Văn bản pháp luật được coi là sản phẩm của hoạt động quản lý nhà nước. Để đánh giá đúng đắn về chất lượng của văn bản pháp luật cần dựa vào những tiêu chí khoa học mang tính khách quan và toàn diện.
Văn bản pháp luật được coi là sản phẩm của hoạt động quản lý nhà nước. Để đánh giá đúng đắn về chất lượng của văn bản pháp luật cần dựa vào những tiêu chí khoa học mang tính khách quan và toàn diện. Yêu cầu về ngôn ngữ văn bản pháp luật là một trong những tiêu chí như thế.
Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin phân tích một số yêu cầu đối với ngôn ngữ văn bản pháp luật để giúp khách hang có thể tự xây dựng văn bản có chất lượng.
Ngôn ngữ văn bản pháp lý là mạng lưới hệ thống những từ và quy tắc phối hợp chúng trong tiếng Việt, được Nhà nước sử dụng để thiết lập những văn bản pháp lý. Đồng thời, nó cũng là phương tiện đi lại dùng để tiếp xúc giữa chủ thể quản trị và đối tượng người dùng quản trị. Ngôn ngữ hoàn toàn có thể nói là phương tiện đi lại quan trọng số 1 để biểu lộ ý chí của cấp có thẩm quyền .
1/ Ngôn ngữ văn bản là ngôn ngữ viết.
Sử dụng ngôn ngữ viết, nhà quản lý có thể lựa chọn các từ, nghĩa có tính chính xác cao; lập các câu có kết cấu ngữ pháp chặt chẽ, hoàn chỉnh, nhờ đó có thể trình bày cụ thể, rõ ràng ý chí của mình và tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng thi hành văn bản nắm bắt được đúng đắn, đầy đủ nội dung của văn bản pháp luật. Đồng thời, các cơ quan nhà nước cũng thuận lợi hơn trong việc sao gửi, nghiên cứu, lưu trữ thông tin nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý của mình.
2/ Ngôn ngữ văn bản pháp luật là tiếng Việt.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mà mỗi dân tộc lại đặc trưng bởi một ngôn ngữ khác nhau. Trong các ngôn ngữ, tiếng Việt chiếm đa số, được đưa vào giảng dạy trong giáo dục và được xem là quốc ngữ. Tiếng Việt là tiếng được đại đa số người dân trên đất nước sử dụng nên nó mang tính thông dụng, phổ biến. Do đó, sử dụng tiếng Việt để soạn thảo các văn bản pháp luật không chỉ là yêu cầu mang tính pháp lý mà còn là vấn đề khoa học. Văn bản pháp luật pháp luật phải được viết bằng tiếng Việt thì mới có thể phổ biến tới nhiều người và nhiều người cùng hiểu được nội dung của văn bản, nhờ đó, quá trình chuyển tải ý chí của chủ thể quản lý nhà nước mới đạt được kết quả cao nhất. Vì lẽ đó, văn bản pháp luật phải được viết bằng tiếng Việt, phải tuân theo những quy tắc chung của tiếng Việt, không thể nghiên cứu ngôn ngữ pháp luật tách rời ngôn ngữ dân tộc.
3/ Ngôn ngữ văn bản pháp luật là ngôn ngữ được Nhà nước sử dụng chính thức.
Do văn bản pháp luật có đặc thù là mang tính quyền lực nhà nước nên ngôn ngữ văn bản pháp luật là ngôn ngữ chuẩn quốc gia, được Nhà nước sử dụng chính thức. Nhà nước đã đặt ra những yêu cầu nhất định đối với hệ thống ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản để diễn đạt các chủ trương, chính sách, các mệnh lệnh cụ thể.
3.1/ Ngôn ngữ trong văn bản pháp luật phải đảm bảo tính nghiêm túc.
Ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản pháp luật bảo đảm tính nghiêm túc, lịch sự sẽ tạo ra sự thiện chí và tự giác thực hiện ở những đối tượng có liên quan, nhờ đó mà pháp luật được tôn trọng. Ngược lại, nếu ngôn ngữ thiếu nghiêm túc sẽ ảnh hưởng lớn đến sự trang nghiêm, uy quyền của hoạt động quản lý nhà nước, tạo ra tâm lí coi thường Nhà nước, coi thường pháp luật đồng thời có thể ảnh hưởng tới tính chính xác của văn bản
Khi soạn thảo văn bản pháp luật, người viết chú ý không sử dụng khẩu ngữ, tiếng lóng, tiếng tục; tránh dùng những từ thô thiển, thiếu nhã nhặn, đả kích hoặc châm biếm. Đồng thời, nên tránh sử dụng các yếu tố ngôn ngữ mang sắc thái biểu cảm: Dấu chấm than (!), dấu hỏi chấm (?), văn tả cảnh, văn vần hay lối viết văn hoa, sáo rỗng.
3.2/ Ngôn ngữ trong văn bản pháp luật phải bảo đảm tính chính xác.
Ngôn ngữ chính xác giúp việc thể hiện ý chí của Nhà nước được rõ ràng, tạo cho người tiếp nhận văn bản một cách hiểu chung, thống nhất về ý đồ của người tiếp nhận văn bản một cách hiểu chung, thống nhất về ý đồ được ghi nhận trong văn bản pháp luật.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Thứ nhất, ngôn ngữ văn bản pháp lý phải đúng chuẩn về chính tả, nghĩa là viết đúng những âm, vần, tiếng, từ, chữ viết hoa, viết tắt, tên riêng tiếng Việt, tên riêng tiếng nước … theo chuẩn vương quốc. Việc mắc lỗi chính tả trong văn bản pháp lý sẽ tác động ảnh hưởng trực tiếp tới sự đúng chuẩn của pháp lý đồng thời hoàn toàn có thể giảm uy tín của Nhà nước .
Thứ hai, ngôn ngữ văn bản pháp luật phải chính xác về nghĩa của từ bao gồm cả nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp. Do nghĩa từ vựng được nêu trong từ điển, do vậy khi soạn thảo văn bản pháp luật cần có thói quen sử dụng từ điển thường xuyên, như vậy, việc biểu đạt nội dung người viết cần thể hiện mới chính xác. Thêm nữa, trong văn bản pháp luật, mỗi từ, mỗi ngữ được sử dụng phải được hiểu và chỉ được hiểu theo một nghĩa nhất định. Không được sử dụng từ đa nghĩa để tránh tình trạng có nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một quy định của pháp luật.
Thứ ba, ngôn ngữ văn bản pháp luật phải chính xác trong cách viết câu và sử dụng dấu câu. Trong cách hành văn của văn bản pháp luật nên viết những câu ngắn gọn, rõ ràng, đủ hai thành phần nòng cốt (chủ ngữ và vị ngữ) để đảm bảo tính chính xác cho ý câu diễn đạt. Câu văn ngắn gọn mới dễ hiểu và dễ thi hành. Để viết được như vậy, người viết cần có vốn từ sâu rộng, nắm vững cách thức kết hợp các từ sao cho thật chặt chẽ, logic để tạo thành câu đúng ngữ pháp và thể hiện đúng mục đích của chủ thể ban hành văn bản. Ngoài ra, dấu chấm câu phải được đặt hợp lý mới đạt được hiệu quả tối đa.
3.3/ Ngôn ngữ văn bản pháp luật phải có tính thống nhất. Trong cùng một văn bản pháp luật và trong cả hệ thống văn bản pháp luật đều phải đảm bảo sự thống nhất khi sử dụng các từ, ngữ nhằm đảm bảo tính thống nhất cho ngôn ngữ văn bản pháp luật
3.4/ Ngôn ngữ văn bản pháp luật phải có tính phổ thông. Ngôn ngữ phổ thông là ngôn ngữ được sử dụng thường xuyên trên phạm vi toàn quốc. Trong quá trình soạn thảo, việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt rất được coi trọng, được coi là một biểu hiện của tính phổ thông. Nhóm từ cổ và từ Hán – Việt tuy vẫn được sử dụng nhưng rất hạn chế và cần phải thỏa mãn những điều kiện nhất định đồng thời phải được Nhà nước xác định nghĩa một cách rõ ràng. Ngoài ra, cần hạn chế việc sử dụng các thuật ngữ pháp lý bởi nó là ngôn ngữ chuyên ngành nên không phải đều dễ hiểu đối với mọi đối tượng. Trường hợp bắt buộc phải dùng những thuật ngữ không quen với người đọc thì cần có phần giải thích (đặt trong ngoặc đơn). Thêm nữa, việc phân chia, sắp xếp các đơn vị nội dung trong văn bản cũng nhằm đảm bảo tính phổ thông: đi từ khái quát đến cụ thể, từ vấn đề quan trọng đến vấn đề ít quan trọng hơn là hướng tư duy, cách diễn đạt theo thói quen phổ biến của người Việt.
Để hoạt động soạn thảo đạt được hiệu quả cao nhất, ngôn ngữ văn bản pháp luật là vấn đề rất quan trọng. Vì thế, người soạn thảo cần đáp ứng được các yêu cầu đã nêu để có được những văn bản pháp luật đúng chuẩn mực nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật.