Hưng Nguyên có trên 100 dòng họ sống hòa thuận với nhau. Mỗi họ có lịch sử vẻ vang tăng trưởng riêng, có thế mạnh riêng, khó hoàn toàn có thể nói họ nào hơn họ nào. Trong bài viết này chúng tôi chỉ nêu lên 1 số ít dòng họ nổi tiếng có công khai hoang lập làng, đánh giặc giữ nước, học tập khoa bảng, tăng trưởng văn hóa truyền thống đã được sử sách ghi công .
Có hai dòng họ Nguyễn
ở xã ước Lễ ( Hưng Đạo ) làm thông gia với nhau, sinh ra bà Nguyễn Thị Kép, bà ngoại Bác Hồ .
Họ ngoại :
Thân mẫu bà Kép là con gái ông Nguyễn Công Hanh ( cố Thủ Sắc – hiện còn nhà thời thánh ở xóm 5 xã Hưng Đạo ). Đây là họ Nguyễn đến tìm hiểu và khám phá vùng đất này từ thời xưa. Đất ở của họ chiếm diện tích quy hoạnh trên 1 ha cao ráo nhất làng. Có ngôi mộ tổ ” trong quan ngoài quách ” hiếm gặp trong vùng. Rất hoàn toàn có thể họ Nguyễn trọng ở làng Trung Cần ( Nam Đàn ) mà bia đá có ghi ” Tổ tiên vốn người làng Ước Lễ ” có gốc ở đây. Họ Nguyễn Trọng có 3 thế hệ liên tục đậu Tiến sĩ .
Họ nội :
Thân sinh bà Kép là ông Nguyễn Văn Giáp, con trai con ông Nguyễn Xuân Thử. Ông Giáp đậu 4 khoa Tú tài. Họ Nguyễn này gốc từ làng Chi Nê xã Thái Lão. Ông Giáp có người ông Bác là Nguyễn Xuân Hích làm đến chức Tri phủ dưới triều vua Quang Trung .
Ông Nguyễn Văn Giáp người xã Ước Lễ gả con gái là bà Nguyễn Thị Kép cho ông Hoàng Xuân Đường làng Hoàng Trù, sinh ra bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu Bác Hồ .
Họ Nguyễn
làng Phúc Hậu xã Hưng Xuân có Thủy tổ là cụ Nguyễn Quốc Thưởng, làm đến chức Hiến sát sứ dưới triều vua Lê Cảnh Hưng ( 1740 – 1786 ). Con cháu nối đời làm quan. Đời thứ 5 có ông Nguyễn Quốc Học ( tức Bá Hộ Dơi ). Bà Bá Hộ đã xuất kho thóc ” hơn vạn thạch ” ( 1 ) để cứu đói cho dân được vua Tự Đức truy tặng Biển ngạch ” Lạc Quyên Nghĩa Phụ “. Đời thứ 6 có ông Nguyễn Văn Nguyên, vợ là bà Lê Thị Cảnh, con trai là Lân, nên thường gọi là Mẹ Lân, được cụ Phan Bội Châu viết bài ca tụng là ” Nữ hào kiệt đất Hồng Lam “. Mẹ đã ” giao hàng loạt gia tài gồm 200 mẫu ruộng cùng 3.000 thỏi vàng cho con trai là Bang Lân và con rể là Lê Ninh đứng ra chiêu tập nghĩa quân, rèn vũ khí, sắm quân lương, chống Pháp ” ( 2 ). Em gái ông Nguyên là bà Nguyễn Thị Chuyên có chồng là ông Võ Trọng ái làng Phù Xá có 9 người cháu chắt nội ngoại là cán bộ Lão thành cách mạng. Đời thứ 7 có bà Nguyễn Thị Huyến vợ cụ Đặng Nguyên Cẩn ( lúc làm Giáo thụ Hưng Nguyên ) là mẹ của nhà văn Đặng Thai Mai .
Họ Nguyễn Trọng
ở thôn Phan xã Hưng Tân có Tổ là ông Xướng từ miền Bắc vào lánh nạn và tìm hiểu và khám phá vùng đất này, khoảng chừng thế kỷ 16. Từ đời thứ 6 trở đi có nhiều người tham gia trào lưu Văn thân Cần Vương. Cụ Nguyễn Trọng Khánh chiêu mộ nghĩa quân phối hợp chiến đấu với nghĩa quân Nguyễn Xuân Ôn và Phan Đình Phùng. Cụ Nguyễn Huy Chước ( Nguyễn Hữu Xước ) đậu 7 khoa Tú tài, làm quan trong triều đình Tự Đức, sau đó làm Tri huyện Yên Hóa. Cụ đã ủng hộ trào lưu chống Pháp do Tống Duy Tân chỉ huy, bị giặc Pháp bắt trói đem phơi nắng trên cầu đá cho đến chết. Trong họ còn có bà Nguyễn Thị Tích ( Lý Phương Thuận ), năm 1924 lên 9 tuổi đã được những người trẻ tuổi yêu nước dẫn ra quốc tế để học làm cách mạng. Bà được Bác Hồ đào tạo và giảng dạy từng giúp việc cho Bác trong cơ quan thường trực Hội Thanh niên cách mạng, bị bát cùng với Bác tại Hồng Kông năm 1931, do mới 15 tuổi nên được tha. Năm 1945 tham gia phá vụ án Ôn Như Hầu ở TP.HN .
Họ Nguyễn Dương
ở xã Hưng Long có ông Nguyễn Dương Điềm làm đến chức Phó quản trị Ủy Ban Nhân Dân tỉnh. Chú ruột ông Điềm là ông Nguyễn Dương Đôn, một trong những Tiến sĩ Toán học tiên phong của Nước Ta, rất tiếc ông Đôn lại làm Bộ trưởng giáo dục cho chính quyền sở tại Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Cùng họ này có ông Nguyễn Đình Lộc, tham gia Hội Duy Tân đã cùng với ông Võ Trọng Đài, Ngô Quảng liên tục đưa người trẻ tuổi yêu nước Xứ Nghệ sang Trại Cày Đặng Thúc Hứa ở Xiêm. Ông Lộc có 3 người con đều hoạt động giải trí cách mạng. Con gái là Nguyễn Thị Nhuận ( 1910 – 2006 ) hoạt động giải trí từ năm 1927. Em trai bà là Nguyễn Đình Hoàng ( Nguyễn Nhật Tân ) tức Siêu Hải ( 1915 – 1939 ) là một chiến sỹ cách mạng nổi tiếng tài ba và kiên cường, làm đến chức Ủy viên Ban thường vụ Thành ủy Vinh. Người nổi tiếng trong họ này còn sống là ông Nguyễn Đình Hương làm đến chức Phó Ban Tổ chức Trung ương Đảng .
Họ Nguyễn Ngọc
ở Hưng Long, có hai đồng đội Nguyễn Ngọc Các, Nguyễn Ngọc Ngoạn đều là đảng viên 1930 – 1931. Ông Ngoạn được nhân dân gọi Tổng Ngoạn là Tổng chỉ huy cuộc biểu tình lịch sử dân tộc ngày 12/9/1930. Ông xuất tiền nhà xây cầu cho dân đi lại làm ăn. Cây cầu về sau được gọi là cầu Tổng Ngoạn .
Họ Hồ
có Thủy tổ là Hồ Hưng Dật định cư ở Bào Đột ( Quỳnh Lưu ) cách nay hơn nghìn năm. Họ Hồ vào Hưng Nguyên khá sớm. Chi nhánh họ Hồ ở làng Phú Điền xã Hưng Phú có Tổ là Tiến sĩ Hồ Doãn Hài, triều Trần đã làm đến chức Thượng thư Bộ Lại .
Một Trụ sở khác của họ Hồ vào định cư ở làng Thái Xá xã Thái Lão, dưới chân núi Thai, đây là Tổ tiên của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ. Từ Thái Lão, khoảng chừng năm 1655 – 1660 ông Tổ 4 đời của họ Hồ đã vào ấp Tây Sơn đời sau đổi sang họ Nguyễn. Ngôi làng cũ nay là cánh đồng Khuông Ràn thuộc xóm 4B xã Hưng Đạo .
Họ Phan
ở làng Hạ Khê xã Hưng Tây có Thủy tổ là cụ Phan Nhân Thọ ( Phan Tiến Thọ ) đậu Tiến sĩ triều Lê Trang Tông, năm 1546. Đây cũng là Tổ tiên của cụ Phan Bội Châu ( hậu duệ đời thứ 7 ) và dòng họ Phan ở làng Đan Nhiễm ( Nam Đàn ). Cụ Phan từng đến đây dự lễ Tế tổ và làm câu đối khuyến mãi ngay nhà thời thánh họ .
Họ Bạch
ở Hưng Phú có Thủy tổ là Trạng nguyên Bạch Liêu người huyện Yên Thành. Cụ là ngời Nghệ An tiên phong đậu Đại khoa ( 1266 ). Cụ vào Phú Điền làm môn khách cho Thượng tướng Trần Quang Khải, rồi sinh ra dòng họ Bạch ở đây. Họ Bạch có nhiều người có tài năng như Tiến sĩ Bạch Hưng Khang – Viện trưởng Viện công nghệ thông tin. Ông Bạch Hưng Đào nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy .
Họ Thái
đến xã Do Lễ tổng Thông Lãng từ thế kỷ 14 đến đời thứ 3 có ông Thái Tất Tiên đậu Tiến sĩ năm 1466, đây là người Hưng Nguyên tiên phong ghi danh ở bia Tiến sĩ trong Văn miếu Quốc Tự Giám. Họ Thái hiện có nhiều Trụ sở ở Xứ Nghệ, trong đó có nhà thời thánh ở làng Yên Nậu xã Hưng Thông, làng Rào xã Hưng Đạo, Kim Mã xã Hưng Chính .
Họ Lê
ở Phù Xá xã Hưng Xá theo gia phả thì Thủy tổ là cụ Lê Khuyến, một người bạn bè của Lê Lợi. Khi Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa ( 1418 ) họ Lê cho cụ Khuyến vào lánh ở đây để đề phòng nguy hiểm và nuôi con ăn học. Con của cụ Khuyến là Lê Giám đậu Tiến sĩ năm 1478. Nay có Tiến sĩ Thiếu tướng Lê Văn Cương làm đến chức Viện trưởng Viện khoa học và kế hoạch Bộ Công an .
Họ Lê Văn
ở làng Đông xã Hưng Thông có cội nguồn từ miền Bắc vào đây truyền kiếp. Trong họ có nhiều người tham gia Văn hội, hưởng ứng trào lưu Văn thân, Cần Vương. Hai người con xuất sắc ưu tú của họ này là Tổng Bí thư Lê Hồng Phong – Ủy viên Ban chấp hành Quốc tế cộng sản và Thiếu tướng Lê Thiết Hùng – vị Tướng được phong tiên phong của nước ta .
Họ Lê Sĩ
có Thủy tổ là Tiến sĩ Lê Sĩ Triệt thuộc dòng họ nhiều đời khoa bảng ở xã Cổ Đôi ( Nông Cống – Thanh Hóa ). Cụ Triệt là tướng của triều đình Lê Trịnh lập được nhiều công lao, thăng đến chức Hữu Thị Lang ( Phó của Thượng thư ) tước Hầu làm Đốc Đồng Nghệ An ( 1660 – 1672 ) và định cư ở đây. Khi ông mất được lập đền thờ ở làng Đông. Nhiều triều đại ban sắc phong Thần. Nhà thờ họ Lê Sĩ đã được Tỉnh cấp bằng công nhận là Di tích lịch sử vẻ vang văn hóa truyền thống. Dòng họ này có nhiều người hoạt động giải trí cách mạng trong những trào lưu Văn thân, Cần Vương. Ngày nay họ Lê Sĩ có nhiều người là Giáo sư, Tiến sĩ .
Họ Hoàng Nghĩa
ở xã Hưng Lĩnh có Thủy tổ là Hoàng Nghĩa Lãng ( Hoàng Nghĩa Lương ) vào Hưng Nguyên đầu thế kỷ 17. Cha cụ Lãng là Thái phó Hoàng Nghĩa Kiều người xã Hoàng Vân ( Kim Động – Hưng Yên ). Hoàng Nghĩa Lãng có mẹ là người xã Dương Xá, nay thuộc xã Hưng Lĩnh. Thời Lê Trung Hưng ông làm quan đến Đô đốc Binh sứ, quản lý vùng Nghệ An được phong Phú quận công. Năm 1829 Triều đình cấp 100 mẫu đất bãi lập làng Hoàng Nghĩa. Nay con cháu họ này sinh sống nhiều vùng trong nước và rất nhiều người thành đạt. Một chi ở Nam Đàn có hậu duệ là bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu Bác Hồ .
Họ Hoàng Đăng
ở làng Châu Sơn, tổ tiên là người Đàng Trong, đến lập nghiệp ở đây từ cuối thế kỷ 15. Họ có nhiều đời làm quan dưới triều Lê Trung Hưng. Trong thời kỳ Đảng ta hoạt động giải trí động bí hiểm, nhà thời thánh họ Hoàng và nhà ông Hoàng Viện là nơi hội họp và nương náu của những chiến sỹ cộng sản ở Hưng Nguyên và của Xứ ủy Trung Kỳ. Ông Hoàng Viện và 4 người khác trong họ được công nhận là cán bộ Lão thành cách mạng. Nhà ông Hoàng Viện được xếp hạng Di tích lịch sử dân tộc cấp Quốc gia .
Họ Đinh
đến lập nghiệp ở làng Bùi Ngõa xã Hưng Trung vào thế kỷ 14, là dòng họ có truyền thống cuội nguồn khoa bảng. Năm 1543 ông Định Bạt Tụy đỗ đầu khoa thi đặc biệt quan trọng do vua Lê Trung Tông tổ chức triển khai. Ông được nhân dân gọi là quan Trạng. Ông là người văn võ song toàn, được thăng đến chức Thượng thư Bộ Binh, tước Khê Quận công. Đền thờ Đinh Bạt Tụy là Di tích lịch sử vẻ vang văn hóa truyền thống cấp Quốc gia. Thời Lê họ Đinh có 4 người đậu Hương Cống ( cử nhân ) .
Họ Võ
ở Phù Xá có Thủy tổ là cụ Võ Trọng Kỷ, gốc là họ Võ làng Mộ Trạch ( Thành Phố Hải Dương ) nổi tiếng về khoa bảng, vào Hưng Nguyên từ thế kỷ 17. Từ đời thứ 4 ( cụ Võ Trọng Thưởng ) về sau có nhiều người phong phú và năng lực. Nhiều người có công với nước, cũng không ít kẻ làm tay sai cho giặc. Về khoa bảng, có 2 người đậu cử nhân : Cụ Võ Trọng Hoán ( 1903 ) và cụ Võ Trọng Lạc ( 1912 ). Đặc biệt chi họ võ cụ Tú Lang ( Võ Trọng Cẩn ) có ông Võ Trọng Việng ( Tác Việng ) chiến đấu dưới ngọn cờ nghĩa quân Phan Đình Phùng, bị giặc Pháp bắt, chém đầu ở chợ Vực. Nhà thờ họ Võ cụ Tú Lang là nơi liên lạc của những chiến sỹ cách mạng trong những trào lưu Cần Vương, Đông Du, Xuất Dương và thời kỳ Đảng hoạt động giải trí bí hiểm. Chi họ này có 10 người là cán bộ Lão thành cách mạng. Tiêu biểu có những cụ Võ Trọng Đài, Võ Trọng Nhỏ, Võ Trọng Ân, Võ Trọng Cánh, Võ Trọng Cư, … Cụ Võ Trọng Ân làm đến chức Phó quản trị Ủy Ban Nhân Dân tỉnh. Con cháu họ Võ lúc bấy giờ có nhiều người thành đạt .
Họ Ngô
ở làng Cự xã Hưng Lợi không rõ có thuộc dòng họ nói trên hay không, chỉ biết có ông Ngô Trạch đậu Phó bảng năm 1879 làm quan Đốc học. Vợ ông là bà Trịnh Thị Kính ( 3 ) người làng Xuân Nha xã Hưng Nhân. Gia đình và Kính ở làng Cự là nơi tụ họp của những sĩ phu yêu nước trong trào lưu Văn thân, Đông Du. Bà Nguyễn Thị Thanh ( chị Bác Hồ ) thường qua lại nơi đây. Khi vụ trộm súng trong thành Vinh do bà Thanh tổ chức triển khai bị lộ, bà Kính bị giặc bắt tra tấn dã man và sớm qua đời. Con trai là Ngô Thuần sinh năm 1885 bị xử chém. Anh trai cùng cha khác mẹ là Ngô Trạm sinh năm 1879 bị phán quyết 9 năm tù khổ sai. Hai người con trai khác của ông Trạch và bà Kính là Ngô Thúc Tuân và Ngô Thúc Thiêm xuất dương cùng với Lê Hồng Phong năm 1924 và trở thành những cán bộ tiền bối của Đảng .
Họ Trần
ở xã Hưng Tiến có Thủy tổ là cụ Trần Dĩnh Xuyên quê ở TP Hà Tĩnh, đến dạy học ở Hưng Nguyên từ thế kỷ 17. Họ có truyền thống lịch sử hiếu học và mưu trí. Cụ Trần Văn Song đậu Cử nhân năm 1888. Con trai cụ là Giáo sư Trần Hạo, Tiến sĩ toán học nổi tiếng của Nước Ta. Cụ Trần Đệ là cán bộ Lão thành cách mạng làm đến chức Phó Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận .
Họ Phạm
ở làng Xuân Nha xã Hưng Nhân là dòng họ có truyền thống cuội nguồn yêu nước và hiếu học. Trước năm 1922 làng Xuân Nha thuộc xã Tam Xuân huyện Nghi Xuân – thành phố Hà Tĩnh. Thời Lê Trung Hưng có 10 người đậu Tú tài trở lên. Nhà thờ họ Phạm là nơi tụ họp của những chiến sỹ cách mạng tròng thời kỳ hoạt động giải trí bí hiểm, được công nhận là Di tịch lịch sử dân tộc cấp Quốc gia. Họ Phạm đã sinh ra người chiến sỹ cách mạng xuất sắc ưu tú Liệt sĩ Phạm Hồng Thái .
Trên đây chúng tôi mới khám phá trên địa phận huyện Hưng Nguyên thời nay, nếu lan rộng ra ra địa phận huyện Hưng Nguyên cũ thì phải kể đến họ Chu ở xã Hưng Hòa, có hậu duệ là Đại tướng Chu Huy Mân, làm đến chức Ủy viên Bộ Chính trị, Phó quản trị nước ; Họ Nguyễn ở xã Hưng Dũng có hậu duệ là ông Nguyễn Mạnh Cầm nguyên Phó Thủ tướng nhà nước, quản trị Hội Khuyến học Nước Ta ; và nhiều dòng họ khác đã sinh ra những bậc hiền tài cho quốc gia. Hiện nay chúng tôi chưa có điều kiện kèm theo khám phá được vừa đủ. / .
( 1 ) và ( 2 )Hưng Nguyên những trang lịch sử dân tộc – 1995 – Tr 51 .
( 3 )Hồ sơ của Pháp trong vụ án lấy trộm súng năm 1918 ghi là Trần Thị Hai