Đinh Tiên Hoàng – Wikipedia tiếng Việt

Đinh Tiên Hoàng (chữ Hán: 丁先皇; 22 tháng 3 năm 924 – tháng 10 năm 979), tên húy là Đinh Bộ Lĩnh (丁部領)), là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời Bắc thuộc.

Đại Cồ Việt là nhà nước khởi đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, thiết kế xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Nước Ta. [ 1 ] Đinh Bộ Lĩnh mở nước, lập đô, lấy niên hiệu với tư cách người đứng đầu một vương triều bề thế : Thời kỳ phục quốc của Nước Ta, từ họ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm nhà vua. Sau 1 số ít vị vua xưng đế từ trước và giữa thời Bắc thuộc [ 2 ] rồi bị thất bại trước hoạ ngoại xâm, đến thời nhà Đinh, người cầm quyền Nước Ta mới thực sự vươn tới đỉnh điểm ngôi vị và thương hiệu, khẳng định chắc chắn vị thế vững chãi của vương quốc độc lập, thống nhất qua những triều đại Đinh – Lê – Lý – Trần và buộc những điển lễ, sách phong của cường quyền phương Bắc phải công nhận là một nước độc lập. Từ Đinh Bộ Lĩnh trở về sau, những Vua không xưng Vương hay Tiết độ sứ nữa mà đều xưng Hoàng đế như một dòng chính thống. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến TW tập quyền tiên phong ở Nước Ta, [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống cho những triều đại phong kiến trong lịch sử vẻ vang .

Tên gọi

Hầu hết các chính sử như: An Nam chí lược; “Việt sử lược”, “Đại Việt sử ký toàn thư”, Việt sử tiêu án, đều viết Đinh Tiên Hoàng vốn họ Đinh tên Bộ Lĩnh (丁部領).[6][7] Trần Trọng Kim trong sách Việt Nam sử lược cho biết “có sách” nói Đinh Tiên Hoàng tên thật là Đinh Hoàn (丁桓), “Bộ Lĩnh” là tước quan Trần Lãm phong cho Đinh Hoàn nhưng do Khâm định Việt sử thông giám cương mục và các sách khác đều nói Đinh Tiên Hoàng tên thật là Đinh Bộ Lĩnh nên ông không dùng tên Đinh Hoàn để gọi Đinh Tiên Hoàng. Trần Trọng Kim không nói rõ “sách” mà ông nhắc đến là sách gì.[8]

Tên gọi ” Đinh Tiên Hoàng ” có nghĩa là vị vua đã khuất mang họ Đinh, đây không phải là tên thật hay thuỵ hiệu, miếu hiệu của Đinh Tiên Hoàng. Trong Việt sử lược Đinh Tiên Hoàng được gọi là ” Đinh Tiên Vương ” ( 丁先王 ), ” Tiên Vương ” ( 先王 ), [ 6 ] trong Đại Việt sử ký toàn thư ông được gọi là ” Tiên Hoàng Đế ” ( 先皇帝 ), ” Tiên Hoàng ” ( 先皇 ). [ 7 ] Tuy nhiên, cũng cần chú ý quan tâm rằng toàn bộ bản dịch Việt sử lược lúc bấy giờ đều là bản được in lại trong pho đại bách khoa Tứ khố toàn thư của nhà Thanh bên Trung Quốc, trong đó những tước vị Hoàng đế của những vua Đại Việt đều được tác giả thời đó giáng xuống tước Vương, theo như quan điểm ” An Nam tiếm xưng Đế hiệu ” của những chính quyền sở tại phong kiến Trung Quốc. Dù vậy, ” Tiên Vương “, ” Tiên Hoàng “, ” Tiên Hoàng Đế ” đều là tên gọi tôn kính dùng để chỉ một vị vua đã khuất. [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] Một nhân vật lịch sử dân tộc Nước Ta khác cũng có cái tên chắp ghép theo kiểu này là Trần Hưng Đạo ( ghép từ họ Trần của ông với Hưng Đạo vương, là tước vị của ông ) .

Tuổi thơ

Đinh Bộ Lĩnh sinh vào ngày Rằm tháng Hai, năm Giáp Thân ( tức 22 tháng 3 năm 924 ) ở thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng ( nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn, Tỉnh Ninh Bình ). [ 12 ] [ 13 ] Cha của ông là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Hoan Châu. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ngoại ( Gia Thủy, Nho Quan ) ở, vẫn nương nhờ người chú ruột là Đinh Thúc Dự ở quê nội gần đó. Từ bé Đinh Bộ Lĩnh đã tỏ ra là người có năng lực chỉ huy, ông cùng những bạn chăn trâu lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Và trong đám bạn đó, có Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ và Trịnh Tú, những người sau này cùng Đinh Bộ Lĩnh tạo nên sự nghiệp .

Theo sách An Nam chí lược: Đinh Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư, Giao Châu. Cha là Công Trứ, làm nha-tướng của Dương Đình Nghệ. Cuối thời Ngũ Đại, Dương Đình Nghệ đi trấn Giao Châu, lấy Công Trứ quyền Thứ sử Hoan Châu. Trước đây, Ngô Quyền giết Kiều Công Tiễn, cha con Bộ Lĩnh về với Ngô Quyền, Quyền nhân khiến Công Trứ về nhiệm chức cũ. Khi Công Trứ mất, Bộ Lĩnh kế tập chức cha.[14]

Theo sách Việt sử tiêu án : Vua Đinh, tên Bộ Lĩnh, người làng Đại Hoàng, động Hoa Lư. Thân phụ vua là Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, quản lý Hoan Châu, mẹ là họ Đàm, nằm mộng thấy có một người lớn tay cầm cái ấn vua đến xin làm con, bèn có mang mà sinh ra vua, được ít lâu thì phụ vương dắt vào ở trong động, chơi với trẻ chăn trâu, lũ trẻ tôn làm đàn anh. Mỗi khi chơi đùa, giao tay nhau cho vua ngồi lên, khiêng đi làm xe, lấy bông lao làm cờ, dàn ra hai bên, rước đi làm như nghị vệ nhà vua. Trong nhà nuôi được con lợn, thừa lúc mẹ đi vắng, vua mổ lợn khao bọn trẻ rồi di cư đến Đào Úc Sách. Bà mẹ sợ, mang chuyện ấy nói với chú Đinh Dự, Dự cầm dao đi tìm, đuổi đến bờ sông, vua chạy sa vào bùn lầy, thấy có con rồng vàng, đỡ hai bên vua sang qua sông. Ông chú sợ bỏ về, vua bèn theo bọn ngư hộ làm nghề đánh cá, bắt được ngọc huê lớn để vào đáy giỏ. Đến đêm vào chùa ngủ trọ, nhà sư thấy trong cái giỏ có tia sáng tròn, hỏi cớ sao, và nói rằng : ” Anh này ngày sau cao quý không hề nói được “. Sau đến nương nhờ Trần Minh Công, làm chỉ huy của quân Trần đánh đâu được đấy, gọi là Vạn Thắng Vương. Quần thần dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng đế. [ 15 ]

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép::”Vua mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự hiểu kiến thức không bằng vua, cùng nhau suy tôn ông làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm củi, thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho bọn chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau: “Đứa bé này khí lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, Chúng ta nếu không theo về, ngày sau hối thì đã muộn”. Bèn dẫn con em đến theo, rồi lập làm trưởng ở sách Đào Áo. Người chú của vua giữ sách Bông chống đánh với vua. Bấy giờ, vua còn ít tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan,[16] cầu gãy, vua rơi xuống bùn, người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng hộ vệ vua, nên sợ mà lui. Vua thu nhặt quân còn sót, quay lại đánh, người chú phải hàng. Từ đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre, gọi là Vạn Thắng Vương.”

Thống nhất quốc gia

Không phục Hậu Ngô Vương

Năm 951, con trai Ngô Quyền là Ngô Xương Văn truất bỏ Dương Tam Kha, tự lập làm vương, xưng là Nam Sách vương, rước anh là Ngô Xương Ngập trở về lập làm Thiên Sách vương. Đinh Bộ Lĩnh lúc ấy cậy có khe núi Hoa Lư hiểm trở, không chịu làm tôi. Hai vương muốn cất quân đi đánh, Bộ Lĩnh sợ, sai con là Liễn vào triều làm con tin để ngăn ngừa việc xuất quân. Đinh Liễn đến, hai vương trách tội Bộ Lĩnh không đến chầu, rồi bắt giữ Liễn đem theo đi đánh. [ 17 ]

Hai bên đánh nhau hơn một tháng không phân thắng bại, hai vương bèn treo Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết Đinh Liễn. Đinh Bộ Lĩnh tức giận nói Đại trượng phu chỉ mong lập được công danh, há lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao. Liền sai hơn mười tay nỏ nhắm Đinh Liễn mà bắn. Hai vương kinh sợ: Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm gì. Bèn không giết Liễn mà đem quân về.[17]

Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư : Đinh Bộ Lĩnh nghe tiếng Trần Minh Công là người có đức mà không có con nối, bèn cùng với con là Đinh Liễn đến lệ thuộc. Minh Công thấy Đinh Bộ Lĩnh dáng mạo khôi ngô quái gở, lại có khí lượng, mới nuôi làm con, ơn yêu đãi ngày càng hậu, nhân đó giao cho coi quân, sai đi đánh những hùng trưởng khác, đều thắng được cả. [ 18 ]Theo sách Việt Nam sử lược : Do không hòa với chú nên Đinh do đó Bộ Lĩnh cùng với con là Liễn sang ở với Sứ-quân Trần Minh-công ở Bố-hải khẩu ( Phủ Kiến-xương, Thái-bình ), [ 19 ] chống hai vua Hậu Ngô Vương và những sứ quân khác .Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính. Dưới trướng ông những hào kiệt của Giao Châu đều xuất hiện ( Giao Châu thất hùng gồm : Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, Phạm Cự Lạng ). [ 20 ] [ 21 ]

Loạn 12 sứ quân

Năm 944 Ngô Quyền mất. Anh vợ của Ngô Quyền là Dương Tam Kha tự lập làm vua là Dương Bình Vương. Năm 950, Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền, lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua, xưng là Nam Tấn vương. Ngô Xương Văn đón anh trai là Ngô Xương Ngập về cùng làm vua, xưng là Thiên Sách Vương. Đến năm 954, Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập bị bệnh mất. [ 17 ]

Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình bị phục binh bắn chết.[22] Sách An Nam chí lược chép:Văn chết, tham-mưu của Văn là Ngô Xử Bình, Thứ Sử Phong Châu Kiều Tri Tả, Thứ Sử Ninh Châu Dương Huy và nha tướng Đổ Cảnh Thạc, dùng binh tranh lập, rồi đều bị Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên.[14]

Năm 966, sau cái chết của Nam Tấn vương những hùng trưởng đua nhau nổi dậy chiếm cứ Q. ấp để tự giữ, hình thành 12 sứ quân : [ 17 ]
Sơ đồ chiếm đóng 12 sứ quân

Dẹp những sứ quân

Mở đầu sự nghiệp dẹp loạn, Đinh Bộ Lĩnh đã vượt mặt lực lượng do Lữ Xử Bình và Kiều Công Hãn ở triều đình Cổ Loa, là những quyền thần nhà Ngô trực tiếp tranh giành ngôi vua. [ 26 ]

Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc là một sứ quân mạnh, có thành cao hào sâu. Theo thần phả Độc nhĩ đại vương ở Thanh Oai, Đỗ Cảnh Thạc là người trí dũng mưu lược, Đinh Bộ Lĩnh phải bàn mưu tính kế mà đánh. Ban đêm, Đinh Bộ Lĩnh cho quân bao vây 4 mặt thành và tiến đánh bất ngờ vào Trại Quyền. Bấy giờ Đỗ Cảnh Thạc đang ở đồn Bảo Đà, quân tướng không ứng cứu được nhau, bị mất cả thành luỹ, đồn trại, lương thực bèn bỏ thành chạy. Hai bên giao tranh hơn một năm sau, Đinh Bộ Lĩnh hạ được thành. Đỗ Cảnh Thạc bị trúng tên chết.

Sứ quân Nguyễn Siêu chiếm Tây Phù Liệt ( Thanh Trì, Thành Phố Hà Nội ). Được tin Đinh Bộ Lĩnh sắp đánh. Nguyễn Siêu đem 1 vạn quân đóng ở Thanh Đàm dùng Nguyễn Trí Khả làm tiên phong, Trần Côn làm tá dực, Nguyễn Hiền làm tổng quản những đạo quân, ngày đêm rèn luyện, đào hào đắp luỹ để phòng bị. Trong trận giao tranh tiên phong Đinh Bộ Lĩnh bị mất 4 tướng là Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết và Cao Sơn. Lần thứ 2 Đinh Bộ Lĩnh bày binh bố trận giao chiến. Nguyễn Siêu chia 50% quân ở lại giữ thành, một nửa cùng sứ tướng vượt sông tìm viện binh hỗ trợ của những sứ tướng khác. Gần tới bờ bắc, gặp gió lớn, thuyền bị đắm. Đinh Bộ Lĩnh biết tin, bèn sai võ sĩ nửa đêm phóng lửa đốt doanh trại. Quân Nguyễn Siêu tan. Nguyễn Siêu tử trận. [ 27 ]Sứ quân Kiều Công Hãn đóng tại Phong Châu, chiếm 3 châu Thái Châu, Hào Châu và Phong Châu xưng là Kiều Tam Chế. Trước thế mạnh của sứ quân Đinh Bộ Lĩnh, Kiều Công Hãn thua chạy đem quân xuống phía nam với dự tính hợp sức với Ngô Xương Xí. Khi đến thôn Vạn Diệp ( Xã Nam Phong, Nam Trực, Tỉnh Nam Định ) bị một hào trưởng địa phương là Nguyễn Tấn đem quân chặn đánh, Kiều Công Hãn bị thương chạy đến Lũng Kiều thì mất. [ 28 ]Nguyễn Thủ Tiệp sau khi chiếm hàng loạt châu Vũ Ninh tự xưng là Vũ Ninh Vương. Khi giao tranh thì Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du cũng không chống nổi Đinh Bộ Lĩnh, bỏ chạy về Cần Hải ( Cửa Cồn, Quỳnh Lưu, Nghệ An ) đánh nhau vài trận rồi chết ở trang Hương Ái. [ 29 ]Nguyễn Khoan khi vững mạnh xưng là Quảng Trí Quân, tức vị Vua vĩ đại. Cuối năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẫn quân lên vùng Tam Đái, Nguyễn Khoan chống không nổi, tử trận. Hai tướng và hai bà vợ của sứ quân này tự vẫn ở Ao Nâu, cạnh gò Đồng Đậu .Sau khi Đinh Bộ Lĩnh tiến công thành Hồi Hồ, tướng quân Kiều Thuận chống không nổi đành vượt sông Hồng chạy sang thành Mè tích hợp với Ma Xuân Trường chống lại Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh đánh chiếm thành Mè, Kiều Thuận tử trận. Ma Xuân Trường chạy lên Yên Bái trốn thoát. Ngày nay, thị xã Phú Thọ còn dấu tích thành Mè. Làng Trù Mật xã Văn Lung thị xã Phú Thọ có đền thờ Ma Xuân Trường và Kiều Thuận. [ 30 ]Lý Khuê chiếm giữ vùng đất Luy Lâu bờ nam sông Đuống, đặt địa thế căn cứ ở Siêu Loại ( Thuận Thành ). Theo thần tích ở xã Bình Sơn ( Thuận Thành, TP Bắc Ninh ) thì sứ quân Lý Khuê đánh nhau với Đinh Bộ Lĩnh bị thua và mất ở làng Dương Xá ( nay thuộc Gia Lâm, TP.HN ) .Đầu năm 968, sau khi chiếm lại vùng TP Bắc Ninh, vốn do những sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp và Lý Khuê cát cứ, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh chuyển quân về Siêu Loại, cho Đinh Liễn và Nguyễn Bặc đem ba ngàn quân tiến đánh quân Lã Đường. Lã Đường chủ trương tản quân, đóng giữ chỗ hiểm yếu rậm rạp vùng bùn lầy. Hễ quân Hoa Lư đi đông thì tránh mà đi lẻ là chặn đánh, diệt một vài lính, rồi lại bỏ chạy. Nguyễn Bặc bày kế cho quân Hoa Lư tập trung chuyên sâu, tập kích quân lương tiếp vận của quân Lã Đường. Trong vòng 7 ngày, vòng đai phòng thủ bên ngoài của quân Lã Đường bị tàn phá trọn vẹn, Đinh Liễn, Nguyễn Bặc đánh sâu vào TT, bắt được Lã Đường, chém chết, thu phục trọn vẹn đất Tế Giang .

Chiêu hàng

Để triển khai trách nhiệm dẹp loạn và thống nhất quốc gia, Đinh Bộ Lĩnh đã khôn khéo vận dụng kế sách chính trị phối hợp với quân sự chiến lược. Khi lực lượng còn non yếu, ông đã link với sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu ( Tỉnh Thái Bình ) rồi thu phục được Phạm Bạch Hổ ở Đằng Châu ( Hưng Yên ) về làm Thân vệ tướng quân. Cuối cùng khi lực lượng đủ mạnh ông không tàn phá mà thu phục Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm ( TP. Hà Nội ), Ngô Xương Xí ở Bình Kiều ( Thanh Hóa ) vốn là những hậu duệ nhà Ngô để lấy lòng thiên hạ. [ 31 ]Chỉ trong vài năm, Đinh Bộ Lĩnh lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác, được xưng tụng là Vạn Thắng Vương. Chiến tranh kết thúc năm 968. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi nhà vua. Thắng lợi của Đinh Bộ Lĩnh là thắng lợi của khuynh hướng thống nhất vương quốc, của ý thức dân tộc bản địa và ý chí độc lập trong nhân dân. Việc vua Đinh Tiên Hoàng khéo phối hợp dùng võ thuật và giải pháp chiêu hàng những sứ quân để sớm chấm hết loạn 12 sứ quân là rất kịp thời, vì không lâu sau đó nhà Tống duỗi tới Quảng Châu Trung Quốc, diệt nước Nam Hán ( 971 ), áp sát biên giới Đại Cồ Việt. Nếu không có sự Open của Đinh Bộ Lĩnh để thống nhất vương quốc bị san sẻ tan nát, Nước Ta khó thoát khỏi họa xâm lăng từ phương bắc tái diễn khi nhà Tống triển khai xong việc thống nhất Nước Trung Hoa .

Cai trị

Mở nước Đại Cồ Việt

Năm Mậu Thìn 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, [ 32 ] đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời Kinh ấp về động Hoa Lư, mở màn dựng đô mới, đắp thành đào hào, xây hoàng cung, đặt triều nghi. [ 33 ]Tên Đại Cồ Việt 大瞿越. Đại là từ Hán-Việt và có nghĩa “ vĩ đại : great ” ; Cồ là một chữ Việt có nghĩa “ to lớn, vĩ đại : great “ ; được ký âm bằng một chữ Hán có âm tương ứng .Đinh Tiên Hoàng cho xây hoàng cung, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ. Vua phong cho Nguyễn Bặc là Định Quốc công, Đinh Điền là Ngoại giáp, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư, Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục, Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được làm Sùng chân uy nghi và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt vương. Vua lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc và Ca Ông .Từ năm Canh Ngọ 970, mở màn đặt hiệu năm là Tỉnh Thái Bình. Đinh Tiên Hoàng truyền cho đúc tiền đồng, là tiền tệ xưa nhất ở Nước Ta, gọi là tiền đồng Tỉnh Thái Bình. Nhà Đinh là triều đại tiên phong đặt nền móng cho nền kinh tế tài chính – tiền tệ của Nhà nước phong kiến Nước Ta. Đồng tiền Tỉnh Thái Bình được đúc bằng đồng, hình tròn trụ, lỗ vuông, hoàn toàn có thể xâu thành chuỗi. Mặt phải có đúc bốn chữ ” Thái Bình Hưng Bảo “, mặt sau có chữ ” Đinh “. Hầu hết gần 70 triều vua sau đó, triều nào cũng cho đúc tiền của mình bằng đồng .Về chính trị trong nước có phần quá thiên về sử dụng hình phạt nghiêm khắc. Vua muốn dùng uy tương khắc và chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng : ” Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn “. Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm .Về quân sự chiến lược, Đinh Tiên Hoàng phân ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi một đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy quân đội nhà Đinh khi đó có 10 đạo, là khoảng chừng 1 triệu người trong khi dân số quốc gia khoảng chừng 3 triệu. Vua thực thi ” ngụ binh ư nông “, đó là hình thức vũ trang toàn dân, dựa vào nghề nông mà tăng trưởng quân đội. [ 34 ] [ 35 ]

Đóng đô Hoa Lư

Kinh đô nhà Đinh đóng tại Hoa Lư ( Tỉnh Ninh Bình ), thuộc về Trường Châu thời Bắc thuộc lần 3. Dựa vào những khối đá vôi cao dựng đứng ôm lấy vùng đất cao không bị ngập do thủy triều và nước lũ, lại có sông Hoàng Long ở phía bắc, sông Sào Khê chảy xuyên qua kinh thành thuận tiện giao thông vận tải. Đinh Tiên Hoàng đã cho đắp những đoạn tường thành nhân tạo nối tiếp những dãy núi vạn vật thiên nhiên để tạo thành một đô thị vững chãi bảo vệ cung vua bên trong. [ 36 ]Việc Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư mà không chọn Cổ Loa của nhà Ngô hay Đại La thời Bắc thuộc được nhà nghiên cứu Lê Văn Siêu xem là quyết định hành động khôn ngoan. Với hoàn cảnh đương thời, sau nhiều năm loạn lạc, Hoa Lư là khu vực kế hoạch, nằm ở TT quốc gia thời đó, khống chế được cả khu vực sơn cước từ Thanh Hóa đổ ra, sông Đà đổ xuống, thêm vị trí vừa hùng vừa hiểm hoàn toàn có thể cầm cự với Trung Hoa, nếu có cuộc xâm lăng của phía này tới. [ 37 ] Với việc chọn Hoa Lư quê nhà làm kinh đô, Đinh Tiên Hoàng có thêm sức mạnh của yếu tố nhân hòa, bởi do thời loạn 12 sứ quân trước đó mà nhân dân những vùng khác hoàn toàn có thể còn hoài cổ về sứ quân chiếm đóng .Nhà địa chất, đồng thời là nguyên quản trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đức Lương cũng cho rằng : tính hiểm yếu của Hoa Lư không riêng gì nhờ phần thành lũy, nền điện mà chính bởi mạng lưới hệ thống những thung lũng núi sâu hơn bên trong hoàn toàn có thể liên thông với nhau bởi những khe ngách mà ngày này do nước biển dâng cao đã biến thành những lạch nước ngầm. [ 36 ]Khi quyết định hành động dời Đại La về Hoa Lư, Đinh Tiên Hoàng không chỉ muốn dựa vào vị trí hiểm yếu của vùng núi Tràng An, tìm sự hậu thuẫn của quê nhà, họ tộc mà còn vì muốn thoát khỏi những link, ràng buộc của thể chế Trung Quốc vẫn còn nhiều tác động ảnh hưởng ở TT châu thổ lớn để chuyên tâm chuẩn bị sẵn sàng những bước tiến mới cơ bản cho sự chấn hưng dân tộc bản địa, việc trở lại thiết kế xây dựng kinh đô ở Hoa Lư của vua Đinh không phải là sự quay trở lại với Chủ nghĩa địa phương mà chính là nhằm mục đích hướng tới một tầm nhìn to lớn hơn của Chủ nghĩa dân tộc bản địa can đảm và mạnh mẽ. [ 38 ]Từ năm 968, Hoa Lư trở thành kinh đô tiên phong của nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền ở Nước Ta, sống sót 42 năm ( 968 – 1010 ), gắn với sự nghiệp của ba triều đại liên tục là nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý với những dấu ấn lịch sử dân tộc : thống nhất giang sơn, đánh Tống – dẹp Chiêm và phát tích quy trình định đô TP.HN. Sau này những triều đại nhà Trần, nhà Tây Sơn đều thiết kế xây dựng phòng tuyến ở vùng đất này để làm ra những chiến công vang dội. Hiện nay, Khu di tích lịch sử cố đô Hoa Lư nằm trong quần thể di sản quốc tế Tràng An, trở thành một điểm du lịch văn hóa truyền thống lịch sử dân tộc nổi tiếng ở Tỉnh Ninh Bình .

Xưng Hoàng Đế

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, Đại Việt sử ký toàn thư chép sự kiện: “Bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế” và “Vua mở nước, lập đô, đổi xưng Hoàng đế“.

Ở Trung Quốc việc xưng Vương có từ thời thượng cổ đến thế kỷ III trước Công nguyên. Đến thời Tần Thủy Hoàng mới tự xưng là Tần Thủy Hoàng đế. Chữ Hoàng có nghĩa là người thống trị bậc cao nhất, Chữ Đế trước đó chỉ dùng để gọi Trời mà không dùng để gọi Vua. Tần Thủy Hoàng muốn khẳng định mình có uy quyền thống trị toàn bộ thế gian vì đã thôn tính được 6 nước khác thống nhất Trung Hoa qua việc đổi xưng Hoàng đế.[39]

Ở Việt Nam, từ thời Hồng Bàng có Kinh Dương Vương và Hùng Vương. Người xưng Đế đầu tiên là Lý Nam Đế (nếu công nhận tính chính thống của nhà Triệu thì người xưng Đế đầu tiên ở Việt Nam là Triệu Vũ Đế), tiếp theo là Mai Hoắc Đế. Việc xưng Đế của các vị vua này khẳng định nước Nam cũng có Nam Đế giống với Bắc Đế ở Trung Quốc. Nhưng riêng Lý Nam Đế và Mai Hoắc Đế mới xưng Đế mà chưa xưng Hoàng Đế và chỉ tồn tại một thời gian ngắn, sau đó đất nước chưa thoát khỏi thời Bắc thuộc.[40] Đinh Tiên Hoàng là người xưng hoàng đế đầu tiên ở Việt Nam.

Nhận xét về Đinh Tiên Hoàng đế, sử gia Lê Văn Hưu cho rằng có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết, Lê Tung cho rằng vua chính thống của nước Việt ta, thực bắt đầu từ đấy.

Ngoại giao

Để tránh cuộc đụng độ, năm Nhâm Thân 972, [ 41 ] Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn sang cống nhà Tống Trung Quốc .Năm 975, vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ. [ 42 ] Từ đó Đại Cồ Việt giữ lệ sang triều cống phương Bắc. Như vậy bên ngoài vua Đinh bên ngoài thì xưng phiên thuộc nhưng trong nước thì vẫn xưng danh Đế .Từ năm Tỉnh Thái Bình thứ 7 ( 976 ), thuyền buôn của những quốc tế đến dâng sản vật của nước họ tại kinh đô Hoa Lư để kết mối giao thương mua bán .

Cái chết

Đinh Tiên Hoàng có con trưởng là Đinh Liễn, nhưng ông lại lập con út Hạng Lang làm Thái tử. Vì vậy đầu năm Kỷ Mão 979, Đinh Liễn tức giận sai người giết Hạng Lang. Theo chính sử, tháng 11 ( âm lịch ) năm đó, một viên quan là Đỗ Thích, mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi. Ông được táng ở sơn lăng Trường Yên, kinh đô Hoa Lư .

Gần đây, một số nhà nghiên cứu lịch sử đưa ra giả thuyết: Đỗ Thích không phải là thủ phạm giết vua. Theo nhà giáo Hoàng Đạo Thuý và một số nhà nghiên cứu hiện nay,[43] Đỗ Thích không thể làm chuyện này. Thích chỉ là một viên hoạn quan, chức nhỏ, sức mọn, không hề có uy tín hay vây cánh. So với Thích, trong triều có các bạn của vua Đinh như Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lưu Cơ,… đều nắm trọng quyền, đủ cả văn lẫn võ. Vì vậy ông không thể mơ tưởng việc sẽ khuất phục được các đại thần nhà Đinh để ngồi yên trên ngai vàng.

Nghi án cung đình

Cũng theo nhóm tác giả này, việc Lê Hoàn làm Phó vương khi Đinh Toàn lên ngôi, cấm cố họ Đinh cùng với việc những trung thần Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp khởi binh chống Lê Hoàn hoàn toàn có thể là những biểu lộ cho thấy mưu đồ thoán đoạt của Lê Hoàn. Ngày nay, số đền thờ những trung thần này rất nhiều so với vài đền thờ Lê Hoàn và thái hậu họ Dương. Các nhà nghiên cứu có đặt giả thiết là hành vi của Lê Hoàn có sự trợ giúp của Dương Vân Nga. Trong toàn cảnh cung đình của nhà Đinh lúc ấy có 3 hoàng tử, trưởng là Liễn, thứ là Toàn, út là Hạng Lang. Liễn là con trưởng, có nhiều công lao ; Hạng Lang lại được vua yêu nên đã lập làm thái tử dù mới lên 4 tuổi, khó hoàn toàn có thể thể hiện những phẩm chất cao siêu hơn Đinh Liễn. Tiên Hoàng lại có những 5 hoàng hậu ; hoàn toàn có thể đã xảy ra cuộc đua ganh giữa 5 hoàng hậu về tương lai của ngôi thái tử. Trong cuộc đua ganh này, Dương hậu đã chọn Lê Hoàn làm chỗ dựa. Sau sự kiện Đinh Liễn giết Hạng Lang, Đinh Tiên Hoàng không xử phạt Đinh Liễn mà vẫn dự tính để Liễn nối nghiệp. Có thể điều này làm phật ý Dương hậu khi bà cho rằng trước đã đặt Hạng Lang trên Liễn thì nay Liễn cũng phải ở dưới Toàn ; và Dương Hậu đã cùng Lê Hoàn hành vi .Theo lý giải của 1 số ít nhà nghiên cứu, một trong những nguyên do khiến nhà Tống phát binh xâm lược Đại Cồ Việt chính là do Đinh Liễn, người đã đi lại với nhà Tống và được chính vua Tống phong chức, bị hại. Việc phong Liễn cho thấy nhà Tống thừa nhận ngôi vị của Liễn. Với danh nghĩa trừng trị kẻ phản nghịch, nhà Tống phát binh. Việc Lê Hoàn thành công xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Tống hoàn toàn có thể đã khiến nhân dân tha thứ cho ông. Các nhà nghiên cứu cũng đặt giả thiết Đỗ Thích chỉ là người vô tình xuất hiện ở hiện trường sau khi cha con vua Đinh bị hại ( vì là quan nội thị ) và lúc bấy giờ ông không hề thanh minh mình vô tội lúc nhiều người ập tới. Ông vội vã chạy trốn và bị bắt chém sau 3 ngày, trở thành nạn nhân trong mưu đồ của Lê Hoàn và Dương hậu .Tác giả Lê Văn Siêu trong sách ” Nước Ta văn minh sử ” [ 44 ] nêu ra giả thiết :

Trong cuộc chiến cung đình giữa các hoàng hậu, bà mẹ Hạng Lang đã chọn Nguyễn Bặc làm vây cánh. Khi Hạng Lang bị giết mà thủ phạm Đinh Liễn không bị trừng trị, bà nảy ý định trả hận và đã cùng Nguyễn Bặc dùng Đỗ Thích ra tay. Sau đó Nguyễn Bặc theo lệnh của bà bắt giết Thích để “diệt khẩu”.

Tuy nhiên, giả thiết này còn có những điểm không thoả đáng. Nguyễn Bặc là bạn ” chí cốt ” của Tiên Hoàng từ nhỏ. Quan hệ giữa ông và Tiên Hoàng rất gần, quan điểm cho rằng ông nảy dự tính phản Tiên Hoàng là hơi gượng ép. Dù ông có bụng ” thờ ” Hạng Lang chứ không ” thờ ” Liễn ( chọn chủ tương lai ) thì cũng chỉ giết Liễn chứ không hề giết luôn cả Tiên Hoàng. Thứ nữa, nếu Nguyễn Bặc bày đặt sai Đỗ Thích giết cha con vua Đinh thì sau khi Thích hành sự xong, ông phải lập tức ” đón lõng ” bắt Thích ngay và chém tức khắc, không hề để trốn tránh tới 3 ngày, vì nhỡ trốn tránh lọt vào tay người khác lại khai ra ông, như vậy ông sẽ bị lộ là chủ mưu .Cũng tác giả Lê Văn Siêu trong sách ” Nước Ta văn minh sử ” nêu ra một giả thiết khác : [ 44 ]

Đỗ Thích là “gian tế” của nhà Tống, giết cha con vua Đinh để làm rối triều đình và cho nhà Tống thừa cơ mang quân sang đánh chiếm. Vì Trung Hoa là nước lớn nên phía Đại Cồ Việt dù có biết, cũng không dám “làm to chuyện” gian tế đó, chỉ dồn sức đánh trả sau này.

Giả thiết này kém thuyết phục nhất. Cha con vua Đinh bị giết tháng 10 năm 979. Lê Hoàn lên thay ngôi nhà Đinh tháng 7 năm 980, hơn nửa năm sau (sau khi đã dẹp các trung thần nhà Đinh). Nhà Tống mãi tháng 3 năm 981 mới mang quân sang, tức là gần 1 năm rưỡi sau khi cha con vua Đinh bị hại. Nếu nhà Tống rắp tâm hại cha con vua Đinh để đánh chiếm thì phải sắp sẵn quân, chờ khi được tin “Đã giết được Giao Chỉ quận vương” là vượt biên giới ngay để người Nam bị “sét đánh không kịp bưng tai” thì mới chiếm được. Sự thực là tin vua Đinh bị hại đến khá muộn. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, cha con vua Đinh bị hại từ tháng 10 năm 979, tới tận tháng 6 năm 980, Tri Ung châu nhà Tống là Hầu Nhân Bảo mới dâng biểu lên Tống Thái Tông tâu nên đánh Giao Chỉ và từ tháng 7 năm đó vua Tống mới bắt đầu động binh. Tới khi Lê Hoàn đã lên ngôi (tháng 7 năm 980), nghe tin nhà Tống động binh và đưa thư dụ hàng, tới tháng 10 năm đó vẫn thác xưng danh của Đinh Toàn xin nối ngôi vua cha Tiên Hoàng để gửi thư sang vua Tống nhằm hoãn binh. Nhà Tống khi đó vẫn dè dặt dùng “lễ” để chiêu dụ trước. Nếu nhà Tống chủ mưu và chưa muốn dùng binh, ít ra cũng động binh sớm để áp sát biên giới, uy hiếp rồi sai sứ sang doạ để Giao Chỉ quy phục. Sự thực là nhà Tống động binh muộn và ra quân cũng muộn, đủ thời gian cho Lê Hoàn dẹp xong nội loạn, giữ vững nhân tâm và chuẩn bị đón đánh thắng lợi.

Lời bàn

Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bản kỉ, quyển 1, có chép :

Trước kia, khi vua [Đinh Tiên Hoàng] còn hàn vi, thường ra sông Giao Thủy [ở Ninh Bình] để đánh cá. Có lần kéo lưới, bắt được viên ngọc khuê to, nhưng lại lỡ làm va vào mũi thuyền, khiến bị mẻ mất một góc. Đêm ấy, nhà vua vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thủy, để viên ngọc ở dưới đáy giỏ cá. Đang khi nhà vua ngủ say, thấy giỏ cá có ánh sáng lạ phát ra, nhà sư của chùa Giao Thủy bèn gọi Nhà vua dậy để hỏi cho ra duyên cớ. Nhà vua cứ tình thực mà kể, lại còn lấy viên ngọc cho nhà sư xem. Xem xong, nhà sư than rằng: “Ngày sau, anh sẽ phú quý không biết kể thế nào cho hết, nhưng tiếc là phúc đức không được bền lâu…”[45]

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói :

Đế vương dấy nghiệp không ai không nhờ ở trời. Nhưng thánh nhân không cậy có mệnh trời mà làm hết phận sự của mình. Việc đã thành, lại càng lo nghĩ đề phòng. Sửa sang lễ nhạc hình án chính sự là để phòng giữ lòng người. Đặt nhiều lần cửa, đánh hiệu canh là đề phòng kẻ hung bạo. Bởi vì lòng dục không cùng, việc đời không bến, không thể không đề phòng trước… Cho nên Tiên Hoàng không được trọn đời là do chưa làm hết việc người, không phải mệnh trời không giúp. Cũng vì vua không giữ được trọn đời khiến cho cái thuyết sấm đồ đắc thắng, đời sau không thể không bị mê hoặc vì điều đó.

Nhận định

Chính thống nước ta

Xưa Đinh Tiên Hoàng

Rồng vàng báo ứng

Điềm mở đế vương

Hoa Lư dấy nghĩa

Bình dẹp sứ quân

Hoà bình vừa lập

Việc khác chưa thành

Triều nghi mới chế

Khiển lệnh cờ hồng

Quân ngũ liền lệnh

Lừng lẫy võ công

Bày ra mưu rộng

Lưu lại phép vương

Giúp cho hậu thế

Thông thái vô lường

Ơn thấm lòng dân

Đời xa chẳng quên

( Trích văn bia đền thờ Đinh Tiên Hoàng ở Hoa Lư )Nhà sử học Lê Văn Hưu nhận xét :

Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng Hoàng Đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết…

Nhà sử học Ngô Sĩ Liên nhận xét :

Vận trời đất, bí rồi ắt thái, Bắc Nam đều cùng một lẽ ấy. Thời Ngũ đại bên Bắc triều Trung Quốc suy loạn rồi Tống Thái Tổ nổi lên. Ở Nam triều nước ta, 12 sứ quân phân chia quấy nhiễu, rồi Đinh Tiên Hoàng nổi lên. Không phải là ngẫu nhiên mà do vận trời vậy.”

Nhà sử học Phan Huy Chú trong ” Lịch triều hiến chương loại chí ” nhận xét :

Xét nước ta từ thời Hùng Vương mới bắt đầu thông hiếu với Trung Quốc nhưng danh hiệu còn nhỏ không được dự vào hàng chư hầu triều hội… đến khi Đinh Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục mở mang bờ cõi, bấy giờ điển lễ, sách phong của Trung Quốc mới cho đứng riêng là một nước.”

Nhà sử học Ngô Thì Sĩ trong ” Đại Việt sử ký tiền biên ” nhận xét :

Tiên Hoàng dấy lên từ một người áo vải, một lần nổi lên dẹp được 12 sứ quân. Rồi dựng nước, dựng kinh đô, đổi niên hiệu, chính ngôi vua. Võ công vang khắp, văn hóa đều đổi mới…“[46]

Sử gia Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét:

Vua tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, quét sạch các hùng trưởng… song không biết dự phòng, không giữ được trọn đời, tiếc thay!”

Lê Tung trong nhận xét trong ” Việt giám thông khảo tổng luận ” :

“Đinh Tiên Hoàng nhân khi nhà Ngô loạn lạc mất nước, dẹp được Mười hai sứ quân, trời cho người theo, nhất thông bờ cõi, dùng bọn Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trinh Tú làm người phù tá, sáng chế chiều nghi, định lập quân đội, vua chính thống của nước Việt ta thực bắt đầu từ đấy. Kể về mặt dẹp giặc phá định, thì công to lắm.”[47]

Trần Hưng Đạo cũng nói với Vua Trần Anh Tông rằng :

Thời Đinh Lê, dùng được người hiền lương, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới cùng lòng, lòng dân không chia, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống.

Đinh Tiên Hoàng là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc. Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam.[1] Đinh Bộ Lĩnh mở nước Đại Cồ Việt, lập đô kinh đô Hoa Lư, lấy niên hiệu Thái Bình với tư cách người đứng đầu một vương triều bề thế: Thời kỳ phục quốc của Việt Nam, từ họ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế. Sau một số vị vua xưng Đế (chưa xưng Hoàng Đế) từ trước và giữa thời Bắc thuộc[2] rồi bị thất bại trước hoạ ngoại xâm, đến thời nhà Đinh, người cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập, thống nhất qua các triều đại Đinh – Lê – Lý – Trần và buộc các điển lễ, sách phong của cường quyền phương Bắc phải công nhận là một nước độc lập. Từ Đinh Bộ Lĩnh trở về sau, các Vua không xưng Vương hay Tiết độ sứ nữa mà đều xưng Hoàng đế như một dòng chính thống. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam,[3][4][5] vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử.

Điểm giống Tần Thủy Hoàng

Cuộc đời và sự nghiệp vua Đinh Tiên Hoàng của Nước Ta, có nhiều điểm giống với Tần Thủy Hoàng của Nước Trung Hoa : [ 48 ] [ 49 ]

  • Thời gian ở ngôi hoàng đế đều là 12 năm: Đinh Tiên Hoàng (968 – 979), Tần Thủy Hoàng (221 – 210 TCN).
  • Danh hiệu: Trước khi làm hoàng đế, cả hai đều có vương hiệu: Thủy Hoàng là Tần Vương, Tiên Hoàng là Vạn Thắng Vương. Sự thăng tiến trong danh hiệu này không chỉ là thăng tiến trong sự nghiệp cá nhân mà còn đều đánh dấu sự thay đổi của lịch sử quốc gia. Từ thời nhà Chu, các vua đứng đầu thiên hạ (thiên tử) đều chỉ xưng vương, các chư hầu thời Chiến Quốc cũng chỉ xưng vương, từ Tần Thủy Hoàng chính thức xưng hoàng đế là sự thay đổi “nâng bậc” về danh hiệu của vua đứng đầu thiên hạ. Đinh Bộ Lĩnh trong lịch sử Việt Nam cũng tương tự: từ khi giành độc lập trở lại thời họ Khúc, những người cầm quyền ban đầu đều chỉ xưng Tiết độ sứ với tư cách “trưởng quan” cai trị một vùng lãnh thổ thuộc về Trung Quốc. Tới nhà Ngô, các vua mới xưng vương và tới Đinh Bộ Lĩnh xưng hoàng đế, cũng là sự thay đổi lớn, tạo dấu ấn trong lịch sử quốc gia như Tần Thủy Hoàng.
  • Đinh Tiên Hoàng xây dựng thành Hoa Lư bằng cách nối lại các dãy núi đá trong tự nhiên bằng tường thành nhân tạo, Tần Thủy Hoàng xây dựng Vạn Lý Trường Thành cũng bằng cách nối lại các đoạn thành sẵn có của các nước chư hầu. Cả hai đều lập đô ở những vùng núi non hiểm trở. Những căn cứ quân sự này đều đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới.
  • Đinh Tiên Hoàng Đế và Tần Thủy Hoàng Đế cùng trở thành hoàng đế sau khi tiêu diệt các thế lực cát cứ phân tán (dẹp nội chiến) để lập nên một đất nước thống nhất, tự chủ, chuyển đổi chế độ phong kiến phân quyền sang chế độ phong kiến tập quyền.
  • Cả Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng khi làm vua đều dùng chính sách cai trị bằng pháp luật nghiêm khắc.
  • Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng khi mất đều đương quyền hoàng đế, người kế tục sự nghiệp đều là con thứ và sớm để quyền bính rơi vào tay quyền thần. Hai triều đại mà hai hoàng đế sáng lập tuy ngắn ngủi nhưng để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử.

Tôn vinh

Tượng đài Đinh Tiên Hoàng ĐếHầu hết những thành phố, thị xã ở Nước Ta đều có đường mang tên Đinh Tiên Hoàng. Một số nơi có đường mang tên Đinh Bộ Lĩnh như ở Thành phố Hồ Chí Minh, La Gi, Hương Trà, Tỉnh Nam Định, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho, Lai Châu, Bạc Liêu, Huế, Quy Nhơn, Cao Lãnh, Tỉnh Lào Cai, … Nhiều trường học được đặt tên Đinh Tiên Hoàng. Một số vận động viên thể thao khi gia nhập quốc tịch Nước Ta cũng lấy họ theo vua như Đinh Hoàng La, Đinh Hoàng Max ( bóng đá ), Đinh Hoàng Chai ( bóng chuyền ) .Tháng 3 năm 2011, chiếc tàu hộ tống mang tên lửa lớp Gepard 3.9 tiên phong của Hải quân nhân dân Nước Ta được đặt tên là Đinh Tiên Hoàng. [ 50 ]

Trong văn học, thẩm mỹ và nghệ thuật

Ngoài các tư liệu chính sử, trong văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm nổi tiếng viết về Đinh Bộ Lĩnh tiêu biểu như: Cờ lau dựng nước, Trận chiến trong thung lũng, Hoàng đế cờ lau, Sử ca Đinh Bộ Lĩnh, truyền thuyết sông Hoàng Long, truyền thuyết con ngựa đá, bóng cờ lau, Giao châu thất hùng, Anh hùng thời loạn… Trong đó có tác phẩm đã được chuyển đổi thành phim. Trong dân gian, Đinh Bộ Lĩnh còn được xưng tụng với những tên gọi: anh hùng Vạn Thắng Vương, Đại Thắng Minh Hoàng đế… Hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh thời niên thiếu đã đi vào thơ ca tuổi trẻ Việt Nam từ thời tiểu học:

Bé thì chăn nghé, chăn trâu
Trận bày đã lấy bông lau làm cờ
Lớn lên xây dựng cơ đồ
Mười hai sứ tướng bây giờ đều thua

Đinh Tiên Hoàng đế cũng Open trong những tác phẩm cổ tích, truyền thuyết thần thoại như truyện Mộc tinh – quỷ Xương Cuồng, sự tích Cường Bạo hoàng thượng, Con rái cá, ….

Đền thờ, tượng đài

Các di tích lịch sử thờ Vua Đinh Tiên Hoàng rất phong phú và có ở nhiều vùng miền khác nhau như ở Tỉnh Ninh Bình, Tỉnh Nam Định, Hà Nam, Tỉnh Thái Bình, TP. Hà Nội, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Phú Thọ, Thanh Hóa, Hòa Bình, Quảng Bình, Thành Phố Đà Nẵng, Đắc Lắc, Hưng Yên, Quảng Nam, … Hơn 500 di tích lịch sử thờ vua Đinh Tiên Hoàng và những danh nhân thời Đinh ở Nước Ta đã phản ánh sâu rộng sự nghiệp và tình cảm đặc biệt quan trọng mà nhân dân dành cho vị vua này .Tỉnh Ninh Bình hiện còn tối thiểu 23 di tích lịch sử thờ vua Đinh Tiên Hoàng và 150 di tích lịch sử thờ những danh nhân thời Đinh. Các đền thờ Vua đều nằm ở phía bắc tỉnh Tỉnh Ninh Bình ( trong khi những đền thờ Lê Đại Hành lại nằm ở nửa phía nam của tỉnh này ). Các đền, đình tiêu biểu vượt trội như : đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đình Yên Trạch, đình Yên Thành, Phủ Đại ở khu di tích lịch sử cố đô Hoa Lư, xã Trường Yên ; đình Trung Trữ xã Ninh Giang, Hoa Lư ; Núi Kỳ Lân và đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở xã Gia Phương ; đình Viến và đền thung Lau ở động Hoa Lư ; đình Kính Chúc và đình Thượng Kính Chúc, xã Gia Phú, huyện Gia Viễn ; di tích lịch sử Đàn Tế Trời ở đồi Thờ, xã Quỳnh Lưu ; đền Vua Đinh ở thôn Lão Cầu, xã Văn Phú hà đông ; những đình Mỹ Hạ, đình Ngọc Nhị, đình Ngọc Ba ở xã Gia Thủy và những đình thôn Lược, đền Bóng, đình Ngọc Mỹ thôn Me, đình Vua làng Xát, đền làng Đông Thịnh ở xã Sơn Lai huyện Nho Quan .Quần thể di tích lịch sử thờ Vua Đinh ở Tỉnh Nam Định gồm có đền vua Đinh ở xã Yên Thắng ; đình Viết ở xã Yên Chính ; đình Thượng Đồng, đền Thượng Thôn, đình Cát Lũy, đình Tân Cầu ở xã Yên Tiến, đình Đằng Động ở xã Yên Hồng, Ý Yên ; đình Bườn xã Mỹ Thắng, huyện Mỹ Lộc ; đình Bách Cốc, đền làng Bịch Minh Thuận, Huyện Vụ Bản ; đền vua Đinh ở Giao Thủy, Xuân Kiên, Xuân Trường … Hà Nam có đền Lăng ở Thanh Liêm ; đình Lạc Nhuế, đền Thượng ở xã Đồng Hóa và Miếu Trung làng Đặng Xá ở xã Văn Xá, đình Phương Khê ở xã Ngọc Sơn ( Kim Bảng ) ; đền Ung Liêm ( thành phố Phủ Lý ) ; đình Đôn Lương, phường Yên Bắc ( Duy Tiên ) ; đình Yến ở xã Thanh Hà ( Thanh Liêm ) … TP. Hà Nội có đền Đinh Tiên Hoàng Đế ở làng Vài, xã Hợp Thanh huyện Mỹ Đức với liên hoan mở hàng năm, đền Bách Linh ở Hòa Nam, Ứng Hòa đúc tượng thờ Vua Đinh cùng bài vị thờ 99 vị thần khác hay đền thờ ở làng Cổ Điển, Tứ Hiệp, Thanh Trì …

Xa hơn là Đà Nẵng có đền thờ vua Đinh ở xã Hoà Khương, Hoà Vang; Quảng Nam có tượng Vua Đinh trong nhà thờ Tộc Đinh ở Hạ Nông, Điện Bàn; Lạng Sơn có đình Pác Mòng thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở thôn Quảng Trung xã Quảng Lạc, thành phố Lạng Sơn[51] hay Đình Pò Háng, xã Bính Xá, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn cũng là nơi thờ Vua Đinh của người Tày vùng biên giới Việt – Trung;[52] Thanh Hóa có đền Vua Đinh ở làng Quan Thành, Thọ Tân, Triệu Sơn; Bắc Kạn có đền Phja Đeng thuộc xã Cường Lợi huyện Na Rì thờ Vua Đinh. Hưng Yên có đình Phù Liệt ở xã Thắng Lợi, Văn Giang thờ Vua Đinh và ngũ vị đại vương giúp vua dẹp loạn.[53] Thái Bình có miếu Vua Đinh ở xã Song An, Vũ Thư và chùa Kỳ Bá ở thành phố Thái Bình; Vĩnh Phúc có chùa An Hòa, Vĩnh Yên với ngôi tổ đường thờ Vua Đinh Tiên Hoàng; Phú Thọ có đình Nông Trang là nơi thờ Đinh Bộ Lĩnh gắn với sự kiện hưởng ứng của dân địa phương khi vua về đây dẹp 2 sứ quân họ Kiều;[54] Người Mường Hòa Bình thờ vua Đinh ở đình Sóc Bai (hay đình Xác Bái) ở xã Yên Bồng, Lạc Thủy; Đắk Lắk có đình Cao Phong ở Hòa Thắng, Buôn Ma Thuột; Quảng Bình có nơi thờ Vua Đinh ở Đồng Hới; Thừa Thiên Huế có miếu Lịch Đại Đế vương thờ Vua Đinh cùng với các vị Vua Hồng Bàng là những vị vua khai sáng… Tượng đài anh hùng Đinh Bộ Lĩnh ở Thành phố Hồ Chí Minh được dựng ở suối Tiên và công viên Tao Đàn. Tại trung tâm thành phố Ninh Bình đã xây dựng khu quảng trường Đinh Tiên Hoàng Đế.

Nhiều di sản văn hóa truyền thống phi vật thể tương quan đến tín ngưỡng thờ cúng Vua Đinh Tiên Hoàng như : Tục đánh quân ở làng Yên Thư xã Yên Phương ( Yên Lạc, Vĩnh Phúc ) lại có những trò ” Mục đồng đánh quân ” và ” Chợ mục đồng ” suy tôn ý thức thượng võ của Đinh Bộ Lĩnh khi qua đây đánh dẹp sứ quân Nguyễn Khoan ở Vĩnh Mỗ. Tục ném đá ở vùng Cát Ngạn ( gồm 8 xã ở Thanh Chương, Nghệ An ) mà trọng tâm là ở Cát Văn của người dân Thanh Chương vào dịp Tết Đoan ngọ hàng năm để tưởng niệm ý thức thượng võ của Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ khi người cha còn làm thứ sử Hoan Châu. [ 55 ] Tục cúng ông ba mươi ngày cuối năm có tương quan đến tích vua Đinh xưa tàn phá quỷ Xương Cuồng. Nhiều liên hoan dân gian thường diễn lại tích cờ lau tập trận và những game show dân gian diễn đạt Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ. Trò Xuân Phả ở Thanh Hóa và nghệ thuật và thẩm mỹ hát chèo là những di sản văn hóa truyền thống khởi nguồn từ thời Vua Đinh Tiên Hoàng trị vì .

Gia đình

Tham khảo

  • An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc; Dịch giả:Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam; Nhà xuất bản: Viện Đại Học Huế 1961
  • Đại Việt Sử ký Toàn thư; Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên…; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993.
  • Việt sử tiêu án, soạn giả Ngô Thì Sỹ, Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu; Nhà xuất bản: Văn Sử 1991
  • Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận; soạn giả Lê Tung.[58]
  • Việt Nam sử lược; soạn giả Trần Trọng Kim, Bộ giáo dục- Trung tâm học liệu xuất bản.
  • Lịch triều hiến chương loại chí; Soạn giả Phan Huy Chú; dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản giáo dục, năm 2006.

Chú thích

Xem thêm

Source: https://vvc.vn
Category : Từ Thiện

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay