Chương 3:
VI PHẠM PHÁP LUẬT, TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
VÀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
3. VI PHẠM PHÁP LUẬT
3.1. Khái niệm và đặc điểm của vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính tiêu cực, một tệ
nạn trong xã hội.
Trong đời sống xã hội, pháp luật luôn được thực hiện thông qua hành vi
hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác
nhau, vẫn sẽ xảy ra nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật gây thiệt hại lớn về
vật chất và tinh thần cho xã hội.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng
lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại tới các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ.
VD. A vượt đèn đỏ khi tham gia giao thông; B đã lừa dối khách hàng
khi giao hàng không đúng số lượng, chất lượng; C tàng trữ, buôn bán trái
phép chất ma túy…
Vi phạm pháp luật chỉ là những hành vi phản ứng tiêu cực của một số
cá nhân hoặc tổ chức đi ngược lại với ý chí nhà nước được thể hiện trong
các quy phạm pháp luật. Những phản ứng có tính chất tiên cực đó luôn gây
hại cho nhà nước, xã hội và công dân, do vậy chúng luôn bị nhà nước, xã hội
và công dân lên án, đấu tranh đòi hỏi phải loại bỏ chúng ra khỏi đời sống xã
hội.
Đặc điểm của vi phạm pháp luật:
+1. Vi phạm pháp luật phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội****. Vi phạm
pháp luật trước hết phải là hành vi của con người hoặc là hoạt động của các
cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội.. hiểm hoặc có khả năng gây
nguy hiểm cho xã hội. Hành vi vi phạm pháp luật có thể được thể hiện dưới
dạng hành động hoặc không hành động của các chủ thể pháp luật. Pháp luật
không điều chỉnh những suy nghĩ hoặc đặc tính cá nhân khác của con người
nếu như những đặc tính đó không biểu hiện thành các hành vi cụ thể của họ.
Do vậy, suy nghĩ, tình cảm, những đặc tính cá nhân khác của con người cho
dù có nguy hiểm cho xã hội cũng không bị coi là vi phạm pháp luật.
VD: A có hành vi câu kết với nước ngoài, bàn bạc với người nước ngoài
về mưu đồ chống phá Tổ quốc Việt Nam… thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội phản bội tổ quốc (Điều 78 BLHS). Tuy nhiên, nếu A mới chỉ
có suy nghĩ là sẽ thực hiện những hành vi trên, mà những suy nghĩ đó chưa
biến thành hành động thì A sẽ chưa bị truy cứu về tội danh trên.
+2. Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật xâm hại tới các quan
hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ****. Vi phạm pháp luật không chỉ là
các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà còn là hành vi trái pháp luật, xâm hại
tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Do vậy, những hành vi hợp
pháp hay trái với các quy định của các tổ chức xã hội, trái với các quy tắc
tập quán, đạo đức..à không trái pháp luật thì không bị coi là vi phạm pháp
luật.
Một cách khái quát, những gì mà pháp luật không cấm, không xác lập
và bảo vệ thì dù có làm trái, có xâm hại cũng không bị coi là vi phạm pháp
luật. Như vậy, tính trái pháp luật là dấu hiệu không thể thiếu của hành vi bị
coi là vi phạm pháp luật.
chịu trách nhiệm hành chính là từ đủ 14, từ đủ 16; ngành luật dân sự lại quy
định là từ đủ 18 tuổi; luật lao động là từ đủ 15 tuổi…
Đối với những người do mất khả năng nhận thức hoặc khả năng lựa
chọn, điều khiển hành vi của mình ở thời điểm thực hiện hành vi đó thì pháp
luật cũng quy định họ không có năng lực trách nhiệm pháp lý, do vậy họ
không phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với trường hợp đó.
3.1. Các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật
Cấu thành Vi phạm PL là tổng hợp các dấu hiệu pháp lí (khách quan và
chủ quan) do từng ngành luật tương ứng quy định thể hiện một hành vi gây
nguy hiểm cho xã hội cụ thể là hành Vi phạm PL.
Như vậy, VPPL được cấu thành bởi: Mặt khách quan, mặt chủ quan,
chủ thể và khách thể vi phạm pháp luật.
3.1.2. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Đây là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan của VPPL,
gồm: hành vi trái pháp luật; hậu quả do hành vi trái pháp luật gây ra và mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả (sự thiệt hại mà nó
gây ra cho xã hội).
– Hành vi trái pháp luật : Bất kỳ một vi phạm pháp luật nào cũng được
cấu thành bởi hành vi trái pháp luật, nghĩa là, nếu trong thực tế không tồn tại
hành vi trái pháp luật của cá nhân hoặc hoạt động trái pháp luật của tổ chức
cụ thể nào đó thì không có vi phạm pháp luật xảy ra.
– Hậu quả do hành vi trái pháp luật gây ra****. Mức độ nguy hiểm của
hành vi trái pháp luật được xác đinh phụ thuộc vào tính chất và mức độ thiệt
hại thực tế hoặc nguy cơ gây hại cho xã hội mà hành vi trái pháp luật đó gây
ra.
– Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả mà
nó gây ra cho xã hội****. Điều này thể hiện ở chỗ sự thiệt hại của xã hội là do
chính hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra. Nếu giữa hành vi trái pháp
luật va sự thiệt hại của xã hội không có mối quan hệ nhân quả thì sự thiệt hại
của xã hội không phải là do hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra mà có
thể là do những nguyên nhân khác.
3.1.2. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Đây là những biểu hiện tâm lí bên trong của chủ thể vi phạm pháp luật,
bao gồm:
– Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật : là trạng thái tâm lí của chủ thể
đối với hành vi vi phạm pháp luật của mình và hậu quả do hành vi của mình
gây ra. Lỗi thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với xã hội. Phụ thuộc
vào mức độ tiêu cực trong thái độ của chủ thể, khoa học pháp lý chia lỗi
thành hai loại: lỗi cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp) và lỗi vô ý (cẩu thả hoặc
quá tự tin).
+ Lỗi cố ý trực tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do
hành vi của mình gây ra và mong muốn điều đó xảy ra.
VD: Hành vi giết người, cướp của; hành vi chống phá trại giam…
+ Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi
của mình gây ra, nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
VD: Do bực tức nên A đã dùng dao nhọn đâm bừa vào B và làm B chết;
hành vi bức tử…
+ Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thể vi phạm nhận thấy trước hậu quả
nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng hy vọng, tin tưởng
hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
của mình ;
- Không thấy trước được
hậu quả xảy ra
– Động cơ vi phạm : là động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật. Thông thường khi thực hiện vi phạm pháp luật chủ thể
thường được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định nào đó. Động cơ đó có thể
là vụ lợi, trả thù và đê hèn…
– Mục đích vi phạm : là cái đích cuối cùng trong suy nghĩ của mình, chủ
thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Mục đích
vi phạm của chủ thể cũng thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi. Tuy
nhiên, không phải khi nào kết quả mà chủ thể vi phạm đạt được trong thực tế
cũng trùng hợp với mục đích mà chủ thể vi phạm mong muốn đạt được.
Ví dụ: A chỉ muốn là B bị đau đớn về thể xác (mục đích gây thương
tích) nhưng kết quả thực tế là B chết (cái chết của B nằm ngoài mong muốn
của A). Hoặc M muốn giết chết N (mục đích giết người), nhưng kết quả thực
tế N không chết (việc N không chết là nằm ngoài mong muốn của M).
3.1.2. Chủ thể của vi phạm pháp luật : Có thể là cá nhân hoặc tổ
chức có năng lực trách nhiệm pháp lý, nghĩa là theo quy định của pháp luật
thì họ phải chịu trách nhiệm đối với hành vi trái pháp luật của mình trong
trường hợp đó. Ở mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng,
chúng sẽ được xem xét tỉ mỉ ở các các ngành khoa học pháp lý cụ thể.
3.1.2. Khách thể của vi phạm pháp luật : là những quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi VPPL xâm hại. Những quan hệ xã
hội khác nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác nhau, do vậy tính chất
và tầm quan trọng của khách thể cũng là những yếu tố để xác định mức độ
nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật.
3.1. Các loại vi phạm pháp luật
Thông thường, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
có thể phân loại VPPL thành các nhóm sau:
– Tội phạm:
Là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm các quan hệ xã hội
được pháp luật hình sự bảo vệ. VD. A giết B; C buôn bán, tàng trữ trái phép
chất ma túy…
– Vi phạm hành chính:
Là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hay vô ý, xâm
phạm các quy tắc quản lí nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và
theo quy định của pháp luật, phải bị xử phạt vi phạm hành chính. VD. Ông
K đổ rác thải không đúng quy định, gây ô nhiễm môi trường; sinh viên Q
điều khiển xe gắn máy đi không đúng phần đường của mình
– Vi phạm dân sự:
Là những hành vi trái pháp luật, có lỗi và xâm hại tới những quan hệ tài
sản, quan hệ nhân thân… VD. Chị C vay tiền của anh E nhưng đến hạn, mặc
dù đã nhiều lần anh E yêu cầu nhưng chị C vẫn chưa trả khoản tiền vay đó…
– Vi phạm kỉ luật nhà nước:
Là những hành vi có lỗi, trái với những quy chế, quy tắc xác lập trật tự
trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp…
*Kết luận:
Vi phạm pháp luật là sự kiện pháp lý và là cơ sở để truy cứu trách
nhiệm pháp lý. Do vậy, trách nhiệm pháp lý chỉ phát sinh trên cơ sở hành vi
vi phạm pháp luật.
3. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
3.2. Khái niệm
- Trách nhiệm pháp lý chỉ được thực hiện trong văn bản đã có hiệu lực
pháp luật bằng việc áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật một hoặc nhiều chế tài của Nhà nước do pháp luật quy định.
*** Chú ý:** Cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý là hành vi vi phạm
pháp luật. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, không phải mọi hành vi vi phạm
pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý. Các trường hợp sau đây, mặc
dù hành vi này đã cấu thành vi phạm pháp luật nhưng không truy cứu trách
nhiệm pháp lý:
- Tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ;
- Phòng vệ chính đáng;
- Thi hành quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Quá thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý;
- Các đối tượng được miễn trừ ngoại giao trong các đại sứ quán, lãnh
sự quán
3.2. Các loại trách nhiệm pháp lí
Trách nhiệm pháp lý có nhiều loại, thông thường chúng được chia
thành: trách nhiệm hình sự; trách nhiệm hành chính; trách nhiệm kỷ luật;
trách nhiệm dân sự và trách nhiệm vật chất.
- Trách nhiệm hình sự: là dạng trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất và
là hậu quả của việc thực hiện tội phạm do Tòa án áp dụng đối với chủ thể có
hành vi phạm tội.
VD. X bị tòa tuyên phạt 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản; Y bị tòa tuyên
phạt tử hình về tội buôn bán trái phép chất ma túy…
- Trách nhiệm pháp lý dân sự (trách nhiệm dân sự): là hậu quả của hành
vi VPPL dân sự và được thể hiện trong việc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng đối với người có lỗi trong việc VPPL dân sự một hoặc nhiều
biện pháp cưỡng chế của nhà nước do pháp luật dân sự quy định.
VD. M bị tòa án buộc công khai xin lỗi và bồi thường 12 triệu đồng cho
N vì M đã hành vi xúc phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm của N; tòa án buộc
Q phải trả lại 200 triệu đồng cùng tiền lãi và tiền phạt cho K do Q đã vay nợ
nhưng đáo hạn mà vẫn không trả mặc dù K đã nhiều lần yêu cầu Q trả nợ.
- Trách nhiệm pháp lý hành chính (trách nhiệm hành chính): là hậu quả
của hành vi VPPL hành chính và được thể hiện trong việc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền áp dụng đối với người có lỗi trong việc vi phạm pháp luật
hành chính một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của nhà nước do pháp luật
hành chính quy định.
Doanh nghiệp A bị Ủy ban nhân dân huyện X xử phạt 20 triệu đồng về
hành vi xả nước thải trực tiếp chưa qua xử lý xuống nguồn nước; sinh viên B
điều khiển xe gắn máy nhưng không đội mũ bảo hiểm nên đã bị chiến sĩ
cảnh sát giao thông xử phạt 150 nghìn đồng…
- Trách nhiệm kỷ luật: là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan, xí
nghiệp, trường học…áp dụng đối với cán bộ, công chức, nhân viên, sinh
viên..ủa cơ quan, trường học..ủa mình khi họ vi phạm pháp luật.
VD. Chị B bị công ty khiển trách vì nhiều lần đi làm muộn, ảnh hưởng
đến tiến dộ chung của công ty; sinh viên D bị nhà trường buộc dừng học 1
năm vì hành vi gian lận trong thi cử…
- Trách nhiệm vật chất là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan, xí
nghiệp…áp dụng đối với cán bộ, công chức, công nhân..ủa cơ quan, xí
nghiệp khi họ gây thiệt hại về tài sản hoạc vi phạm các quy định của cơ
quan, xí nghiệp.
VD. Nhân viên lái xe T bị cơ quan chủ quản buộc bồi thường 14 triệu
đồng tiền sửa chữa lại chiếc xe của cơ quan đã giao cho T để giao hang vì
anh T bất cẩn khi làm việc làm hỏng xe…
Khi đề ra nguyên tắc tổ chức triển khai và hoạt động giải trí của tổ chức triển khai mình, những tổ chức triển khai phải bảo vệ nguyên tắc này nằm trong khoanh vùng phạm vi pháp luật được cho phép .
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc xử sự của công dân.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mọi công dân phải tôn trọng pháp
luật, phải xử sự theo yêu cầu của pháp luật, đó là điều kiện đảm bảo công
bằng xã hội, đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật, đảm bảo cho mỗi
người tự do phát triển.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mọi công dân phải có trách nhiệm
tham gia vào việc quản lý các công việc của nhà nước, thực hiện nguyên tắc
kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và
đấu tranh chống vi phạm pháp luật.
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa có liên hệ mật thiết với dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
Trong mối quan hệ này, dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở để củng cố
nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là yếu tố cần thiết
không thể thiếu được để củng cố và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, bởi vì pháp chế xã hội chủ
nghĩa tạo ra tính tổ chức kỉ luật, thiết lập kỷ cương xã hôi, bảo đảm công
bằng xã hội.
Mối liên hệ trực tiếp trên được thể hiện ở sự tham gia đông đảo của
quần chúng vào việc quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà
nước.
- Pháp chế và pháp luật có mối liên hệ mật thiết với pháp luật.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa và pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau.
Pháp chế không phải pháp luật mà là một phạm trù thể hiện những yêu cầu
và sự đòi hỏi đối với các chủ thể pháp luật phải tôn trọng và triệt để thực
hiện pháp luật. Pháp chế chỉ có thể được củng cố và tăng cường khi có hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ và phù hợp. Pháp luật chỉ có thể phát
huy hiệu lực của mình khi dựa trên cơ sở vững chắc của nền pháp chế.
3.3. Những yêu cầu cơ bản của pháp chế
Pháp chế xã hội chủ nghĩa có những yêu cầu sau đây:
– Tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật.
Đây là yêu cầu quan trọng nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống
pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Hiến pháp và pháp luật là những văn bản quy phạm pháp luật có giá trị
pháp lý cao nhất do Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban
hành. Vì vậy, khi xây dựng pháp luật phải dựa trên cơ sở những quy định
của Hiến pháp và luật, nếu không sẽ phá vỡ tính thống nhất của hệ thống
pháp luật.
Để thực hiện được yêu cầu này, một mặt phải chú trọng tới việc hoàn
thiện Hiến pháp và xây dựng các văn bản luật để làm cơ sở cho sự phát triển
và hoàn thiện toàn bộ hệ thống pháp luật, mặt khác cần phải nhanh chóng cụ
thể hóa những quy định của hiến pháp và pháp luật.
– Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc.
Xuất phát từ nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
pháp chế XHCN đòi hỏi phải có tính thống nhất về nhận thức và tổ chức
thực hiện luật trên quy mô toàn quốc, không chấp nhận nguyên tắc đặc
quyền và biệt lệ vô nguyên tắc. Thực hiện yêu cầu này nhằm thiết lập một
trật tự kỷ cương, cơ quan cấp dưới phải phục tùng cơ quan cấp trên, lợi ích
địa phương phải phù hợp với lợi ích quốc gia, cá nhân có quyền tự do dân
chủ nhưng phải tôn trọng quyền lợi của các chủ thể khác, xóa bỏ tư tưởng
cục bộ, địa phương chủ nghĩa, tư tưởng vô chính phủ, bảo đảm công tác xã
hội.
- Đảng đề ra các chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, đề ra chiến lược
toàn diện về công tác pháp chế.
- Trong từng thời kỳ, Đảng đề ra những phương hướng về xây dựng
pháp luật, tổ chức xây dựng pháp luật, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật,
chống vi phạm pháp luật.
- Đảng vạch ra những phương hướng chỉ đạo, kiểm tra, giám sát hoạt
động của nhà nước trong công tác pháp chế.
- Sự gương mẫu của đảng viên và các tổ chức đảng ở cơ sở trong việc
tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của nhà nước.
– Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội
chủ nghĩa.
Phải thường xuyên tiến hành hệ thống hóa pháp luật để phát hiện và
loại bỏ những quy định trùng lặp, mâu thuẫn, lạc hậu, bổ sung những thiếu
sót trong hệ thống pháp luật, kịp thời thể chế hóa đường lối chính sách của
Đảng thành pháp luật. Thực hiện được như vậy, pháp chế mới có thể được
củng cố và tăng cường.
– Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật.
Đây là biện pháp bao gồm nhiều mặt nhằm đảm bảo cho pháp luật được
tôn trọng và thực hiện nghiêm minh. Cụ thể là:
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, giải thích pháp luật,
để làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật cho nhân dân.
Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý có đủ trình độ, phẩm
chất chính trị và khả năng công tác để bố trí vào các cơ quan làm công tác
pháp chế, pháp luật.
Trong từng thời kỳ cần có sự tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời để thấy
rõ những thiếu sót trong công tác tổ chức và thực hiện pháp luật, đề ra
những phương hướng và biện pháp tăng cường hiệu lực của công tác này.
Tăng cường công tác làm việc kiểm tra, giám sát, giải quyết và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật. Công tác này yên cầu phải tiếp tục tổ chức triển khai kiểm tra hoạt động giải trí của cỗ máy nhà nước, đặc biệt quan trọng là cơ quan làm công tác làm việc bảo vệ pháp luật. Công tác kiểm tra, giám sát giải quyết và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật chỉ hoàn toàn có thể được triển khai tốt khi có sự chỉ huy của Đảng, sự dữ thế chủ động phát minh sáng tạo của những cơ quan có thẩm quyền và sự tham gia của quần chúng. Thực hiện tốt giải pháp này nhằm mục đích bảo vệ cho pháp luật được thực thi nghiêm minh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật .