Cách đây hơn một thế kỷ, tỷ suất tử trận ở trẻ sơ sinh ở Hoa Kỳ là 20 % và tỷ suất tử trận ở trẻ nhỏ trước năm tuổi là 20 % .
Edward Jenner, một bác sĩ sống ở Berkeley (Gloucestershire)- Anh quốc. Vào năm 1796 khi ông lấy mủ từ một vết thương đậu mùa để tiêm cho một cậu bé tám tuổi, James Phipps.
Dựa trên mười hai thí nghiệm như vậy và mười sáu lịch sử dân tộc trường hợp bổ trợ mà ông đã tích lũy được từ những năm 1770, Jenner đã xuất bản một văn bản tầm cỡ trong biên niên sử của y học : Điều tra về Nguyên nhân và Tác dụng của Variola Vaccine. Việc lấy vi trùng từ động vật hoang dã mắc bệnh và làm cho vi rút yếu sau đó tiêm vào khung hình người qua đường máu được Jenner gọi là vaccination .
Theo ông, khi loại vi khuẩn bị suy yếu được tiêm vào người, cơ thể sẽ tự phát sinh ra một yếu tố kháng lại bệnh đó. Vì thế, những người đã được tiêm sẽ không mắc bệnh đậu mùa nữa. Ông không những áp dụng phương pháp này cho cậu bé James Phipps mà còn áp dụng ngay trên cả chính con trai ông. Ông khẳng định rằng, bệnh thủy đậu bảo vệ con người khỏi sự lây nhiễm bệnh đậu mùa và đặt nền móng cho vắc-xin hiện đại.
Khám phá của Jenner phụ thuộc vào rất nhiều vào kiến thức về phong tục tập quán của hội đồng nông nghiệp địa phương và nhận thức rằng những người vắt sữa bị nhiễm bệnh đậu mùa, hoàn toàn có thể nhìn thấy như mụn mủ trên tay hoặc cẳng tay, miễn dịch với những đợt dịch đậu mùa tiếp theo xảy ra ở khu vực .
Hơn nữa, Jenner đã vận dụng những chiêu thức quan sát và thử nghiệm khoa học. Cuối cùng triển khai một trong những thử nghiệm lâm sàng tiên phong trên quốc tế. Do đó, ông đã hoàn toàn có thể đưa ra một giải pháp sửa chữa thay thế cho sự biến hóa ( việc truyền mủ có trấn áp từ tổn thương đậu mùa hoạt động giải trí của một người sang cánh tay của người khác, thường là tiêm dưới da ), đã được thực thi ở châu Á từ những năm 1600 và ở châu Âu và châu Mỹ thuộc địa đầu những năm 1700 .
3. Vắc xin và những mốc quan trọng
Việc thực hành tiêm chủng có từ hàng trăm năm trước. Các nhà sư Phật giáo đã uống nọc độc của rắn để tạo ra khả năng miễn dịch đối với vết rắn cắn và biến đổi (bôi một vết rách da bằng đậu đũa để tạo ra khả năng miễn dịch đối với bệnh đậu mùa) đã được thực hiện ở Trung Quốc vào thế kỷ 17.
Edward Jenner được coi là người sáng lập vắc-xin ở phương Tây vào năm 1796, sau khi ông tiêm cho một cậu bé 13 tuổi bị nhiễm virus vaccinia (đậu bò) và chứng minh khả năng miễn dịch đối với bệnh đậu mùa.
Năm 1798, vắc-xin đậu mùa đầu tiên được phát triển. Trong thế kỷ 18 và 19, việc thực hiện một cách có hệ thống việc tiêm chủng bệnh đậu mùa hàng loạt đã lên đến đỉnh điểm trong việc xóa sổ toàn cầu vào năm 1979.
Các thí nghiệm của Louis Pasteur đã đứng vị trí số 1 sự tăng trưởng của vắc-xin dịch tả sống và vắc-xin bệnh than bất hoạt ở người ( lần lượt là 1897 và 1904 ). Vắc-xin bệnh dịch hạch cũng được phát minh vào cuối thế kỷ 19 .
Giữa năm 1890 và 1950, sự phát triển vắc-xin vi khuẩn tăng sinh, bao gồm vacxin Bacillus-Calmette-Guerin (BCG), vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay. Năm 1923, Alexander Glenny đã hoàn thiện một phương pháp làm bất hoạt độc tố uốn ván bằng formaldehyde. Phương pháp tương tự đã được sử dụng để phát triển vắc-xin phòng bệnh bạch hầu vào năm 1926. Việc phát triển vắc-xin ho gà mất nhiều thời gian hơn, với vắc-xin toàn tế bào lần đầu tiên được cấp phép sử dụng ở Mỹ vào năm 1948.
Các phương pháp nuôi cấy mô virus được phát triển từ năm 1950-1985 và dẫn đến sự ra đời của vắc-xin bại liệt Salk (bất hoạt) và vắc-xin bại liệt Sabin (uống giảm độc lực sống). Hiện nay, tiêm chủng bại liệt hàng loạt đã loại trừ được căn bệnh này từ nhiều khu vực trên thế giới.
Các chủng sởi, quai bị và rubella suy yếu đã được phát triển để đưa vào vắc-xin. Sởi hiện là mục tiêu có thể tiếp theo để loại trừ thông qua tiêm chủng.
Hai thập kỷ qua đã chứng kiến ứng dụng của di truyền phân tử và những hiểu biết ngày càng tăng của nó về miễn dịch học, vi sinh học và genomics áp dụng cho vắc-xin. Thành công hiện tại bao gồm phát triển vắc-xin viêm gan B tái tổ hợp, vắc-xin ho gà gây phản ứng ít và các kỹ thuật mới để sản xuất vắc-xin cúm mùa.
Di truyền học phân tử đặt bối cảnh cho một tương lai tươi sáng của vắc-xin, bao gồm phát triển các hệ thống phân phối vắc-xin mới (ví dụ vắc-xin DNA, vectơ virus, vắc-xin thực vật và thuốc bôi), thuốc bổ trợ mới, phát triển vắc-xin phòng bệnh lao hiệu quả hơn. (CMV), virus herpes simplex (HSV), virus hợp bào hô hấp (RSV), bệnh tụ cầu, bệnh liên cầu khuẩn, cúm đại dịch, shigella, HIV và bệnh sán máng.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số
hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY.
Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.