Các phương pháp lượng giá trị dịch vụ hệ sinh thái rừng và áp dụng thực tế tại Việt Nam

07/02/2020

     Hệ sinh thái rừng của Việt Nam

Theo các thông tin được công bố trong Quyết định số 911 / QĐ-BNN-TCLN, ngày 19 tháng 03 năm 2019, của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tính đến hết năm 2018, Nước Ta có 14.491.295 ha rừng ( chiếm 41,65 % tổng diện tích quy hoạnh đất tự nhiên của cả nước ), trong đó 10.255.525 ha rừng tự nhiên ( gồm rừng nguyên sinh và rừng tái sinh tự nhiên ) và 4.235.770 ha rừng trồng. Rừng tự nhiên của Nước Ta được chia thành 8 nhóm : ( i ) rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới với thảm thực vật dày và độ đa dạng sinh học cao ; ( ii ) rừng thường xanh trên núi đá vôi với hệ thực vật địa phương đặc trưng của miền Bắc Nước Ta và miền Nam Trung Quốc ; ( iii ) rừng khộpchịu hạn trong thời hạn dài với cây họ dầu là loài lợi thế ; ( iv ) rừng ngập mặn phân bổ dọc theo các vùng bờ biển ; ( v ) rừng kín lá rộng nửa rụng nhiệt đới phân bổ ở ở vùng núi có lượng mưa lớn với mùa khô lê dài từ 1 – 3 tháng ; ( vi ) rừng lá kim tự nhiên ở các khu vực miền núi ; ( vii ) rừng tràm tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ ở những khu vực liên tục bị úng nước như vùng đồng bằng sông Cửu Long ; và ( viii ) rừng tre nứa. Rừng trồng của Nước Ta có độ phong phú thấp hơn, trong đó các rừng trồng các loài keo và bạch đàn là thông dụng nhất, chiếm 70 – 75 % tổng diện tích quy hoạnh rừng trồng của cả nước .

      Bảng 1 dưới đây thể hiện diện tích các hệ sinh thái rừng của Việt Nam theo vùng sinh thái và theo mục đích sử dụng.

     Bảng 1: Diện tích rừng theo vùng sinh thái năm 2017

Vùng

Rừng tự nhiên  (ha)

Rừng trồng (ha)

Tổng diện tích  (ha)

Tỷ lệ che phủ (%)

Tây Bắc 1.530.833 173.335 1.704.168 41,65
Đông Bắc 2.353.991 1.549.658 3.903.648 56,02
ĐBSông Hồng 45.678 36.867 82.544 6,02
Bắc Trung Bộ 2.222.455 881.146 3.103.601 57,65
Nam Trung Bộ 1.563.540 846.601

2.410.141

49,27
Tây Nguyên 2.206.975 350.347 2.557.322 46,01
Đông Nam Bộ 257.707 229.012 486.719 19,44
Tây Nam Bộ 74.347 168.805 243.152 5,26

Nguồn : Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ( 2019 )

     Các dịch vụ hệ sinh thái rừng quan trọng của Việt Nam

Các hệ sinh thái rừng của Nước Ta phân phối cho con người, môi trường tự nhiên và nền kinh tế tài chính rất nhiều hàng hoá và dịch vụ quan trọng được chia thành 4 nhóm theo cách phân loại dịch vụ hệ sinh thái của Đánh giá hệ sinh thái thiên niên kỷ ( Millenium Ecosystem Assessment, 2005 ) gồm : ( i ) dịch vụ phân phối ( là cáchàng hoá, mẫu sản phẩm hữu hình mà con người nhận được từ hệ sinh thái như : vật tư thô, nước sạch, thực phẩm, dược liệu v.v ) ; ( ii ) dịch vụ điều tiết ( là các quyền lợi mà con người nhận đượctừ tính năng điều tiết của hệ sinh thái như giải quyết và xử lý chất thải, hấp thụ các-bon, điều tiết vi khí hậu, v.v ), ( iii ) dịch vụ văn hoá ( là các quyền lợi phi vật chất mà con người nhận được từ hệ sinh thái trải qua các hoạt động giải trí du lịch, giáo dục, nghiên cứu và điều tra, tâm linh, v.v. ) ; và ( iv ) dịch vụ tương hỗ ( là những gì thiết yếu cho sự hình thành các dịch vụ hệ sinh thái khác như phong phú nguồn gen, quy trình dinh dưỡng, v.v ) .

     Dịch vụ cung cấp: Các hệ sinh thái rừng của Việt Nam hiện đang cung cấp hàng loạt các hàng hoá khác nhau, được chia thành 3 nhóm: gỗ, củi và lâm sản ngoài gỗ (LSNG). Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2017), mỗi năm các hệ sinh thái rừng của Việt Nam cung cấp khoảng 18 triệu m3gỗ rừng trồng và rừng tự nhiên làm nguyên liệu để sản xuất bột giấy, ván dăm, trụ mỏ, dàn giáo, v.v. Bên cạnh đó, mỗi năm các hệ sinh thái rừng của Việt Nam còn cung cấp khoảng 24,5 triệu tấn củi được sử dụng làm nhiên liệu cho các ngành công nghiệp dựa vào năng lượng nhiệt như chế biến thực phẩm, sản xuất đồ uống, v.v. và được sử dụng để nấu ăn và sưởi ấm trong các hộ gia đình. Ngoài ra, hệ sinh thái rừng còn cung cấp hơn 60.000 tấn lâm sản ngoài gỗ có giá trị cho người dân và cho nền kinh tế. Đến thời điểm hiện tại, khoảng 3.830 loài dược liệu (trong đó, 1.800 loài có giá trị dược lý), 500 loài tinh dầu, 620 loài nấm, 820 loài tảo, 40 loài mây, 76 loài cho nhựa thơm, 600 loài cho tannin, 823 loài cho dầu béo, 186 loài đặc hữu đã được tìm thấy ở Việt Nam. Lâm sản ngoài gỗ được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là trong các hộ gia đình dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa (ví dụ, lá cây dùng làm thực phẩm cho gia súc, củi để nấu ăn, trái cây, hoa, mật ong, vỏ cây để làm thức ăn và thuốc, v.v.). Lâm sản ngoài gỗ cũng là nguồn nguyên liệu thô để sản xuất nhiều mặt hàng có giá trị (như: tinh dầu, thủ công mỹ nghệ, trang sức, v.v.) phục vụ nhu cầu trong nước lẫn xuất khẩu (Dzung, 2017).

     Dịch vụ điều tiết: Các hệ sinh thái rừng của Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc phòng hộ đầu nguồn nhờ khả năng giữ đất, kiểm soát xói mòn, ngăn ngừa sự bồi lắng và tích tụ bùn, cát trong dòng chảy. Bên cạnh đó, các hệ sinh thái rừngcủa Việt Nam cũng có khả năng điều tiết dòng nước, giảm thiểu lũ lụt và cải thiện chất lượng nước. Suy thoái rừng do khai thác bừa bãi và thay đổi sử dụng đất gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với khả năng phòng hộ đầu nguồn của hệ sinh thái này (FSIV, 2009). Ngoài ra, các hệ sinh thái rừng cũng giúp giảm lưu lượng nước chảy trên bề mặt và tăng khả năng thẩm thấu nước vào đất. Theo Thái Phiên và Trần Đức Toàn (1998), tốc độ dòng chảy bề mặt bên dưới các tán rừng thấp hơn 2,5 đến 2,7 lần so với tốc độ dòng chảy tại khu vực canh tác nông nghiệp. Lưu lượng dòng chảy bề mặt trong rừng tự nhiên thấp hơn 3,5 đến 7 lần so với rừng trồng. Trong rừng tự nhiên, tốc độ thẩm thấu nước vào đất là 16,8 mm/phút, trong rừng trồng, tốc độ này là  10,2 mm/phút và ở các khu vực có cỏ và cây bui thì tốc độ giảm xuống còn  2,1 mm/phút (Vũ Văn Tuấn, 2003). Rừng tự nhiên lá rộng thường xanh với độ che phủ 70-80% có thể ngăn ngừa 9,5-11,7% nước mưa rơi xuống đất, trong khi đó các thảm thực vật có độ che phủ 30 – 40% chỉ có thể ngăn ngừa được 5,7%. Nếu độ che phủ của thảm thực vật giảm từ 70-80% xuống 30-40%, xói mòn đất sẽ tăng 42,2% và dòng chảy trên mặt đất sẽ tăng 30,4%. Tương tự, nếu độ che phủ của các rừng tre nứa được giảm từ 70-80% xuống 40-50% thì tốc độ xói mòn sẽ tăng 27,1% và dòng chảy bề mặt sẽ tăng 33,8% (Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải, 1997). Các hệ sinh thái rừng với nhiều tầng tán có khả năng trữ nước trong mùa mưa và cấp nước trong mùa khô rất hiệu quả. Những năm gần đây, lũ lụt đã xảy ra liên tiếp tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung, gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng cho tính mạng và tài sản của người dân. Lũ lụt gia tăng có một phần nguyên nhân là do nạn phá rừng ở các khu vực đầu nguồn (Bann et al, 2017).

     Dịch vụ văn hóa: Các hệ sinh thái rừng là một phần rất quan trọng của văn hóa Việt Nam cả về mặt tinh thần lẫn mặt  giải trí. Các nghiên cứu nhân chủng học tại Việt Nam đã chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ sinh thái tự nhiên với sinh kế và văn hóa của người dân tộc bản địa. Ví dụ, các nhóm người bản địa ở Tây Nguyên rất gắn bó với rừng. Họ sử dụng gỗ để xây dựng nhà truyền thống và các vật dụng khác trong nhà, sử dụng cây rừng để làm thuốc, thu nhặt các lâm sản ngoài gỗ để làm lương thực, chất đốt. Thêm vào đó, tất cả các nghi lễ văn hóa ở đây đều liên quan đến rừng và tài nguyên thiên nhiên (Bann et al, 2017).Ngoài ra, hầu hết các hệ sinh thái rừng có tính đa dạng sinh học cao và có vẻ đẹp hữu hình, lôi cuốn đều được quy hoạch thành các vườn quốc gia và rừng đặc dụng, cung cấp cơ hội cho nền công nghiệp giải trí tại Việt Nam, đặc biệt là ngành du lịch sinh thái – một ngành có nhiều tiềm năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giúp đa dạng hoá sinh kế và xoá đói giảm nghèo thông qua việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp tại phương và tạo ra các cơ hội để người dân địa phương có thể tiếp thị các sản phẩm thủ công mỹ nghệ cũng như các loại lâm sản ngoài gỗ như mật ong, dược liệu.

Dịch Vụ Thương Mại tương hỗ : Thương Mại Dịch Vụ tương hỗ của các hệ sinh thái rừng Nước Ta không có ảnh hưởng tác động rõ ràng và trực tiếp đến nền kinh tế tài chính nhưng chúng là nền tảng cho nhiều hoạt động giải trí kinh tế tài chính có lợi cho con người. Các hoạt động giải trí sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào vào năng lực cung ứng như nước, cải tổ độ phì đất của các hệ sinh thái rừng. Quá trình thụ phấn của nhiều loại cây cối phụ thuộc vào vào việc môi trường tự nhiên xung quanh có duy trì được đủ số lượng các loài thụ phấn hay không. Sự nhờ vào của hoạt động giải trí sản xuất nông nghiệp vào các hệ sinh rừng biểu lộ ở chỗ, bất kể biến hóa nào của hệ sinh thái rừng ngay lập tức sẽ gây ra những ảnh hưởng tác động đáng kể về hiệu suất của mạng lưới hệ thống nông nghiệp tương quan. Các dịch vụ tương hỗ của hệ sinh thái rừngkhông chỉ ảnh hướng đến khu vực và hình thức canh tác mà còn ảnh hưởng tác động tới giá trị kinh tế tài chính của diện tích quy hoạnh đất canh tác. Mặc dù đất canh tác được định giá một phần bởi giá trị của cây cối nhưng giá trị kinh tế tài chính của đất canh tác cũng phụ thuộc vào vào chi phí sản xuất có tương quan đến dịch vụ hệ sinh thái như tăng cường độ phì, độ xốp của đất hay trấn áp dịch bệnh ( Bann et al, 2017 ) .

     Các phương pháp lượng giá giá trị dịch vụ hệ sinh thái rừng

Giá trị kinh tế tài chính của các dịch vụ hệ sinh thái ( gồm có các hệ sinh thái rừng ) là thước đo về sự góp phần của chúng cho phúc lợi của con người ( Pascual et al, 2010 ). Giá trị kinh tế tài chính thường được biểu lộ dưới dạng tiền tệ. Trong các nền kinh tế tài chính quản lý và vận hành theo cơ chế thị trường, giá trị kinh tế tài chính của các dịch vụ hệ sinh thái được quan sát qua giá thị trường – đại lượng phản ánh quyền lợi của tiêu dùng và ngân sách của sản xuất. Trong trường hợp các dịch vụ hệ sinh thái không có thị trường thì giá trị kinh tế tài chính của chúng được đo lường và thống kê bởi các giải pháp phi thị trường .
Hiện nay trên quốc tế có rất nhiều giải pháp để lượng giá giá trị các dịch vụ hệ sinh thái. Các giải pháp này hoàn toàn có thể chia thành 2 nhóm, gồm : các giải pháp lượng giá sơ cấp ( sử dụng các tài liệu sơ cấp để tạo ra thông tin mới / thông tin gốc ) và các giải pháp chuyển giao giá trị ( sử dụng các thông tin có sẵn cho các toàn cảnh chủ trương mới ). Hình 2 trình diễn các chiêu thức hiện có đểlượng giá dịch vụ hệ sinh thái .

     Hình 2: Các phương pháp lượng giá dịch vụ hệ sinh thái

Nguồn: Brander (2013)

Các phương pháp lượng giá sơ cấp

Bảng 2 dưới đây trình cụ thể về 1 số ít giải pháp lượng giá sơ cấp thường được sử dụng trong các điều tra và nghiên cứu gần đây :

Source: https://vvc.vn
Category custom BY HOANGLM with new data process: Bảo Tồn

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay