đơn giản, nó tốn chi phí lớn và phức tạp. Phần lớn do
điều kiện môi trường gốc ban đầu đã bị thay đổi nghiêm trọng. Hệ thống dòng chảy bị gián
đoạn, thay đổi; khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây cối của lớp đất bề mặt đã bị mất
đi, v.v. Vì vậy việc chuyển đổi hình thức sử dụng các vùng đất này về mặt môi trường hoàn
toàn là một vấn đề nan giải.
Ngoài ra, việc du nhập các đối tượng nuôi mới (thường là các loài biến đổi gen) và một số
bệnh phát sinh trong quá trình nuôi của các đối tượng này có thể gây bệnh cho các loài địa
phương. Mặc dù hầu hết các bệnh từ cá không gây hại cho con người, tuy nhiên một số bệnh
cũng như có thể lan truyền cho con người (ví dụ như vi khuẩn Streptococcus). Để hạn chế các
tác động bất lợi của nuôi trồng và chế biến thủy sản đối với môi trường, cần thực hiện một số
biện pháp sau đây:

Bảo đảm nguyên tắc đánh giá tác động môi trường cần thiết cho các chương trình và
dự án mới trong ngành nuôi tôm.
Cấm xây dựng các ao nuôi tôm ở những vùng đước lâu năm. Phát triển cơ chế đồng
quản lý rừng đước trên cơ sở cộng đồng.
46

Xúc tiến chương trình giáo dục cho tất cả các bên liên quan từ cán bộ quản lý đến cá
nhân những người nuôi tôm về khái niệm phát triển bền vững và làm thế nào để đạt
được điều đó trong nuôi trồng thủy sản.
Quản lý chặt chẻ việc sử dụng thức ăn và thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản.
Đánh giá tác động môi trường của các cơ sở chế biến tôm đồng thời xử lý nghiêm
ngặt đối với các cơ sở vi phạm vệ sinh môi trường.
Khẩn trương xây dựng quy hoạch vùng nuôi tôm, nhất là nuôi tôm trên cát, rà soát lại
diện tích nuôi trồng để có biện pháp quản lý thích hợp.
5. Khai thác khoáng sản và dầu mỏ
Khoáng sản là vật liệu của vỏ trái đất, được hình thành từ quá trình tự nhiên mà con người có
thể khai thác, sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp cho các nhu cầu của cuộc sống. Quá
trình phát triển văn minh của nhân loại gắn liền với quá trình phát triển khả năng sử dụng
nguyên liệu khoáng sản. Sự phân chia các thời đại văn minh đã thể hiện rất rõ vấn đề này ở
các thời kỳ đồ đá cũ, đồ đá mới, đồ đồng, đồ sắt. Đặc biệt trong điều kiện phát triển cao độ
của khoa học kỹ thuật trong thời đại ngày nay thì khả năng khai thác khoáng sản ngày một
nâng cao. Việc khai thác sử dụng sử dụng tài nguyên khoáng sản đã thúc đẩy sự phát triển
của các nền văn minh nhân loại, đem lại sự thịnh vượng cho nhiều lãnh thổ. Tuy nhiên, việc
khai thác tài nguyên cũng gây ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự
phát triển của các ngành kinh tế khác.
Môi trường vùng ven bờ là thành phần chịu nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của việc khai
thác khoáng sản đặc biệt là các sự cố do khai thác dầu đem lại. Những tác động của việc khai
thác khoáng sản đến môi trường vùng ven bờ có thể kể như sau:
Tùy theo từng loại khoáng sản mà con người có phương thức khai thác, chế biến và tàng trữ
cho thích hợp để đưa lại hiệu suất cao nhất. Cho dù khai thác khoáng sản bằng công nghệ nào
đi nữa thì hậu quả mà môi trường vùng ven bờ phải gánh chịu cũng rất nghiêm trọng. Các tác
động đến vùng ven bờ có thể kể là:

Các hợp chất khí CO2, SO2, CO, bụi, v.v. được sinh ra do các công đoạn nổ mìn, các
phương tiện vận chuyển là rất lớn. Các khí này sẽ tạo nên mưa axít làm ảnh hưởng
đến môi trường nước và sinh vật.
Hoạt động chảy tràn đem các chất ô nhiễm trên mặt đất và một số lượng lớn các vật
liệu trầm tích vào vùng nước mặt làm suy thoái chất lượng nguồn nước, các chất ô
nhiễm theo nước chảy tràn mang theo xăng dầu, nước làm nguội máy của các phương
tiện thi công, các hóa chất liên quan đến chất nổ và các chất thải sinh hoạt khác làm ô
nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mặt.
Các hoạt động khai khoáng và nấu chảy kim loại đã tạo ra một lượng bùn lớn.
Sự quản lý các phế phẩm và các tồn dư khác từ khai khoáng có thể dẫn tới một loạt
các vấn đề ở vùng hạ lưu ven biển do những thay đổi về nơi cư trú, chất lắng đọng và
hoá chất.
Việc khai thác nước ngầm ở vùng ven biển đã gây ra một số vấn đề nghiêm trọng và
dài hạn, đặc biệt trong điều kiện nước biển dâng lên thể hiện qua việc xâm nhập mặn
ở vùng cửa sông và nhiễm mặn nước ngầm.
Khai thác cát sạn ở vùng ven bờ một cách bất hợp lý đã ảnh hưởng đến các hệ sinh
thái vùng bờ.
Trong khai thác vàng, người ta đã sử dụng một lượng lớn thủy ngân để trích ly vàng
trên cát dòng sông làm cho nước bị ô nhiễm Hb. Thủy ngân rất bền vững trong môi

47

Source: https://vvc.vn
Category custom BY HOANGLM with new data process: Bảo Tồn

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay