Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ | Văn mẫu 12

Tài liệu hướng dẫn phân tích tâm trạng hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ gồm những gợi ý cách làm chi tiết và một số bài văn mẫu hay tham khảo phân tích diễn biến tâm trạng và hành động cởi trói cho A Phủ của Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài).

Hướng dẫn nghiên cứu và phân tích tâm trạng, hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ

Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài).

1. Phân tích đề

– Yêu cầu: phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ.

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.

– Phương pháp lập luận chính : nghiên cứu và phân tích .

2. Hệ thống vấn đề

Luận điểm 1: Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ

Luận điểm 2: Thương người cùng cảnh ngộ

Luận điểm 3: Tình thương lớn hơn cái chết

Luận điểm 4: Từ cứu người đến cứu mình.

>> > Xem lại phần hướng dẫn soạn bài Vợ chồng A Phủ ( Tô Hoài )

3. Dàn ý chi tiết cụ thể

a) Mở bài:

– Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm+ Tô Hoài là nhà văn nổi tiếng trên văn đàn từ trước năm 1945. Trong kháng chiến chống Pháp, ông đa phần hoạt động giải trí ở nghành báo chí truyền thông, nhưng vẫn có một số ít thành quả quan trọng trong sáng tác văn học, nhất là về đề tài miền núi .+ Truyện Vợ chồng A Phủ là hiệu quả của chuyến Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc ( 1952 ), ghi lại độ chín của phong thái nghệ thuật và thẩm mỹ Tô Hoài. Tác phẩm viết về đời sống tăm tối và khát vọng sống mãnh liệt của người dân miền núi dưới ách thống trị của thực dân phong kiến .- Giới thiệu cụ thể Mị cứu A Phủ : Mị là nhân vật chính, là linh hồn của tác phẩm. Chi tiết Mị cởi trói cứu A Phủ là cụ thể làm ra mọi giá trị của tác phẩm .

b) Thân bài:

* Khái quát tác phẩm

Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952 của Tô Hoài. Đây là chuyến đi thực tế dài 8 tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng của nhà văn.

– Giá trị nội dung : “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tối tăm đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do.

Giới thiệu sơ lược về nhân vật A Phủ :+ A Phủ là một người trẻ tuổi có thân phận như Mị, cũng phải ở nhà thống lý Pá Tra để gạt nợ .+ Do để mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này sang ngày kia .

* Phân tích tâm trạng, hành động của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ

– Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ :+ Cuộc sống đoạ đày trong nhà thống lý Pá Tra của Mị vẫn tiếp nối .+ Thời gian đọa đày biến cô trở thành người câm lặng trước mọi sự. Những gì diễn ra chung quanh không khiến Mị chăm sóc .+ Những đêm đầu Mị thổi lửa hơ tay, tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống nhà bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước .+ Song, trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản. Mị rất sợ những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn .+ Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến nhà bếp lửa. Đối với Mị, nếu không có nhà bếp lửa ấy, cô sẽ chết héo .- Thương người cùng cảnh ngộ :+ Chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị trông sang A Phủ và nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh lung linh bò xuống má đã xám đen lại. Dòng nước mắt ấy khiến Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng trói thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được .+ Rồi Mị phảng phất nghĩ gần nghĩ xa : Cỡ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi … Người kia việc gì phải chết thế ?- Tình thương lớn hơn cái chết :+ Mị xót xa cho A Phủ như xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ không đáng phải chết .+ Cô cũng sợ nếu mình cởi trói cho chàng trai ấy, bố con Pá Tra biết được sẽ trói thay vào đấy và lại phải chết trên cái cọc ấy … Song có lẽ rằng tình thương ở Mị đã lớn hơn cả sự chết .=> Tình thương ấy khiến cô đi đến hành vi cởi trói cho A Phủ .- Từ cứu người đến cứu mình :+ Khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị đứng lặng trong bóng tối. Song, chính ngay lúc ấy, trong lòng người đàn bà khốn khổ kia mọi chuyện diễn ra rất nhanh .+ Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi vì ở đây thì chết mất .-> Đây không phải là hành vi mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình !=> Hành động táo bạo và giật mình ấy là hiệu quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền .

* Đặc sắc nghệ thuật

– Tạo trường hợp truyện độc lạ, mê hoặc- Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật tài tình- Nghệ thuật kiến thiết xây dựng nhân vật sinh động, có đậm chất ngầu- Ngôn ngữ sinh động, phát minh sáng tạo, giàu tính tạo hình- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, mê hoặc

c) Kết bài:

– Qua tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, tất cả chúng ta thấy được cả sức sống tiềm tàng ở một người phụ nữ bị đọa đày vả về thể xác lẫn niềm tin, tưởng chừng như mất đi hết đời sống tâm hồn .- Khẳng định sự tài tình trong thiết kế xây dựng nhân vật, miêu tả diễn biến tâm trạng của Tô Hoài .

4. Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ

Sơ đồ tư duy diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ

Bài văn đạt giải trong kì thi HSG Quốc gia

Mị là nhân vật TT trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ ” mà nhà văn Tô Hoài đã dành nhiều năng lực và tận tâm để kiến thiết xây dựng. Truyện được trích từ tập “ Truyện Tây Bắc ” ( 1953 ) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc ( 1952 ), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào những dân tộc bản địa miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công xuất sắc trong “ Vợ chồng A Phủ ” không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do năng lực nghệ thuật và thẩm mỹ cùa một cây bút tài hoa. Trong “ Vợ chồng A Phủ ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều giải pháp thẩm mỹ và nghệ thuật, trong đó điển hình nổi bật và đáng quan tâm nhất là giải pháp nghiên cứu và phân tích tâm ý và hành vi của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật và thẩm mỹ ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm ý và hành vi của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm .Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái “ dù làm bất kể việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi ”. Đó là nét tâm ý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, thực trạng sống đen tối đầy thảm kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do đời sống hôn nhân gia đình cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lãnh đạm. Một nguyên do nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người phong phú nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có dự tính ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc sống mình. Thế nhưng “ sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi ”. Chính cho nên vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó .

Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.

Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị tăng trưởng theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời rất lâu rồi … Mị ý thức được về bản thân và về cuộc sống rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ hoàn toàn có thể “ trói ” được thân xác Mị chứ không hề “ trói ” được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc sống. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và đấm đá bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình .Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại liên tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về yếu tố này, Tô Hoài khẳng định chắc chắn : cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ phát cháy và giúp Mị vượt qua đời sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó .Và ở đầu cuối, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì vậy đêm nào Mị cũng ra bên ngoài nhà bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay “ dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi ”. Tại sao Mị lại lãnh cảm, lạnh nhạt trước vấn đề ấy ? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm thông thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai chăm sóc đến. Hay bởi Mị “ sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi ” nên Mị lãnh đạm, lạnh nhạt trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến nhà bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “ Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh lung linh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại ”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đương đầu với cái chết đến rất gần. Chính “ dòng nước mắt lấp lánh lung linh ấy ” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị .Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật kinh khủng lúc trước kia, “ chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cài nhà này ”. Lí trí giúp Mị nhận ra “ Chúng nó thật gian ác ”. Việc trói người đến chết còn những hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người người trẻ tuổi khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc sống đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi .Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở lại với hiện tại, Mị đau khổ cay dắng cho thân phận của mình : “ Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi ”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “ có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như vậy. A Phủ …. Mị phảng phất nghĩ như vậy ”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò !Trong đầu Mị tự nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu đời sống, tài hoa cần mẫn, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã gian ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như vậy ư ?Như vậy, tận mắt chứng kiến “ dòng nước mắt lấp lánh lung linh ” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật gian ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng …Một loạt nét tâm lí ấy thôi thúc Mị đến với hành vi : dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và rất là nguy hại nhưng nó tương thích với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “ đi ngay ” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta hoàn toàn có thể tưởng tượng được nét tâm lí bộn bề trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi : Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết ?. Thế là ở đầu cuối sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời tiên phong. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín : “ A Phủ. Cho tôi đi ! Ở đây thì chết mất ”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy tiềm ẩn biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên do – hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình dung ràng buộc cuộc sống của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài – một nơi mà những kỉ niệm đẹp so với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra làm sao họ cũng chưa biết đến …Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò rất là quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa tương quan với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca tụng những phẩm chất đẹp tươi của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Nước Ta nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã chứng minh và khẳng định được chân lí muôn đời : ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong đời sống .Với truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ ” nói riêng và tập “ Truyện Tây Bắc ” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công xuất sắc trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong thái nghệ thuật và thẩm mỹ : sắc tố dân tộc bản địa đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn từ lời văn giàu tính tạo hình đã quy tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “ Truyện Tây Bắc ” xứng danh với giải nhất truyện ngắn – phần thưởng do Hội nghệ sĩ Nước Ta trao tặng năm 1954 – 1955. Và “ Vợ chồng A Phủ ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu vượt trội cho phong thái Tô Hoài .Truyện “ Vợ chồng A Phủ ” giúp fan hâm mộ cảm thông thâm thúy trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp tất cả chúng ta ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp thêm phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã ý niệm trong truyện ngắn “ Đời thừa ” .

Nghe bài phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ

Xem thêm : Ý nghĩa tiếng sáo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Một số bài văn hay khác phân tích tâm trạng, hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ

Bài mẫu số 1:

      “Đất nước và con người miền Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều quá” (Tô Hoài). Là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Tô Hoài thu hoạch được sau chuyến đi bộ đội vào giải phóng Tây Bắc dài tám tháng, tập truyện “Truyện Tây Bắc” là nỗi nhớ niềm thương bồi hồi xúc động, là lời tri ân sâu sắc mà nhà văn dành tặng cho mảnh đất con người Tây Bắc đau thương mà anh dũng, đẫm nước mắt tủi hờn mà vời vợi chất thơ. Là truyện ngắn đặc sắc hơn cả của tập truyện, “Vợ chồng A Phủ

” là bức tranh chân thực, cảm động về đời sống tối tăm, tủi nhục và sức mạnh vùng lên vươn tới chân trời tự do niềm hạnh phúc của đồng bào những dân tộc bản địa vùng cao Tây Bắc. Giá trị của tác phẩm được kết tinh ở hình tượng nhân vật Mị .Nếu những nhà văn hiện thực phê phán chỉ thấy con người là nạn nhân bất lực của thực trạng thì những nhà văn cách mạng khi nào cũng phát hiện ra sức mạnh Phục hồi trong tâm hồn của những con người cùng khổ. Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Nước Ta, chẳng những rất thành công xuất sắc khi diễn đạt cái chết dần chết mòn của Mị – một cô gái tràn trề sức sống mà còn rất tinh xảo khi tò mò quy trình hồi sinh của Mị. Nếu như có một thực trạng làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất cũng có một thực trạng giúp Mị hồi sinh. Và thực trạng đó chính là đêm đông Mị cắt dây trói cứu A Phủ đầy éo le, kịch tính .A Phủ là chàng trai bần hàn cả cha lẫn mẹ, vì đánh A Sử, A Phủ bị bắt phạt vạ trở thành đứa ở trừ nợ của nhà thống lí Pá tra, cùng chung thân phận nô lệ trâu ngựa với Mị. Một lần sơ ý để hổ vồ mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói bỏ ăn mấy ngày liền giữa mùa đông giá rét .Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa hơ tay. Đã mấy lần rồi, mỗi khi dậy thổi lửa hơ tay, Mị lại thấy cảnh A Phủ bị trói nhưng Mị vẫn thản nhiên dửng dưng lãnh đạm. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Quá quen với cái tạm bợ của cha con thống lí Pá Tra, tâm hồn Mị tê dại đến vô cảm. Và tâm hồn Mị có lẽ rằng sẽ mãi mãi hóa đá nếu như Mị không phát hiện giọt nước mắt của A Phủ. Như mọi đêm, Mị dậy thổi lửa hơ tay, ngọn lửa bập bùng sáng lên, lé mắt trông sang, Mị bỗng phát hiện dòng nước mắt lấp lánh lung linh bò xuống hai hõm má vô vọng của A Phủ – một chàng trai vốn can trường quả cảm. Nước mắt gọi nước mắt : Mị nhớ lại đêm tình mùa xuân bị A Sử trói, nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng cổ mà không sao lau đi được. Niềm đồng cảm trỗi dậy, thương thân bao nhiêu, Mị thương A Phủ bấy nhiêu. Thương mình, thương A Phủ, lòng Mị sục sôi niềm căm hờn phẫn uất với cha con thống lí Pá Tra. Trời ơi, nó bắt trói người ta đến chết, nó bắt mình đến chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật gian ác, lần tiên phong, sau bao năm tháng câm lặng, Mị dõng dạc cất lên lời phán quyết đanh thép cha con thống lí. Mị như lột xác, trở lại làm cô gái quả cảm, khát khao tự do, sục sôi ý thức phản kháng. Rồi Mị nghĩ đến tình cảnh nguy khốn đang ập đến với A Phủ : cỡ chừng này, chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết … Người kia thì việc gì mà phải chết thế ? A Phủ sẽ phải chết, chết oan uổng, phi lí. Nghĩ đến điều ấy, trái tim Mị như thắt lại, cõi lòng nhói đau. A Phủ tiếng gọi buông ra hay tiếng nấc nghẹn ngào xót xa. Rồi Mị miên man nhớ lại đời minh, Mị lại tưởng tưởng hoàn toàn có thể một lúc nào đó, biết đâu A Phủ chẳng đã chốn được, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo Mị cởi trói cho A Phủ, Mị liền phải trói thay, phải chết trên cái cọc này. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm thế nào Mị cũng không thấy sợ. Tình thương người ngày càng mạnh, nó lớn hơn niềm thương thân và giúp Mị thắng lợi mọi nỗi sợ hãi, nó thôi thúc Mị hành vi một cách táo bạo : cắt dây trói cứu A Phủ .Cắt dây trói cho A Phủ xong, Mị bỗng hoảng loạn. Mị chỉ thì thào được một tiếng ” Đi ngay ! ” rồi nghẹn lại. Đứng lặng trong bóng tối, rồi Mị chạy vụt theo, băng đi đuổi kịp A Phủ. Nỗi sợ hãi và hành vi chạy theo A Phủ vô vùng bất ngờ đột ngột nhưng ngẫm ra lại rất là hợp lý, có vẻ như không hề khác được. Là người, ai cũng sợ chết, nhất là khi cái chết cận kề. Là một cô gái, Mị lại rất yêu đời và ham sống, Mị không hề gật đầu cúi đầu chờ chết ở cái nơi âm ti trần gian này. Cuối cùng, phải kể đến chất xúc tác làm cho cuộc làm mưa làm gió nhân tính hoàn tất. Đó là hành vi quật sức vùng lên chạy của A Phủ. Hành động ấy như tia lửa bắt cháy nguồn sống mãnh liệt trong Mị, thôi thúc Mị hành vi táo bạo : cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Vậy là, sau bao năm tháng bị vùi dập, sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị đã phát cháy mãnh liệt trong đêm đông định mệnh. Sức sống ấy như nguồn sức mạnh vô song giúp Mị thắng lợi tổng thể mọi thế lực bạo tàn cường quyền và thần quyền. Chính sức mạnh ấy đã giải cứu cho A Phủ và Mị khỏi quốc tế âm ti để đến với chân trời tự do, niềm hạnh phúc

Đọc Vợ chồng A Phủ, ta chẳng thể nào không xót xa một cô Mị bị chà đạp, vùi dập, tàn nhẫn, dã man, bị dìm xuống kiếp ngựa trâu, một cô Mị cứ chết dần chết mòn, như con rùa lùi lũi trong xó tối, như cái xác không hồn. Nhưng cái để Mị chạm vào trái tim người đọc sâu đậm nhất vẫn là một cô Mị tiềm tàng sức sống mãnh liệt, âm thầm, khát vọng lớn lao. Mị của Tô Hoài đã dũng cảm vươn lên từ nhọc nhằn, khổ đau để đi về phía có ánh sáng của tự do. Cái đẹp nhất, nhân văn nhất của tác phẩm chính là ở đó.

Văn mẫu hay : Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ

Bài mẫu số 2:

    Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài được giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tác phẩm ra đời từ kết quả cuộc thâm nhập đời sống đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc, kể về cuộc đời khốn khó trăm chiều của người dân vùng cao khi chưa có ánh sáng của Đảng. Đọc Vợ chồng A Phủ

, ta không hề quên được chi tiết cụ thể Mị cắt dây trói cứu A Phủ – một chi tiết cụ thể làm ra mọi giá trị tác phẩm. Và đúng như ai đó đã từng nói, khi cắt dây cứu A Phủ, Mị đã tự cắt dây trói buộc cuộc sống mình với nhà thống lí Pá Tra .Câu chuyện về Mị, được mở màn từ một hình ảnh rất giàu sức gợi : “ Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra, thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi gai, thái cỏ ngựa, vải, chẻ củi hay cõng nước dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rượi ”, chỉ với hai câu văn đơn giản và giản dị ấy thôi, thực chất vấn đề đã hiện lên khá nét. Câu văn cũng như dài thêm ra để fan hâm mộ lĩnh hội một cách thấu đáo. Vị trí Open của Mị đã nói lên toàn bộ, ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa, thậm chí còn còn như gắn liền với chúng .Mị vốn là một cô gái con nhà nghèo – “ nghèo từ trong trứng ” ; cô gái trẻ giàu lòng yêu đời, ham sống và có tài thổi sáo ; Mị còn là một cô gái chịu khó, một đứa con hiếu thảo … Nhưng, vì một thứ “ nợ gia truyền ” của người nghèo, cô phải “ đi tù khổ sai ” trong nhà thống lí Pá Tra, dưới hình thức làm dâu gạt nợ. Biết bao thân phận người dân miền núi, đã bị trả giá bằng cả đời người như bởi hình thức cho vay nặng lãi .Thời gian đầu, khi mới ở “ nhà tù Pá Tra ”. Mị đau đớn, uất ức, phản kháng kinh khủng. “ Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc ”. Cô không hề gật đầu làm thân phận nô lệ cho nhà giàu. Nhưng, toàn bộ đã thành định mệnh, nàng Kiều của Nguyễn Du, trước khi lao vào vào cuộc sống ô nhục, cũng một lần nghĩ đến quyên sinh, mà cũng không thoát khỏi kiếp đọa đày 15 năm, ở đây Mị còn khổ hơn, bởi món nợ vẫn còn đổ lên đầu bố già .Ở âm ti trần gian nhà Pá Tra, bao khó khăn vất vả, cực nhọc nhất đổ lên đầu. Mấy năm sau khi bố qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, do tại “ Mị quen cái khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng như mình cũng là con trâu, con ngựa ( … ) biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi ”. Đời Mị chỉ là việc làm tiếp nối đuôi nhau nhau, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại : tết xong thì hái thuốc phiện, năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa thì bẻ bắp … thêm vào sự đọa đày thể xác ấy còn là ách ép chế về ý thức mê tín dị đoan, thần quyền đã tương hỗ rất đắc lực cho giai cấp thống trị. Nó thực sự là thứ “ thuốc phiện ý thức ” như lời Mác nói .Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực đau lòng : con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, lê dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê liệt cả niềm tin phản kháng. “ Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ” thật không ở đâu mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ đến thế ! Cũng không ở đâu, con người lại tự mình coi rẻ mình một cách vô vọng như vậy. Mị cam chịu thân phận con rùa trong xó chỉ biết ngồi trong cái buồng kín kẽ, trông ra hành lang cửa số vuông mờ mờ trăng trắng, “ đến khi nào chết thì thôi ” .Như đã nói ở phần đầu, Mị có một tuổi trẻ niềm hạnh phúc, một khát khao làm chủ đời sống, tính cách ấy, phẩm chất ấy không khi nào chết, nó chỉ trong thời điểm tạm thời bị đè nén xuống. Và ngọn gió để thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị, là thực trạng nổi bật : mùa xuân về trên vùng cao : “ Hồng Ngài năm ấy, ăn tết vào lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất kinh hoàng ”. Dẫu trong thời tiết khắc nghiệt, mùa xuân về cũng đem đến cho người dân vùng cao một niềm vui sống, được sức sống của tạo vật và con người như bừng tỉnh : “ trong những làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra treo trên những mỏm đá, xòe ra như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng, lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thậm, rồi sang màu tím man mát. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà … ”. Sức mạnh của ngòi bút nhân đạo Tô Hoài không chỉ dừng lại ở tình cảm xót thương Mị, ở sự tố cáo tính tàn khốc của giai cấp thống trị, mà còn ở chỗ nhìn ra con người bên trong của nhân vật. Ông đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu của tiềm thức nhân vật, cho thấy vẫn còn le lói chút ánh sáng, hơi ấm của niềm ham sống, khát khao niềm hạnh phúc, như lớp tro dày nguội lạnh vẫn còn ủ chút than hồng, lớp than ấy chỉ cần ngọn gió thoáng qua là bùng lên. Tô Hoài đã góp thêm vào truyền thống cuội nguồn nhân đạo trong nền văn học dân tộc bản địa một lời nói có thế lực và sức tái tạo riêng .Hoàn cảnh ấy không hề tác động ảnh hưởng vào tâm hồn Mị. Trong những yếu tố “ ngoại của mùa xuân, phải kể đến tiếng sáo : “ ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai sáo gọi bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi … ”. Như vậy, với Mị, tiếng sáo là hình tượng hấp dẫn nhất của tình yêu, khát vọng ham sống. Trong không khí ấy Mị lại được kích động bởi men rượu : “ Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát ”. Cách uống rượu ấy như báo trước sự làm mưa làm gió mà chính Mị cũng chưa ý thức rõ : “ Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng ( … ), còn Mị thì đang sống về ngày trước ” .Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua thực trạng sống “ phi thời hạn ” lâu nay của mình. Tiếp đó, lòng ham sống trong cô trỗi dậy mãnh liệt : “ Mị thấy phơi phới trở lại ”. Phản ứng tiên phong đến trong tâm lý Mị là một ý nghĩ : “ Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho hết ngay, chứ không thèm nhớ lại nữa … ” ý nghĩ về cái chết lúc này, là sự phản kháng kinh khủng với thực trạng .Trong khi ấy, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, điệu đàng Mị. Nó là hình tượng của sự sống mà bấy lâu nay Mị đã quên, giờ đang trở lại. Tiếng sáo theo sát diễn biến tâm trạng nhân vật. Tiếng sáo từ chỗ là một vấn đề của thực tại bên ngoài ( lơ lửng bay ngoài đường ), đã trở thành sự hiện hữu của đời sống bên trong ( rập rờn trong đầu ) .Từ những chuyển biến trong tâm lý, Mị đã có một hành vi thật ý nghĩa “ Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ vào đèn cho thêm sáng “. Hành động này có ý nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi đời sống tối tăm triền miên của quá khứ .Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt, cũng là lúc nó bị vùi dập một cách tàn ác. A Sử bước vào, thản nhiên xách ra một thúng sợi đay, trói đứng Mị vào cột nhà .Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột nhà ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát niềm hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn tệ, lạnh nhạt. Lúc mới bị trói, Mị vẫn còn như sống trong tâm trạng mê say với tiếng sáo ngoài kia. Mị như quên mình đang bị trói, quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong tích tắc khát khao đời sống mãnh liệt, Mị đã “ vùng bước tiến ”. Như trong thực tiễn phũ phàng là vòng dây trói đang thít chặt, dẫu mong ước mãnh liệt đến mấy, Mị cũng không vượt qua được. Hai hình tượng của tham vọng và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngược, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan .“ Mị không nghe tiếng sáo nữa, chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách ( … ) Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa ” – thực tại phũ phàng đã bóp nghẹt những khát vọng tươi đẹp. Kết cục ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không tự giải thoát cho mình ; đồng thời nó cũng hứa hẹn những cuộc làm mưa làm gió trong tương lai của nhân vật .Sau đêm xuân bị trói đứng, tình cảm u mê của Mị có phần trầm trọng. Trước cảnh A Phủ bị trói đứng, lúc đầu Mị là người trọn vẹn vô cảm, vô hồn, cô vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. A Phủ có là cái xác chết đứng đây, Mị cũng thế thôi. Đôi mắt mở trừng trừng của A Phủ chẳng gợi lên cho Mị một điều gì. Nhưng như đã nói ở đoạn trên, khát vọng đi theo tiếng gọi tự do hãy còn đó hồn Mị. Không phải ngẫu nhiên, hình ảnh ngọn lửa được tác giả lặp đi lặp nhiều lần trong một đoạn văn miêu tả tâm lí nhân vật khá thâm thúy, tinh xảo .Nhưng, cái gì đã khiến Mị trở lại với con người thật của mình ? Một lần trở dậy, “ ngọn lửa bập bừng sáng lên, Mị hé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ : vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh lung linh bò xuống hai gò má đã xám đen lại ”. Chao ôi ! nước mắt. Cái giọt đau, giọt khổ ấy đã làm Mị “ chợt nhớ lại ” việc Mị bị trói đứng năm trước, cũng nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được ; Mị lại nhớ đến người đàn bà đã bị trói chết trong nhà này, và A Phủ chỉ đêm nay là chết thôi. Tết năm trước đã thế, lần này, trí nhớ của Mị lại lóe lên một cách vô thức. Và như một phản ứng dây chuyền sản xuất, nó nối lại ba số phận. Mị không còn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng. Mị nghĩ mình hoàn toàn có thể chết thay cho A Phủ. Cô đã đứng lên trong một ý thức gật đầu sự hi sinh về mình : lấy con dao nhỏ cắt cho A Phủ. Đó là đỉnh điểm của đời Mị và cũng là nơi tập trung chuyên sâu giá trị nhân văn. Hành động của Mị, tuy không hề đoán trước nhưng vẫn nằm trong sức sống nội tại nhân vật. Mị nguyện làm rẫy, chịu khổ để trả nợ cho bố, đã toan chết để tìm sự giải thoát thì lẽ nào lại không dám chết để cứu một con người vô tội ?Nhưng, tính cách Mị có sự phải chăng, quy luật mà vẫn gây cho ta sự giật mình, quá bất ngờ mê hoặc. Vừa mới nghĩ đến việc hoàn toàn có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối rồi cũng chạy theo. Một cấu trúc ngặt nghèo : Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình ? và “ hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống núi ” .

Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận thức: Nhận thức thực tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội và nhận thức “người” cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng “mình” cho nên, có thể nói, Mị cắt dây trói cứu A Phủ, cũng là Mị đã tự cắt dây trói buộc cô với nhà thống lí Pá Tra. Điều đó hoàn toàn đúng với lí luận cũng như thực tiễn thời đại. Dòng đầu tiên của tuyên ngôn các Đảng cộng sản F. Ăng ghen từng khẳng định: “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp, áp bức bóc lột của giai cấp thống trị càng nặng nề, sự vùng lên đấu tranh càng mạnh mẽ.”

» Tham khảo thêm:

– / –

Trên đây là tổng hợp dàn ý và 3 bài văn mẫu hay phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn. Mong rằng với những gợi ý cách làm này sẽ giúp các em tìm hiểu đề kĩ hơn và có cho mình một bài văn phân tích thật hoàn chỉnh nhé!

Source: https://vvc.vn
Category : Sống trẻ

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay