Quá trình tăng trưởng công nghiệp và đô thị cũng tác động ảnh hưởng đến đặc thù lý và hóa học đất .Tác động của công nghiệp và đo thị đén đất xảy ra rất mạnh từ cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII – XIX, đặc biệt quan trọng là trong những thập niên gần đây. Các chất thải công nghiệp ngày càng nhiều và có độc tính ngày càng cao, nhiều loại rất khó bị phân hủy sinh học. Các chất thảiđộc hại hoàn toàn có thể được tích góp trong đất trong thời hạn dài gây ra rủi ro tiềm ẩn tiềm năng so với môi trường .Có thể phân loại các chất thải ra 4 nhóm chính :
Chất thải xây dựng như gạch ngói, thủy tinh, gỗ, ống nhựa, dây cáp, bêtông, nhựa…trong đất các chất này bị biến đổi theo nhiều con đường khác nhau, nhiều chất rẩ khó bị phân hủy…
Chất thải sắt kẽm kim loại
Các chất thải sắt kẽm kim loại, đặc biệt quan trọng là các sắt kẽm kim loại nặng ( Pb, Zn, Cd, Cu và Ni ) thường có nhiều ở các khu vực khai thác mỏ, các khu công nghiệp và đô thị .
Kết quả tìm hiểu đất vườn ở 53 thành phố, thị xã ở nước Anh cho thấy hầu hết có lượng chì tổng số vượt trên 200 mg / kg, ở nhiều vùng công nghiệp đã vượt quá 500 mg / kg, các giá trị này cao hơn đất thông thường không bị nhiễm bẩn ( < 100 mg / kg ) .
Nguồn gốc chính của sắt kẽm kim loại nặng trong chất thải :
- Các loại bình điện (pin, ac quy) có mức chất thải kim loại nặng cao nhất: 93% tổng số lượng thủy ngân, khoảng 45% số lượng Cadmium (Cd).
- Sắt phế liệu chứa khoảng 40% số lượng chì (Pb), 30% đồng (Cu), 10% crôm (Cr).
- Các chất thải mịn (<20 mm) chứa 43% Cu thải, 20% Pb và 12% nickel (Ni).
- 38% Cd thải và 25% Ni là từ chất dẻo.
- Nickel có trong các loại thành phần rác, trong đó có 6 loại rác chứa trên 10% Ni.
Các tác giả nghiên cứu và điều tra đa phần trên những vùng co yếu tố ô nhiễm chung quanh các nhà máy sản xuất lớn có khói, bụi, chất thải gây ô nhiễm, các thành phố lớn, các sông và cửa sông phải hứng chịu các nguồn chất thải lớn …. Một số tác giả đi sâu điều tra và nghiên cứu mối đe dọa trên sức khỏe thể chất con người, gia súc hoặc đi sâu về chính sách hấp thu, luân chuyển, tích tụ sắt kẽm kim loại nặng .
Teruo Asami ( Nhật Bản ) nghiên cứu và phân tích mẫu bụi của 12 thành phố lớn ở Nhật và nhận thấy hàm lượng sắt kẽm kim loại nặng phản ánh đặc tính của thành phố. Ở Osaka, người ta thấy có mạng lưới hệ thống đối sánh tương quan cao giữa tỷ suất bệnh nhân ( xác lập ) và hàm lượng sắt kẽm kim loại nặng được dùng trong công nghiệp sắt, thép .
Người ta thấy rằng, bụi bay trong không khí và bụi lắng ở các khu vực đô thị chắc như đinh chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn có nhiều độc tiềm tàng sắt kẽm kim loại hơn bụi ở khu vực nông thôn. Do vậy dân cư sống ở những khu vực đô thị phải hứng chịu nhiều rủi ro tiềm ẩn tiềm tàng về sắt kẽm kim loại nặng hơn những dân cư sống ở nông thôn .
Teruo Asami đã tích lũy 308 mẫu bụi đường ở 12 thành phố của Nhật Bản, gồm có cả Tokyo, Osaca, Kyoto và tìm hiểu mối đối sánh tương quan giữa hàm lượng sắt kẽm kim loại nặng trong bụi đường và tỷ suất người mắc bệnh, nhất là ở Osaka là thành phố lớn thứ nhì và có hầu hết các ngành công nghiệp nặng của Nhật Bản .
Kết quả cho thấy hàm lượng sắt kẽm kim loại nặng trong bụi đường (
g / g DM ) ở các thành phố, nhất là các thành phố lớn như : Osaka, Tokyo cao gấp nhiều lần so với đất không ô nhiễm :
Cd : 3,26 so với 0,37 ; Cu : 258 so với 20,4 ;
Zn : 1601 so với 65,1 ; Ni : 96,9 so với 14,8 ;
Pb : 465 so với 18,1; Cr : 133 so với 27,2.
Hệ số đối sánh tương quan giữa tỷ suất bệnh nhân có ghi nhận và hàm lượng sắt kẽm kim loại nặng (
g / g Dm ) ở Osaka như sau ( n = 26 ) :
* : ý nghĩa 5 %
* * : ý nghĩa 1 %
* * * : ý nghĩa 0,1 %
Các sắt kẽm kim loại ô nhiễm hoàn toàn có thể sống sót trong đất dưới nhiều dạng khác nhau, ( hấp phụ, link ) với các hợp chất hữu cơ, vô cơ hoặc tạo thành các chất phức tạp ( chelat ) .
Khả năng dễ tiêu của chúng so với thực vật phụ thuộc vào vào nhiều yếu tố như : pH, năng lực trao đổi cation ( CEC ) và sự phụ thuộc vào lẫn ngau vào các sắt kẽm kim loại khác. Ở các đất có CEC cao, chúng bị giữ lại nhiều trên các phứ hệ hấp phụ .
Các sắt kẽm kim loại nặng có năng lực linh động lớn ở đất chua ( pH < 5,5 ). Các sắt kẽm kim loại nặng được tích góp trong các khung hình sinh vật theo các chuỗi thức ăn và nước uống .
Ảnh hưởng của các sắt kẽm kim loại nặng trong đất so với sức khỏe thể chất con người chưa được xác đinh một cách rã ràng, nên rất khó thiết kế xây dựng ngưỡng ô nhiễm đúng mực. Tuy nhiên nhiều nước cũng đã thiết kế xây dựng tiêu chuẩn ô nhiễm của các nguyên tố trong đất. Nhưng giá trị này thường khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kèm theo môi trường, các chủ trương và lao lý đơn cử .
Ở Hà Lan, cơ quan chính phủ đã kiến thiết xây dựng mạng lưới hệ thống gồm 3 mức : giá trị gật đầu được hay giá trị nền, giá trị chứng tỏ quy trình nhiễm bẩn đang xảy ra và giá trị thiết yếu phải làm sạch .
Bảng 7.1 : Đánh giá mức ô nhiễm bẩn sắt kẽm kim loại trong đất ở Hà Lan ( Thoromon, 1991 ) .
Một nguồn gây ô nhiễm đất đáng kể là từ các nhà máy nhiệt điện, các khu vực khai thác than. Nguồn ô nhiễm đất do các chất phóng xạ từ các phế thải của các cơ sở khai thác chất phóng xạ. Trung tâm nghiên cứu nguyên tử, các nhà máy điện nguyên tử, các vụ thử hạt nhân, các cơ sở sử dụng đồng vị phóng xạ trong nông nghiệp, công nghiệp và y tế. Ở các khu vực nhà máy điện nguyên tử thường gây ô nhiễm các chất phóng xạ như 137Cs và 134Cs.
Hiện nay, người ta đã phát hiện có hơn 50 nguyên tố phóng xạ tự nhiên và 1000 đồng vị phóng xạ tự tạo. Những chất phóng xạ nguy khốn nhất là : 131I, 32F, 60C o, 36S, 45C a, 235U, 14C, 98A l, 226R a, 130B a. Các chất phóng xạ có năng lực tích góp cao trong các đất có CEC lớn, đất gần trung tính và trung tính, đất giàu khoáng sét và các chất mùn .
Các tác giả đã đưa ra các giải pháp để ngăn ngừa sự thải kim loai nặng vào môi trường, xưm đây là sự thiết yếu về mặt sinh thát và giải pháp kinh tế tài chính xã hội. Theo họ, các chính phủ nước nhà cần phát hành các giải pháp kế hoạch gồm có :
- Ban hành các văn bản pháp luật quy định việc thay thế các chất kim loại nặng bằng các hợp chất không độc, chẳng hạn thay thế nắp bằng hợp kim chì của rượu vang bằng vật liệu khác như: sáp, PE hay nhôm.
- Phân loại và chọn lọc từ nguồn: thực hiện các chương trình với kết quả tốt đối với giấy, thuỷ tinh, kim loại,… nhất là đối với các loại pin, bình nhiệt.
- Xây dựng các nhà máy chọn và xử lý rác như: ở Pháp có các nhà máy phân rác, đốt rác.
- Các tiến trình lọc, đốt cần ngăn ngừa kim loại nặng thoát ra ở mức thấp nhất.