Vận dụng phạm trù thiện ác vào quá trình giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam – Tài liệu text

Vận dụng phạm trù thiện ác vào quá trình giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.58 KB, 6 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
2014, Vol. 59, No. 6BC, pp. 301-306
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn

VẬN DỤNG PHẠM TRÙ THIỆN- ÁC VÀO QUÁ TRÌNH
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
Nguyễn Thị Thanh Bình
Trường Đại học Quảng Bình
Tóm tắt. Làm theo cái tốt, cái thiện, tránh cái xấu, cái ác, đấu tranh được với cái xấu, cái
ác, tất nhiên phụ thuộc nhiều yếu tố xã hội khách quan. Song chỉ có thể sống tốt khi được
trang bị đầy đủ, được nhận thức đúng đắn những tri thức về đạo đức tiến bộ. Bài viết đã tập
trung thảo luận một số vấn đề lí luận về phạm trù Thiện và Ác và vận dụng vào quá trình
giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Thiện – ác, giáo dục đạo đức, sinh viên Việt Nam.

1.

Mở đầu

“Trong điều kiện của kinh tế thị trường tưởng chừng như kinh tế đã đi lên, nhưng ngược lại
đạo đức lại trượt dốc” [1;20]. Cho nên, cùng với việc phát triển kinh tế- xã hội, chúng ta phải đẩy
mạnh giáo dục cũng như giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là thế
hệ sinh viên Việt Nam hiện nay. Trong giáo dục đạo đức cách mạng phải chú trọng tới việc định
hướng, hướng dẫn quan niệm đúng về giá trị đạo đức. Việc định hướng giá trị đạo đức đối với sinh
viên lực lượng tri thức trẻ có tầm quan trọng trong việc phát triển nguồn lực con người- động lực
cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Hệ thống định hướng giá trị đóng vai trị như là một
lăng kính để nhận thức thế giới bên ngồi cũng như thế giới bên trong, tạo cơ sở tâm lí của cá nhân
để giải quyết vấn đề có ý nghĩa cuộc sống. Bài viết này chỉ đề cập đến cặp phạm trù Thiện Ác và
vận dụng vào quá trình giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay.

2.

2.1.

Nội dung nghiên cứu
“Thiện” – “Ác” – Hai phạm trù cơ bản của đạo đức học

Phạm trù đạo đức học là những khái niệm đạo đức cơ bản phản ánh những đặc tính cơ bản,
những phương diện và những quan hệ phổ biến nhất của những hiện tượng đạo đức trong xã hội, là
phạm trù lịch sử có q trình phát triển lâu dài. Trong từng thời đại cụ thể, các phạm trù đạo đức
được khái quát hoá từ những hiện tượng và nhu cầu đạo đức của đời sống hiện thực gắn liền với sự
phát triển của những điều kiện kinh tế – xã hội tương ứng. Cùng với sự vận động và phát triển của
lịch sử, nội dung khái niệm, phạm trù đạo đức học không ngừng được bổ sung, phát triển, nó phản
ánh một cách khái quát nhất sự hình thành và phát triển tư tưởng đạo đức qua các thời đại.
Liên hệ: Nguyễn Thị Thanh Bình, e-mail: [email protected]

301

Nguyễn Thị Thanh Bình

Nói đến đạo đức trước hết phải đề cập đến cái thiện, cái ác vì đây là phạm trù trung tâm, cơ
bản làm ranh giới hay thước đo đời sống đạo đức của mọi cá nhân cũng như đời sống đạo đức của
con người trong cộng đồng xã hội. Thiện và Ác là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập,
chẳng hạn nhận diện cái ác là làm đẹp thêm cái thiện, làm cho cái thiện ngày càng hoàn thiện hơn.
Trong bài viết này, chúng tơi tìm hiểu phạm trù Thiện và Ác theo cặp, tức là nghiên cứu các mặt
đối lập của hiện tượng xã hội, nhằm xác định giá trị chuẩn mực đạo đức xã hội để thực hiện và cái
lệch chuẩn để tránh.
Thiện và Ác là cặp phạm trù đối lập nhau trong mọi thời đại, mặc dù quan niệm về nó có
thể thay đổi trong hồn cảnh lịch sử cụ thể của các quốc gia dân tộc khác nhau. Từ thời cổ đại, con
người đã phân biệt thiện và ác như phân biệt ánh sáng và bóng tối. Theo quan niệm của các nhà
triết học cổ đại phương Tây như Xơcrát (469- 399) và Platon (427- 347) thì “Cái thiện” là một ý

niệm chung, phổ biến và bất biến, là ý niệm cao nhất được coi là Chúa sáng thế, là mặt trời sinh ra
muôn vật. Hêghen viết: “Người ta tưởng nêu được một chân lí vĩ đại khi nói con người bẩm sinh
là thiện, song người ta quên rằng người ta cịn nêu được một chân lí vĩ đại hơn nữa với lời nói này:
“Con người bẩm sinh là ác”[8, 63] Theo Hêghen, ác là hình thức, trong đó biểu hiện động lực của
sự phát triển lịch sử.
Quan niệm của các học giả phương Đông cổ đại như Khổng Tử (551- 479) và Mạnh Tử
(327- 289) cho rằng, con người sinh ra đã mang bản chất mầm mống thiện “Nhân chi sơ tính
bản thiện”[3, 59] con người sinh ra vốn thiện, chỉ vì những tập tục trong cuộc sống đã làm cho
con người xa với cái thiện. “Tính con người vốn thiện cũng như tính của nước là chảy xuống chỗ
thấp”[4; 159]. Ngược lại, Tuân Tử (289- 238) lại cho rằng “Tính con người vốn ác”[4; 157], tính là
cái ta khơng thể làm ra được, nhưng có thể học tập và rèn luyện mới xa dần cái ác và tiến tới điều
thiện.
Các quan niệm trên đều chỉ ra cái Thiện là cái nên làm, cái Ác nên tránh, song nó cịn những
có hạn chế cho rằng Thiện và Ác là phạm trù tiên thiên, nó như là bản chất vốn có, thậm chí có
người cho rằng con người sinh ra đã mang theo mầm móng tội ác. Họ khơng hiểu được bản chất
xã hội và tính lịch sử của phạm trù thiện ác.
Theo quan điểm của đạo đức học Mác-Lênin thì ý thức của con người về Thiện, Ác khơng
phải là sản phẩm trừu tượng thuần t có tính chất tiên thiên hoặc mầm mống di truyền mà nó
là sản phẩm của lịch sử, là kết quả phản ánh những điều kiện kinh tế- xã hội của một thời đại,
một hoàn cảnh cụ thể. Ăngghen chỉ ra rằng: “Tự giác hay không tự giác, rút cuộc người ta đều lấy
những quan điểm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tế đã tạo thành cơ sở địa vị cho giai cấp
của mình tức là từ mối quan hệ kinh tế, trong đó người ta tiến hành sản xuất và trao đổi”[7; 161].
Khơng có quan niệm Thiện, Ác nào là vĩnh viễn đối với mọi hoàn cảnh cụ thể.
Thiện là cái tốt, đẹp, lành, cái có lợi, có ích, mang lại điều tốt đẹp cho con người, cộng
đồng, xã hội, vì sự tiến bộ của xã hội. Cái thiện là cái tốt đẹp biểu hiện lòng nhân ái của con người
trong đời sống hàng ngày. Đó chính là hành vi thể hiện lợi ích của cá nhân phù hợp với yêu cầu xã
hội, lịch sử, giai cấp và sự tiến bộ xã hội. Cái thiện cơ bản nhất là giải phóng con người khỏi chế
độ người bóc lột người, xây dựng xã hội khơng cịn giai cấp và chế độ áp bức bất cơng. Trong đó
con người có điều kiện phát huy mọi năng lực, trí tuệ, cống hiến cho xã hội và thực hiện tốt mọi
nghĩa vụ của mình, sống hồ thuận, hạnh phúc bên nhau.Và cũng trong xã hội đó mọi phẩm giá,

mọi giá trị của con người mới được thực sự trân trọng, lẽ sống thực sự cơng bằng và nhân ái, mình
vì mọi người, mọi người vì mình. Đó là cái thiện thiêng liêng cao cả, chân chính nhất, từ tâm nhất
302

Vận dụng phạm trù Thiện – Ác vào quá trình giáo dục Đạo đức cho sinh viên…

và vì con người nhất.
Cái thiện được biểu hiện thông qua hành động, việc làm cụ thể trong đời sống hiện thực góp
phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, đem lại lợi ích chung cho mọi người và cho bản thân cũng như
cộng đồng xã hội.
Cái ác là xấu xa, có hại, mang lại điều đau khổ, bất hạnh cho con người, có khi còn gây ra
sự bất ổn cho cộng đồng xã hội, chống lại sự tiến bộ xã hội, chống lại lồi người. Cái ác khơng chỉ
biểu hiện qua hành vi cụ thể, mà có khi cịn biểu hiện qua suy nghĩ, ý nghĩ, động cơ xấu xa ích kỉ,
hèn hạ. Những biểu hiện của cái ác cũng rất khác nhau, như trộm cắp, đánh đập người khác, giết
người, bỏ rơi người khác trong hoạn nạn, tham lam cá nhân, vì lợi ích cá nhân mà triệt hạ lợi ích
người khác, lợi ích cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, cái ác không phải là cái đối lập tuyệt đối của cái
thiện trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trong tiến trình lịch sử xã hội lồi người nói chung,
trong nền văn hố của các tơn giáo, truyền thống của các dân tộc quan niệm thiện ác nhiều khi
hoàn toàn trái ngược nhau. “Bộ tộc Hơ-ten-hốt ( Tây Châu phi) có tục lệ giết cha mẹ lúc già yếu
để tránh sự đau ốm dai dẳng hoặc bộ tộc Pâylar (Trung Phi) coi việc “thực táng” chia nhau ăn thịt
người chết là việc làm thiêng liêng của điều thiện”[2, 36]. Nhưng các dân tộc khác lại coi đó là
điều ác khơng thể chấp nhận được. Trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể quan điểm thiện ác cũng có
thể hốn đổi cho nhau.Thời đại công xã nguyên thuỷ, khi con người sống theo kiểu bầy đàn, nam
nữ quan hệ tình dục quần hôn (không phân biệt huyết thống) được xem là hợp đạo đức, là cái thiện
được mọi người chấp nhận. Ngày nay, xã hội văn minh quan hệ tình dục bừa bãi, không tuân theo
chế độ một vợ một chồng, đặc biệt là tình dục trực hệ khơng những bị xã hội lên án là ác, phi đạo
đức mà còn bị pháp luật trừng trị. Cái thiện và ác được chúng ta đánh giá tuỳ vào nó có thúc đẩy
hay cản trở sự phát triển của xã hội, hạnh phúc của con người.
Ở nước ta, trong các giai đoạn lịch sử nói chung và trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã

hội và bảo vệ Tổ quốc nói riêng, quan điểm thiện ác thể hiện đa dạng, phong phú và không ngừng
bổ sung phát triển. Theo quan điểm truyền thống của dân tộc Việt Nam, cái thiện thể hiện trong
đời sống đạo đức như biết quan tâm giúp đỡ người khác, kính già, u trẻ, hy sinh vì Tổ quốc…và
cuộc sống con người chỉ có ý nghĩa, nhân bản khi họ biết hướng thiện – biết khắc phục, đẩy lùi sự
cám dỗ của điều ác mà có lợi cho mình (ích kỉ hại nhân) và tích thiện tức là cố gắng làm những
điều thiện từ nhỏ nhất có thể thiệt cho mình mà ích cho người khác, trong Ca Huấn của Nguyễn
Trãi viết:
Thấy người đói rách thì thương
Rét nhường cho mặc, đói nhường cho ăn.
đến các việc lớn mà thế hệ cha anh, tiêu biểu là các anh hùng liệt sĩ đã qn mình vì đại
nghĩa, sẵn sàng cống hiến tính mạng của mình cho cái thiện: tự do hạnh phúc cho dân tộc.
Ngày nay, chúng ta đang phấn đấu để có một xã hội trong đó: “Dân giàu, nước mạnh, xã
hội cơng bằng, văn minh” đó là cái thiện lớn lao nhất. Và chính trong xã hội đó, mỗi con người
Việt Nam là một chủ thể đạo đức đang phấn đấu sáng tạo nên cái thiện chân chính nhất, tốt đẹp
nhất, bằng hành vi, hành động phục vụ cho lợi ích dân tộc, nhân dân, thực hiện lời dạy của Bác
Hồ: “Việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng tránh”[6; 55].

303

Nguyễn Thị Thanh Bình

3.

Giáo dục cái Thiện, phịng ngừa cái Ác cho sinh viên Việt Nam hiện
nay

Để giúp sinh viên có được nhận thức, thái độ, hành vi đúng về các chuẩn mực đạo đức thì
trước hết Bộ Giáo dục & Đào tạo phải đưa môn Đạo đức học vào chương trình bắt buộc của tất cả
các ngành học, các hệ đào tạo bởi lẽ trong hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, chương

trình đạo đức học mới chỉ dạy cho các lớp hệ sư phạm thuộc các ngành khoa học xã hội (Đại học
Giáo dục chính trị, đại học tiểu học, đại học mầm non) cịn các ngành thuộc khoa học tự nhiên
khơng được học, đặc biệt ngành ngồi sư phạm thì hầu như khơng có chương trình đạo đức học.
Vì chỉ thơng qua học tập mới làm biến đổi chính chủ thể hoạt động, điều đó có nghĩa sinh viên
phải tiếp thu các khái niệm, chuẩn mực về đạo đức, hình thành các kĩ năng, kĩ xảo đạo đức trong
cuộc sống cũng như trong nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách của người chuyên
gia trong tương lai.
Đứng trước yêu cầu đòi hỏi này, việc giáo dục cái thiện, phòng ngừa cái ác cho sinh viên
Việt Nam hiện nay, cần quan tâm đến những vấn đề sau:
Thứ nhất, Thiện và Ác có tính hai mặt: “Theo nghĩa rộng thì cả thế giới và trong một nước
có Thiện và có Ác. Theo nghĩa hẹp thì trong bản thân và tư tưởng của mỗi người cũng có Thiện
và Ác”[5, 511]. Đó là kiểu tư duy biện chứng thấy rõ hai mặt thiện và ác tiềm ẩn trong một con
người, trong một xã hội, trong một dân tộc và nói rộng ra trong thế giới. Hai mặt ấy luôn đối lập
nhau, đấu tranh với nhau, và chuyển hố theo từng mơi trường xã hội, theo sự phấn đấu của mỗi
người, mỗi dân tộc, mỗi xã hội và nói chung là tồn nhân loại, tuỳ thuộc vào phẩm chất tinh thần
của mỗi đối tượng. Vấn đề cần nhấn mạnh là khả năng của sinh viên phân biệt được rõ hai mặt tốt
và xấu, thiện và ác, và biết lựa chọn hành động theo cái thiện cái tốt, tức là sinh viên ý thức được
rằng điều quan trọng nhất đối với con người không phải là sống mà là sống cho tốt, tức là sống có
đạo đức, sống thiện.
Thứ hai, việc đánh giá một hành vi của con người là thiện hay ác không chỉ phụ thuộc vào
kết quả mà còn liên quan đến động cơ. Hành vi được đánh giá là thiện hay ác được biểu hiện cụ
thể như sau:
Động cơ tốt, kết quả tốt được coi là thiện;
Động cơ tốt, kết quả xấu – không được coi là ác;
Động cơ xấu, kết quả tốt – không được coi là thiện;
Động cơ xấu, kết quả xấu – được coi là ác.
Trong thực tế cuộc sống, việc xác định một hành vi là thiện hay ác hoàn toàn không dễ
dàng. Bởi lẽ, đằng sau mỗi hành vi chứa đựng động cơ, mục đích nào đó mà người khác khơng
phải bao giờ cũng nhận ra. Ví dụ: Có hai người phản bội, người thứ nhất vì nhu nhược mà phản
bội, người thứ hai có ý đồ phản bội. Đánh giá về mặt chính trị thì hai hành động phản bội như

nhau, nhưng đánh giá về đạo đức thì người có ý đồ phản bội xấu xa hơn.
Thứ ba, để làm việc thiện, con người khơng chỉ có mục đích, động cơ tốt (thiện tâm) mà
cịn phải có điều kiện, phương tiện thực hiện. Ví dụ, trước tình huống một người sắp chết đuối,
sinh viên tàn tật là A hô to: “Cứu người chết đuối” nhưng bản thân thì khơng nhảy xuống sơng để
làm việc đó. Cịn sinh viên là B lao xuống sơng để cứu chỉ vì anh ta đang biết người đang chới với
dưới sông là người giàu có, và anh ta hy vọng được người kia trả ơn. Trong trường hợp này sinh
viên A không bị coi là ác vì A tàn tật khơng có khả năng bơi cứu người, còn hành động của sinh
304

Vận dụng phạm trù Thiện – Ác vào quá trình giáo dục Đạo đức cho sinh viên…

viên B không được coi là thiện vì động cơ cá nhân của mình.
Thứ tư, hành vi của con người được đánh giá thiện hay ác tuỳ theo bản chất của nó: ngăn
cản hoặc thúc đẩy việc thoả mãn nhu cầu cụ thể của xã hội nói chung và lợi ích của nhân dân tiến
bộ nói riêng. Đó là sự kết hợp quyền lợi cá nhân với quyền lợi tập thể, giữa quyền lợi gia đình với
quyền lợi dân tộc, giữa cái lợi nhỏ và cái lợi lớn. Ngược lại, những gì gây cản trở, bất lợi, có hại
cho mục tiêu trên đều được coi là ác. Ví dụ, mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường đã làm khơng ít
người, khơng ít sinh viên đã trở nên ít kỉ, chỉ biết vun vén cho lợi ích cá nhân, chỉ nghĩ đến mình
mà không nghĩ đến người khác, không quan tâm đến người khác, cũng như cộng đồng xã hội.
Khơng ít kẻ đã chà đạp lên nổi đau của người khác, dẫm đạp lên dư luận để tìm thấy sung sướng,
an nhàn riêng cho bản thân, còn bạn bè, người thân, đồng loại ra sao mặc kệ.
Mặc dù, trong xã hội hiện tại, cái thiện cái ác tồn tại song hành, đan xen nhau. Nhưng lí
tưởng cao đẹp của loại người nói chung và các quốc gia, dân tộc tiến bộ nói riêng là xây dựng một
xã hội văn minh, hiện đại mà trong đó cái Thiện ngự trị tuyệt đối, cái Ác bị đẩy lùi. Để thực hiện
được lí tưởng đó, trước hết mỗi sinh viên phải xây dựng mục đích học tập, lí tưởng sống cho mình
phù hợp với gia đình, nhà trường và xã hội. Mục đích, động cơ cơ bản nhất của sinh viên hiện nay
là học để “Làm người”, “Thành người”. Mà muốn “Làm người”, “Thành người” trước hết phải
không ngừng học tập nâng cao nhận thức về các chuẩn mực đạo đức như: Trung với nước, hiếu
với dân; thương yêu con người; cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư, có tình cảm quốc tế trong

sáng… và trong cuộc sống, phải biết thông cảm, thương yêu bạn bè, vui với thành công, đau với
nỗi đau của người khác để tương trợ, nâng đỡ nhau trong học tập, lao động, vui chơi, giải trí, đồng
thời phải biết phê phán, đấu tranh chống lại những thói hư, tật xấu như: kèn cựa, ích kỉ, vì lợi qn
nghĩa và như vậy mỗi sinh viên sẽ trở thành một tấm gương sáng về làm điều thiện, cổ vũ cho cái
thiện, tránh cái ác, lên án cái ác, đấu tranh chống cái ác một cách triệt để.
Vì vậy, cần phải xây dựng môi trường rèn luyện đạo đức cho sinh viên, thực chất là rèn
luyện “Đạo làm người”, là cái Thiện, là cách ứng xử với mình, với người, với mơi trường xung
quanh nhằm chính danh định phận. Phải có đạo đức, nhân cách, sống đúng đạo làm người. Mặt
khác, phải giáo dục cho sinh viên tấm lòng bao dung, độ lượng, lấy tình yêu thương con người để
đối xử với nhau trong xã hội, thì những giá trị nhân, lễ, nghĩa, chính danh sẽ có điều kiện để phát
huy tính tích cực của nó đối với xã hội nói chung, đối với mỗi người nói riêng. Nếu sinh viên được
giáo dục cái Thiện một cách bài bản, hệ thống sâu sắc thì chính họ đã tạo ra được mơi trường giáo
dục lành mạnh, trong quan hệ bạn bè, thầy trò, anh em sẽ thân thiện hơn, tốt đẹp hơn trong sáng
hơn và như vậy sẽ tránh được những tệ nạn không hay xảy ra trong nhà trường và xã hội.

4.

Kết luận

Con người được sinh ra, còn nhân cách là một quá trình hình thành. Điều đó khẳng định vai
trị quan trọng của giáo dục chính là con đường cơ bản và phổ biến nhất để hình thành và phát triển
nhân cách. Mặt khác, nhân cách được hình thành và phát triển nhờ được đào tạo, tôi luyện trong
mối quan hệ giữa các thành viên từ trong gia đình đến nhà trường và xã hội mà cá nhân đang tiếp
xúc và trưởng thành trong chính hoạt động sống của mình. Vì vậy, cần phải giáo dục đạo đức cách
mạng cho sinh viên Việt Nam một cách hệ thống bài bản, thông qua chương trình đào tạo- mơn
Đạo đức học, nhằm trang bị kiến thức, thái độ, kĩ năng lựa chọn và hành động theo hướng đảm bảo
cái tốt, cái thiện, phù hợp với phẩm chất tinh thần và lương tâm hướng thiện của thời đại, đó cũng
chính là sự lựa chọn thể hiện ở niềm tin bản thân, tin ở nhân dân và nhân loại tiến bộ.
305

Nguyễn Thị Thanh Bình

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Cam Thiệu Bình, 2013. Về mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế. Tạp chí triết học số 4/2013.
[2] Phạm Khắc Chương, 1998. Đạo đức học. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[6] Hồ Sỹ Hiệp dịch, 1980. Luận ngữ thánh kinh của người Trung Hoa. Nxb Đồng Nai.
[5] Hiến Lê, 1986. Mạnh Tử. Nxb Văn hố.
[7] Hồ Chí Minh, 1990. Về vấn đề giáo dục. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[8] Hồ Chí Minh, 2000. Toàn tập, t7. Nxb Sự thật, Hà Nội.
[7] Ph.Ăngghen, 1969. Chống Duyrinh. Nxb Sự thật, Hà Nội.
[8] Ph. Ăngghen, 1976. Lutvich Foiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức. Nxb Sự thật,
Hà Nội.
ABSTRACT
The category of good and evil and manipulate
the process of moral education for students Vietnam today
Follow the good, the good, avoid the bad, the evil, the struggle with evil, evil, of course,
much depends objective social factors. But just being able to live well equipped, properly perceived
knowledge about moral progress. The article focuses discuss some theoretical issues of the
category of good and evil and manipulate the process of moral education for students Vietnam
today.

306

2.1. Nội dung nghiên cứu và điều tra “ Thiện ” – “ Ác ” – Hai phạm trù cơ bản của đạo đức họcPhạm trù đạo đức học là những khái niệm đạo đức cơ bản phản ánh những đặc tính cơ bản, những phương diện và những quan hệ thông dụng nhất của những hiện tượng kỳ lạ đạo đức trong xã hội, làphạm trù lịch sử dân tộc có q trình tăng trưởng vĩnh viễn. Trong từng thời đại đơn cử, những phạm trù đạo đứcđược khái quát hoá từ những hiện tượng kỳ lạ và nhu yếu đạo đức của đời sống hiện thực gắn liền với sựphát triển của những điều kiện kèm theo kinh tế tài chính – xã hội tương ứng. Cùng với sự hoạt động và tăng trưởng củalịch sử, nội dung khái niệm, phạm trù đạo đức học không ngừng được bổ trợ, tăng trưởng, nó phảnánh một cách khái quát nhất sự hình thành và tăng trưởng tư tưởng đạo đức qua những thời đại. Liên hệ : Nguyễn Thị Thanh Bình, e-mail : [email protected] ễn Thị Thanh BìnhNói đến đạo đức trước hết phải đề cập đến cái thiện, cái ác vì đây là phạm trù TT, cơbản làm ranh giới hay thước đo đời sống đạo đức của mọi cá thể cũng như đời sống đạo đức củacon người trong hội đồng xã hội. Thiện và Ác là sự thống nhất và đấu tranh giữa những mặt trái chiều, ví dụ điển hình nhận diện cái ác là làm đẹp thêm cái thiện, làm cho cái thiện ngày càng triển khai xong hơn. Trong bài viết này, chúng tơi tìm hiểu và khám phá phạm trù Thiện và Ác theo cặp, tức là điều tra và nghiên cứu những mặtđối lập của hiện tượng kỳ lạ xã hội, nhằm mục đích xác lập giá trị chuẩn mực đạo đức xã hội để triển khai và cáilệch chuẩn để tránh. Thiện và Ác là cặp phạm trù trái chiều nhau trong mọi thời đại, mặc dầu ý niệm về nó cóthể biến hóa trong hồn cảnh lịch sử vẻ vang đơn cử của những vương quốc dân tộc bản địa khác nhau. Từ thời cổ đại, conngười đã phân biệt thiện và ác như phân biệt ánh sáng và bóng tối. Theo ý niệm của những nhàtriết học cổ đại phương Tây như Xơcrát ( 469 – 399 ) và Platon ( 427 – 347 ) thì “ Cái thiện ” là một ýniệm chung, thông dụng và không bao giờ thay đổi, là ý niệm cao nhất được coi là Chúa sáng thế, là mặt trời sinh ramuôn vật. Hêghen viết : ” Người ta tưởng nêu được một chân lí vĩ đại khi nói con người bẩm sinhlà thiện, tuy nhiên người ta quên rằng người ta cịn nêu được một chân lí vĩ đại hơn nữa với lời nói này : ” Con người bẩm sinh là ác ” [ 8, 63 ] Theo Hêghen, ác là hình thức, trong đó biểu lộ động lực củasự tăng trưởng lịch sử vẻ vang. Quan niệm của những học giả phương Đông cổ đại như Khổng Tử ( 551 – 479 ) và Mạnh Tử ( 327 – 289 ) cho rằng, con người sinh ra đã mang thực chất mầm mống thiện “ Nhân chi sơ tínhbản thiện ” [ 3, 59 ] con người sinh ra vốn thiện, chỉ vì những tập tục trong đời sống đã làm chocon người xa với cái thiện. “ Tính con người vốn thiện cũng như tính của nước là chảy xuống chỗthấp ” [ 4 ; 159 ]. Ngược lại, Tuân Tử ( 289 – 238 ) lại cho rằng “ Tính con người vốn ác ” [ 4 ; 157 ], tính làcái ta khơng thể làm ra được, nhưng hoàn toàn có thể học tập và rèn luyện mới xa dần cái ác và tiến tới điềuthiện. Các ý niệm trên đều chỉ ra cái Thiện là cái nên làm, cái Ác nên tránh, tuy nhiên nó cịn nhữngcó hạn chế cho rằng Thiện và Ác là phạm trù tiên thiên, nó như thể thực chất vốn có, thậm chí còn cóngười cho rằng con người sinh ra đã mang theo mầm móng tội ác. Họ khơng hiểu được bản chấtxã hội và tính lịch sử vẻ vang của phạm trù thiện ác. Theo quan điểm của đạo đức học Mác-Lênin thì ý thức của con người về Thiện, Ác khơngphải là mẫu sản phẩm trừu tượng thuần t có đặc thù tiên thiên hoặc mầm mống di truyền mà nólà mẫu sản phẩm của lịch sử dân tộc, là tác dụng phản ánh những điều kiện kèm theo kinh tế tài chính – xã hội của một thời đại, một thực trạng đơn cử. Ăngghen chỉ ra rằng : “ Tự giác hay không tự giác, rút cuộc người ta đều lấynhững quan điểm đạo đức của mình từ những quan hệ trong thực tiễn đã tạo thành cơ sở vị thế cho giai cấpcủa mình tức là từ mối quan hệ kinh tế tài chính, trong đó người ta thực thi sản xuất và trao đổi ” [ 7 ; 161 ]. Khơng có ý niệm Thiện, Ác nào là vĩnh viễn so với mọi thực trạng đơn cử. Thiện là cái tốt, đẹp, lành, cái có lợi, có ích, mang lại điều tốt đẹp cho con người, cộngđồng, xã hội, vì sự tân tiến của xã hội. Cái thiện là cái tốt đẹp biểu lộ lòng nhân ái của con ngườitrong đời sống hàng ngày. Đó chính là hành vi bộc lộ quyền lợi của cá thể tương thích với nhu yếu xãhội, lịch sử dân tộc, giai cấp và sự tân tiến xã hội. Cái thiện cơ bản nhất là giải phóng con người khỏi chếđộ người bóc lột người, kiến thiết xây dựng xã hội khơng cịn giai cấp và chính sách áp bức bất cơng. Trong đócon người có điều kiện kèm theo phát huy mọi năng lượng, trí tuệ, góp sức cho xã hội và triển khai tốt mọinghĩa vụ của mình, sống hồ thuận, niềm hạnh phúc bên nhau. Và cũng trong xã hội đó mọi phẩm giá, mọi giá trị của con người mới được thực sự trân trọng, lẽ sống thực sự cơng bằng và nhân ái, mìnhvì mọi người, mọi người vì mình. Đó là cái thiện thiêng liêng cao quý, chân chính nhất, từ tâm nhất302Vận dụng phạm trù Thiện – Ác vào quy trình giáo dục Đạo đức cho sinh viên … và vì con người nhất. Cái thiện được biểu lộ trải qua hành vi, việc làm đơn cử trong đời sống hiện thực gópphần thôi thúc sự tân tiến xã hội, đem lại quyền lợi chung cho mọi người và cho bản thân cũng nhưcộng đồng xã hội. Cái ác là xấu xa, có hại, mang lại điều đau khổ, xấu số cho con người, có khi còn gây rasự không ổn định cho hội đồng xã hội, chống lại sự tân tiến xã hội, chống lại lồi người. Cái ác khơng chỉbiểu hiện qua hành vi đơn cử, mà có khi cịn biểu lộ qua tâm lý, ý nghĩ, động cơ xấu xa ích kỉ, hèn kém. Những biểu lộ của cái ác cũng rất khác nhau, như trộm cắp, đánh đập người khác, giếtngười, bỏ rơi người khác trong hoạn nạn, tham lam cá thể, vì quyền lợi cá thể mà triệt hạ lợi íchngười khác, quyền lợi hội đồng xã hội. Tuy nhiên, cái ác không phải là cái trái chiều tuyệt đối của cáithiện trong những thực trạng lịch sử dân tộc đơn cử. Trong tiến trình lịch sử vẻ vang xã hội lồi người nói chung, trong nền văn hố của những tơn giáo, truyền thống lịch sử của những dân tộc bản địa ý niệm thiện ác nhiều khihoàn toàn trái ngược nhau. “ Bộ tộc Hơ-ten-hốt ( Tây Châu phi ) có tục lệ giết cha mẹ lúc già yếuđể tránh sự đau ốm dai dẳng hoặc bộ tộc Pâylar ( Trung Phi ) coi việc “ thực táng ” chia nhau ăn thịtngười chết là việc làm thiêng liêng của điều thiện ” [ 2, 36 ]. Nhưng những dân tộc bản địa khác lại coi đó làđiều ác khơng thể đồng ý được. Trong từng quy trình tiến độ lịch sử vẻ vang đơn cử quan điểm thiện ác cũng cóthể hốn đổi cho nhau. Thời đại công xã nguyên thuỷ, khi con người sống theo kiểu bầy đàn, namnữ quan hệ tình dục quần hôn ( không phân biệt huyết thống ) được xem là hợp đạo đức, là cái thiệnđược mọi người gật đầu. Ngày nay, xã hội văn minh quan hệ tình dục bừa bãi, không tuân theochế độ một vợ một chồng, đặc biệt quan trọng là tình dục trực hệ khơng những bị xã hội lên án là ác, phi đạođức mà còn bị pháp lý trừng trị. Cái thiện và ác được tất cả chúng ta nhìn nhận tuỳ vào nó có thúc đẩyhay cản trở sự tăng trưởng của xã hội, niềm hạnh phúc của con người. Ở nước ta, trong những quy trình tiến độ lịch sử dân tộc nói chung và trong q trình thiết kế xây dựng chủ nghĩa xãhội và bảo vệ Tổ quốc nói riêng, quan điểm thiện ác bộc lộ phong phú, đa dạng chủng loại và không ngừngbổ sung tăng trưởng. Theo quan điểm truyền thống cuội nguồn của dân tộc bản địa Nước Ta, cái thiện biểu lộ trongđời sống đạo đức như biết chăm sóc trợ giúp người khác, kính già, u trẻ, quyết tử vì Tổ quốc … vàcuộc sống con người chỉ có ý nghĩa, nhân bản khi họ biết hướng thiện – biết khắc phục, đẩy lùi sựcám dỗ của điều ác mà có lợi cho mình ( ích kỉ hại nhân ) và tích thiện tức là nỗ lực làm nhữngđiều thiện từ nhỏ nhất hoàn toàn có thể thiệt cho mình mà ích cho người khác, trong Ca Huấn của NguyễnTrãi viết : Thấy người đói rách thì thươngRét nhường cho mặc, đói nhường cho ăn. đến những việc lớn mà thế hệ cha anh, tiêu biểu vượt trội là những anh hùng liệt sĩ đã qn mình vì đạinghĩa, chuẩn bị sẵn sàng góp sức tính mạng con người của mình cho cái thiện : tự do niềm hạnh phúc cho dân tộc bản địa. Ngày nay, tất cả chúng ta đang phấn đấu để có một xã hội trong đó : “ Dân giàu, nước mạnh, xãhội cơng bằng, văn minh ” đó là cái thiện lớn lao nhất. Và chính trong xã hội đó, mỗi con ngườiViệt Nam là một chủ thể đạo đức đang phấn đấu phát minh sáng tạo nên cái thiện chân chính nhất, tốt đẹpnhất, bằng hành vi, hành vi Giao hàng cho quyền lợi dân tộc bản địa, nhân dân, thực thi lời dạy của BácHồ : “ Việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng tránh ” [ 6 ; 55 ]. 303N guyễn Thị Thanh Bình3. Giáo dục đào tạo cái Thiện, phịng ngừa cái Ác cho sinh viên Nước Ta hiệnnayĐể giúp sinh viên có được nhận thức, thái độ, hành vi đúng về những chuẩn mực đạo đức thìtrước hết Bộ Giáo dục đào tạo và Đào tạo phải đưa môn Đạo đức học vào chương trình bắt buộc của tất cảcác ngành học, những hệ huấn luyện và đào tạo bởi lẽ trong mạng lưới hệ thống giáo dục ĐH ở Nước Ta lúc bấy giờ, chươngtrình đạo đức học mới chỉ dạy cho những lớp hệ sư phạm thuộc những ngành khoa học xã hội ( Đại họcGiáo dục chính trị, ĐH tiểu học, ĐH mần nin thiếu nhi ) cịn những ngành thuộc khoa học tự nhiênkhơng được học, đặc biệt quan trọng ngành ngồi sư phạm thì phần đông khơng có chương trình đạo đức học. Vì chỉ thơng qua học tập mới làm đổi khác chính chủ thể hoạt động giải trí, điều đó có nghĩa sinh viênphải tiếp thu những khái niệm, chuẩn mực về đạo đức, hình thành những kĩ năng, kĩ xảo đạo đức trongcuộc sống cũng như trong nghề nghiệp, tăng trưởng những phẩm chất nhân cách của người chuyêngia trong tương lai. Đứng trước nhu yếu yên cầu này, việc giáo dục cái thiện, phòng ngừa cái ác cho sinh viênViệt Nam lúc bấy giờ, cần chăm sóc đến những yếu tố sau : Thứ nhất, Thiện và Ác có tính hai mặt : “ Theo nghĩa rộng thì cả quốc tế và trong một nướccó Thiện và có Ác. Theo nghĩa hẹp thì trong bản thân và tư tưởng của mỗi người cũng có Thiệnvà Ác ” [ 5, 511 ]. Đó là kiểu tư duy biện chứng thấy rõ hai mặt thiện và ác tiềm ẩn trong một conngười, trong một xã hội, trong một dân tộc bản địa và nói rộng ra trong quốc tế. Hai mặt ấy luôn đối lậpnhau, đấu tranh với nhau, và chuyển hố theo từng mơi trường xã hội, theo sự phấn đấu của mỗingười, mỗi dân tộc bản địa, mỗi xã hội và nói chung là tồn trái đất, tuỳ thuộc vào phẩm chất tinh thầncủa mỗi đối tượng người dùng. Vấn đề cần nhấn mạnh vấn đề là năng lực của sinh viên phân biệt được rõ hai mặt tốtvà xấu, thiện và ác, và biết lựa chọn hành vi theo cái thiện cái tốt, tức là sinh viên ý thức đượcrằng điều quan trọng nhất so với con người không phải là sống mà là sống cho tốt, tức là sống cóđạo đức, sống thiện. Thứ hai, việc nhìn nhận một hành vi của con người là thiện hay ác không riêng gì phụ thuộc vào vàokết quả mà còn tương quan đến động cơ. Hành vi được nhìn nhận là thiện hay ác được bộc lộ cụthể như sau : Động cơ tốt, hiệu quả tốt được coi là thiện ; Động cơ tốt, hiệu quả xấu – không được coi là ác ; Động cơ xấu, tác dụng tốt – không được coi là thiện ; Động cơ xấu, tác dụng xấu – được coi là ác. Trong thực tiễn đời sống, việc xác lập một hành vi là thiện hay ác trọn vẹn không dễdàng. Bởi lẽ, đằng sau mỗi hành vi tiềm ẩn động cơ, mục tiêu nào đó mà người khác khơngphải khi nào cũng nhận ra. Ví dụ : Có hai người phản bội, người thứ nhất vì nhu nhược mà phảnbội, người thứ hai có ý đồ phản bội. Đánh giá về mặt chính trị thì hai hành vi phản bội nhưnhau, nhưng nhìn nhận về đạo đức thì người có ý đồ phản bội xấu xa hơn. Thứ ba, để làm việc thiện, con người khơng chỉ có mục tiêu, động cơ tốt ( thiện tâm ) màcịn phải có điều kiện kèm theo, phương tiện đi lại triển khai. Ví dụ, trước trường hợp một người sắp chết đuối, sinh viên tàn tật là A hô to : “ Cứu người chết đuối ” nhưng bản thân thì khơng nhảy xuống sơng đểlàm việc đó. Cịn sinh viên là B lao xuống sơng để cứu chỉ vì anh ta đang biết người đang chới vớidưới sông là người giàu sang, và anh ta kỳ vọng được người kia trả ơn. Trong trường hợp này sinhviên A không bị coi là ác vì A tàn tật khơng có năng lực bơi cứu người, còn hành vi của sinh304Vận dụng phạm trù Thiện – Ác vào quy trình giáo dục Đạo đức cho sinh viên … viên B không được coi là thiện vì động cơ cá thể của mình. Thứ tư, hành vi của con người được nhìn nhận thiện hay ác tuỳ theo thực chất của nó : ngăncản hoặc thôi thúc việc thoả mãn nhu yếu đơn cử của xã hội nói chung và quyền lợi của nhân dân tiếnbộ nói riêng. Đó là sự phối hợp quyền lợi và nghĩa vụ cá thể với quyền lợi và nghĩa vụ tập thể, giữa quyền lợi và nghĩa vụ mái ấm gia đình vớiquyền lợi dân tộc, giữa cái lợi nhỏ và cái lợi lớn. Ngược lại, những gì gây cản trở, bất lợi, có hạicho tiềm năng trên đều được coi là ác. Ví dụ, mặt trái của chính sách kinh tế thị trường đã làm khơng ítngười, khơng ít sinh viên đã trở nên ít kỉ, chỉ biết vun vén cho quyền lợi cá thể, chỉ nghĩ đến mìnhmà không nghĩ đến người khác, không chăm sóc đến người khác, cũng như hội đồng xã hội. Khơng ít kẻ đã chà đạp lên nổi đau của người khác, dẫm đạp lên dư luận để tìm thấy sung sướng, an nhàn riêng cho bản thân, còn bè bạn, người thân trong gia đình, đồng loại thế nào mặc kệ. Mặc dù, trong xã hội hiện tại, cái thiện cái ác sống sót song hành, xen kẽ nhau. Nhưng lítưởng cao đẹp của loại người nói chung và những vương quốc, dân tộc bản địa văn minh nói riêng là thiết kế xây dựng mộtxã hội văn minh, tân tiến mà trong đó cái Thiện ngự trị tuyệt đối, cái Ác bị đẩy lùi. Để thực hiệnđược lí tưởng đó, trước hết mỗi sinh viên phải thiết kế xây dựng mục tiêu học tập, lí tưởng sống cho mìnhphù hợp với mái ấm gia đình, nhà trường và xã hội. Mục đích, động cơ cơ bản nhất của sinh viên hiện naylà học để “ Làm người ”, “ Thành người ”. Mà muốn “ Làm người ”, “ Thành người ” trước hết phảikhông ngừng học tập nâng cao nhận thức về những chuẩn mực đạo đức như : Trung với nước, hiếuvới dân ; thương mến con người ; cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư, có tình cảm quốc tế trongsáng … và trong đời sống, phải biết thông cảm, thương mến bè bạn, vui với thành công xuất sắc, đau vớinỗi đau của người khác để tương hỗ, nâng đỡ nhau trong học tập, lao động, đi dạo, vui chơi, đồngthời phải biết phê phán, đấu tranh chống lại những thói hư, tật xấu như : kèn cựa, ích kỉ, vì lợi qnnghĩa và như vậy mỗi sinh viên sẽ trở thành một tấm gương sáng về làm điều thiện, cổ vũ cho cáithiện, tránh cái ác, lên án cái ác, đấu tranh chống cái ác một cách triệt để. Vì vậy, cần phải thiết kế xây dựng môi trường tự nhiên rèn luyện đạo đức cho sinh viên, thực ra là rènluyện “ Đạo làm người ”, là cái Thiện, là cách ứng xử với mình, với người, với mơi trường xungquanh nhằm mục đích chính danh định phận. Phải có đạo đức, nhân cách, sống đúng đạo làm người. Mặtkhác, phải giáo dục cho sinh viên tấm lòng bao dung, độ lượng, lấy tình yêu thương con người đểđối xử với nhau trong xã hội, thì những giá trị nhân, lễ, nghĩa, chính danh sẽ có điều kiện kèm theo để pháthuy tính tích cực của nó so với xã hội nói chung, so với mỗi người nói riêng. Nếu sinh viên đượcgiáo dục cái Thiện một cách chuyên nghiệp, mạng lưới hệ thống thâm thúy thì chính họ đã tạo ra được mơi trường giáodục lành mạnh, trong quan hệ bạn hữu, thầy trò, bạn bè sẽ thân thiện hơn, tốt đẹp hơn trong sánghơn và như vậy sẽ tránh được những tệ nạn không hay xảy ra trong nhà trường và xã hội. 4. Kết luậnCon người được sinh ra, còn nhân cách là một quy trình hình thành. Điều đó khẳng định chắc chắn vaitrị quan trọng của giáo dục chính là con đường cơ bản và phổ cập nhất để hình thành và phát triểnnhân cách. Mặt khác, nhân cách được hình thành và tăng trưởng nhờ được giảng dạy, tôi luyện trongmối quan hệ giữa những thành viên từ trong mái ấm gia đình đến nhà trường và xã hội mà cá thể đang tiếpxúc và trưởng thành trong chính hoạt động giải trí sống của mình. Vì vậy, cần phải giáo dục đạo đức cáchmạng cho sinh viên Nước Ta một cách mạng lưới hệ thống chuyên nghiệp và bài bản, trải qua chương trình huấn luyện và đào tạo – mơnĐạo đức học, nhằm mục đích trang bị kỹ năng và kiến thức, thái độ, kĩ năng lựa chọn và hành vi theo hướng đảm bảocái tốt, cái thiện, tương thích với phẩm chất ý thức và lương tâm hướng thiện của thời đại, đó cũngchính là sự lựa chọn bộc lộ ở niềm tin bản thân, tin ở nhân dân và quả đât văn minh. 305N guyễn Thị Thanh BìnhTÀI LIỆU THAM KHẢO [ 1 ] Cam Thiệu Bình, 2013. Về mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế tài chính. Tạp chí triết học số 4/2013. [ 2 ] Phạm Khắc Chương, 1998. Đạo đức học. Nxb Giáo dục đào tạo, Thành Phố Hà Nội. [ 6 ] Hồ Sỹ Hiệp dịch, 1980. Luận ngữ thánh kinh của người Trung Quốc. Nxb Đồng Nai. [ 5 ] Hiến Lê, 1986. Mạnh Tử. Nxb Văn hố. [ 7 ] Hồ Chí Minh, 1990. Về yếu tố giáo dục. Nxb Giáo dục đào tạo, TP. Hà Nội. [ 8 ] Hồ Chí Minh, 2000. Toàn tập, t7. Nxb Sự thật, TP.HN. [ 7 ] Ph. Ăngghen, 1969. Chống Duyrinh. Nxb Sự thật, TP.HN. [ 8 ] Ph. Ăngghen, 1976. Lutvich Foiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ xưa Đức. Nxb Sự thật, TP. Hà Nội. ABSTRACTThe category of good and evil and manipulatethe process of moral education for students Vietnam todayFollow the good, the good, avoid the bad, the evil, the struggle with evil, evil, of course, much depends objective social factors. But just being able to live well equipped, properly perceivedknowledge about moral progress. The article focuses discuss some theoretical issues of thecategory of good and evil and manipulate the process of moral education for students Vietnamtoday. 306

Source: https://vvc.vn
Category : Từ Thiện

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay