Tôn Lệ (tiếng Trung: 孙俪, sinh ngày 26 tháng 9 năm 1982)[1] là một diễn viên người Trung Quốc. Năm 2018, cô trở thành nữ diễn viên Trung Quốc trẻ tuổi nhất hoàn thành được ba giải thưởng truyền hình lớn nhất tại Trung Quốc bao gồm Phi Thiên, Bạch Ngọc Lan và Kim Ưng.[2]
Hình ảnh Tôn Lệ trên xe điện ở Hong Kong năm 2012
Năm 11 tuổi cô có cơ hội tham gia lưu diễn tại Anh, Mỹ, Nhật Bản, nhờ tài năng vũ đạo của mình đã giúp Tôn Lệ lọt vào mắt xanh của đạo diễn phim Tân dòng sông ly biệt với một vai diễn nhỏ trong đội múa của Lục Y Bình. Sau đó cô học tại đoàn Đoàn văn công Cảnh bị Thượng Hải. Năm 1998, cô đạt giải 3 trong hội diễn văn nghệ toàn quân Trung Quốc cùng danh hiệu “Quân nhân ưu tú”.[3][4] Đến năm 2000, Tôn Lệ vào học trường nghệ thuật Ngân Đô Thượng Hải. Tại đây cô đạt giải nhì cuộc thi múa toàn quốc giải Kim Tinh.
Năm 2001 tại Singapore, cô tham gia chương trình tìm kiếm tài năng Star Search của hãng truyền thông MediaCorp. Cô đạt thành tích cao, nhận được sự ưu ái và đánh giá cao của giám khảo Lưu Đức Hoa,[5][6] sau đó cô trở thành diễn viên hàng đầu của công ty Hairun Media.[4] Năm 2003, biên kịch Lữ Hải Nham (侣海岩) tuyển chọn cô cho vai chính trong bộ phim truyền hình dài tập Ngọc Quan Âm của ông.[7]
Năm 2005, Tôn Lệ lần đầu đóng chung với Đặng Siêu trong bộ phim truyền hình Hạnh phúc như hoa. Năm 2006, cô phát hành album ca nhạc đầu tay Tình như không khí. Khoảng thời gian sau đó cô dành giải Diễn viên mới Xuất sắc trong Giải Bách Hoa lần 28 cho vai diễn trong bộ phim điện ảnh Hoắc Nguyên Giáp và Bến Thượng Hải.[3]
Năm 2008, Tôn Lệ tham gia phim điện ảnh Họa Bì giành được đề cử Nữ diễn viên phụ xuất sắc tại Giải Kim Kê và Kim Tượng, cùng năm này cô đóng vai chính trong phim truyền hình dài tập Ngọt Ngào cùng với Đặng Siêu, bộ phim lọt top 10 phim hay nhất năm. Đồng thời cô phát hành Album nhạc thứ hai “Giấc mơ nhỏ“. Năm 2009, Tôn Lệ tham gia bộ phim Iron Road dành hai giải Diễn viên nữ xuất sắc tại giải thưởng Roma FictionFest lần thứ 2 và giải thưởng Gemini lần 25.[8][9]
Năm 2012, nhờ vai chính trong phim truyền hình Chân Hoàn Truyện Tôn Lệ được đề cử Nữ diễn viên xuất sắc tại giải thưởng Emmy Award quốc tế.[10][11] Cùng năm cô tham gia phần hai của Họa Bì và bộ phim Quan Vân Trường của Chung Tử Đan. Năm 2013, cô dành giải Nữ diễn viên chính xuất sắc tại Giải Bạch Ngọc Lan lần thứ 20 và nữ diễn viên được khán giả yêu thích nhất tại Giải Kim Ưng cho vai diễn chính trong bộ phim truyền hình đô thị Lạt mụ chính truyện.[12][13] Năm 2015, với vai diễn Mị Nguyệt trong Mị Nguyệt truyện cô đạt giải Nữ diễn viên chính xuất sắc tại Giải Bạch Ngọc Lan lần thứ 22.[3][14] Cùng năm cô tham gia vào bộ phim hài Thiên sứ xấu xa cùng Đặng Siêu.
Năm 2017, tại Giải Phi Thiên, cô đạt giải Nữ diễn viên xuất sắc với vai diễn Châu Doanh trong phim truyền hình dài tập Năm ấy hoa nở trăng vừa tròn.[3][15] Với vai diễn này đã giúp Tôn Lệ trở thành nữ diễn viên Trung Quốc trẻ tuổi nhất hoàn thành ba giải thưởng truyền hình lớn nhất tại Trung Quốc.[2]
Năm 2018, cô cùng Đặng Siêu tham gia bộ phim điện ảnh Vô ảnh do Trương Nghệ Mưu đạo diễn, giành được đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc tại giải Kim Mã.[3] Đến năm 2020, cô đóng vai chính trong bộ phim truyền hình dài tập An Gia và giành được đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải Bạch Ngọc Lan lần thứ 26.[16]
Tôn Lệ sinh ngày 26 tháng 9 năm 1982 tại Thượng Hải, Trung Quốc, trong một mái ấm gia đình không có truyền thống cuội nguồn làm thẩm mỹ và nghệ thuật. Năm 12 tuổi, bố bỏ mẹ con cô để lấy người phụ nữ khác, đời sống thiếu vắng người đàn ông trụ cột khiến 2 mẹ con gặp nhiều khó khăn vất vả, liên tục dời chỗ ở vì không đủ tiền thuê nhà. Được phát hiện năng lực nhảy múa từ nhỏ, Tôn Lệ cho đi học tại lớp năng khiếu sở trường thẩm mỹ và nghệ thuật và được đi màn biểu diễn cả trong và ngoài nước. Cô có một em gái cùng cha khác mẹ là diễn viên Tôn Diễm, kém cô 19 tuổi. [ 17 ]Năm 2010 Tôn Lệ và Đặng Siêu đăng ký kết hôn, đến năm 2011 chính thức tổ chức triển khai lễ cưới. Hiện cô và Đặng Siêu có 2 người con, một con trai và một con gái [ 18 ]
Phim truyền hình[sửa|sửa mã nguồn]
Phim điện ảnh[sửa|sửa mã nguồn]
Danh sách đĩa nhạc[sửa|sửa mã nguồn]
Album phòng thu[sửa|sửa mã nguồn]
Năm
|
Tựa tiếng Anh
|
Tựa tiếng Trung Quốc
|
Ngôn ngữ
|
Ghi chú
|
2006 |
Love is like the Air |
爱如空气 |
Tiếng phổ thông |
|
2008 |
A Little Dream |
小小的梦想 |
|
2010 |
Beautiful Signal |
美俪暗号 |
|
Năm
|
Ca khúc
|
Bộ phim
|
Song ca với
|
2003
|
Happier Than Me (比我幸福)
|
Ngọc Quan Âm (TV)
|
|
2007
|
Cho dù không có ngày mai (就算没有明天)
|
Bến Thượng Hải
|
Huỳnh Hiểu Minh
|
2008
|
Ánh Trăng soi tỏ lòng em (月亮代表我的心)
|
Ngọt Ngào
|
Đặng Siêu
|
2009
|
Memory (记忆)
|
Cơ Khí hiệp
|
Phương Lực Thân
|
2011
|
Họa Bích (画壁)
|
Họa Bích
|
Đặng Siêu
|
2013
|
A Stable Happiness (稳稳的幸福)
|
Lạt mụ chính truyện
|
Trương Dịch
|
2007 |
Can’t Forget (忘不掉) |
Năm ấy Hoa nở, Trăng vừa tròn |
|
Trao Giải và đề cử[sửa|sửa mã nguồn]
Forbes China Celebrity 100[sửa|sửa mã nguồn]
Năm
|
Hạng
|
Ref.
|
2013
|
22
|
[25]
|
2014
|
30
|
[26]
|
2015
|
6
|
[27]
|
2017
|
13
|
[28]
|
2019
|
22
|
[29]
|
2020
|
25
|
[30]
|
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]