Bà Dương Thị Chung, phu nhân cố Luật sư Nguyễn Hữu Thọ
cùng hai người con là ông Nguyễn Hữu Châu và bà Nguyễn Thị Thủy. (Ảnh: Quốc Định).
Được huấn luyện và đào tạo trong môi trường tự nhiên giáo dục Pháp, trên đất Pháp, hành nghề luật sư dưới chính sách thuộc địa Pháp, hẳn ai cũng nghĩ Luật sư ( LS ) Nguyễn Hữu Thọ sẽ gắn bó với nước Pháp, để tiến thân. Nhưng LS Nguyễn Hữu Thọ đã đến với cách mạng, với những người cần lao một cách tự nhiên, lòng yêu nước và nghĩa đồng bào. Dấn thân và quyết tử cho quốc gia, ông không có được những điều lẽ ra mọi người thông thường đều phải có : việc làm không thay đổi, mái ấm gia đình ấm cúng và đời sống bình an.
Ông Nguyễn Hữu Châu, trưởng nam của cố LS Nguyễn Hữu Thọ, tâm sự: “Cách đây khoảng 20 năm, trước khi rơi vào tình trạng hôn mê, cha chúng tôi kịp trối lại rằng cuộc đời cha trải qua biết bao thăng trầm, nhưng dù thế nào, mẹ và ba con Trân, Châu, Thủy là những người cha yêu thương và cũng là những người yêu thương cha nhất. Điều cha ân hận là không có điều kiện chăm sóc đầy đủ cho các mẹ con”. Trong suốt cuộc đời hoạt động, LS Nguyễn Hữu Thọ đã có khoảng 36 năm không được gần gũi vợ con, theo lời kể của ông Phạm Văn Uyển- thư ký duy nhất của cố LS. Tuy nhiên, cũng theo ông Châu: “Điều an ủi lớn nhất đối với tất cả các thành viên trong gia đình là cha chúng tôi đã hy sinh, cống hiến gần cả cuộc đời để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Lịch sử, Nhà nước và nhân dân ta ghi nhớ công ơn của cố LS Nguyễn Hữu Thọ đã góp phần cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất quốc gia, đấu tranh cho nền độc lập, tự do của dân tộc bản địa, tuy nhiên ít người có thời cơ tìm hiểu và khám phá đời sống riêng và những quyết tử thầm lặng mà bản thân ông cũng như nhiều thành viên trong mái ấm gia đình ông đã trải qua. Trong đó có người bạn đời tri kỷ mà hầu hết thời hạn gần như là sống xa nhau : bà Dương Thị Chung – phu nhân của cố LS Nguyễn Hữu Thọ. Sau khi tốt nghiệp cử nhân luật tại Pháp năm 1932, LS Nguyễn Hữu Thọ về nước hành nghề, lập văn phòng luật sư riêng ở Mỹ Tho. Cũng trong thời hạn ấy, ông mở màn làm quen với một nữ sinh Trường Áo Tím ở TP HCM ( nay là Trường PTTH Nguyễn Thị Minh Khai ). Đó là cô Dương Thị Chung, sinh năm 1922, con gái của Đốc phủ sứ Dương Văn Hòa và bà Lâm Thị Phụng ở Sa Đéc. Năm 1940 hai người kết hôn và chuyển về sống và mở văn phòng luật tại Vĩnh Long, Cần Thơ. Trong khoảng chừng thời hạn đó, ông bà có được 3 người con, lần lượt là : Nguyễn Phương Trân, Nguyễn Hữu Châu và Nguyễn Thị Thủy. Theo ông Châu, đó chính là khoảng chừng thời hạn rất ít trong đời LS Nguyễn Hữu Thọ được sống yên lành, niềm hạnh phúc bên mái ấm gia đình. Không ít người nghĩ rằng niềm hạnh phúc trong hôn nhân gia đình, mái ấm gia đình, sự nghiệp đang thăng quan tiến chức của LS Nguyễn Hữu Thọ sẽ giữ chân ông cộng tác với chính quyền sở tại thực dân đang rất khuyến mại và tạo điều kiện kèm theo cho ông. Ngay sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, năm 1946 chính quyền sở tại thực dân đã chỉ định LS Nguyễn Hữu Thọ làm Chánh án Tòa Dân sự tỉnh Vĩnh Long. Tuy nhiên, với lòng yêu nước và nghĩa đồng bào tích hợp với sự nhận thức thâm thúy về lẽ công minh và dân chủ LS Nguyễn Hữu Thọ luôn đứng về phía nhân dân để bảo vệ công lý và bênh vực lẽ phải, trong đó có cả những nhà cách mạng trước TANDTC thực dân. Điều đó thực ra đã khởi đầu trong tâm lý của người sinh viên Nguyễn Hữu Thọ lúc ông còn du học ở Pháp. Sống trong thiên nhiên và môi trường khá đầy đủ, bên cạnh những “ ông tây, bà đầm ” ở nước Pháp hoa lệ trong khi Tổ quốc Việt Nam đang chìm đắm trong vòng nô lệ, ông đã từng tự nhủ : Ráng học giỏi để về nước làm gì có ích cho nước, có lợi cho dân. Từ đó, ông có niềm tin rằng nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc sẽ giành được độc lập, tự do cho quốc gia. Ngay trong Cách mạng Tháng Tám và tiếp theo là Nam Bộ kháng chiến, LS Nguyễn Hữu Thọ đã tham gia nhiều trào lưu, hoạt động giải trí yêu nước của giới tri thức. Năm 1947, ông từ chức Chánh án Vĩnh Long để lên Hồ Chí Minh mở văn phòng luật nhằm mục đích lan rộng ra mạng lưới hoạt động giải trí của ông to lớn hơn theo nhu yếu của cách mạng. Từ đó, ông tham gia nhiều trào lưu hoạt động giải trí yêu nước của giới tri thức và ngày càng lao vào nhiều hơn, sâu hơn. Nhà nghiên cứu và điều tra Trần Bạch Đằng nhắc đến một chi tiết cụ thể ấn tượng : “ Không ít trường hợp, luật sư bào chữa không lấy thù lao và cũng y hệt như vậy, không phải thân chủ đến gõ cửa luật sư mà chính luật sư sục sạo trong đống cáo trạng để chọn “ thân chủ ” mà yếu tố luôn nóng bức, luôn kề cái án tử hình bởi đó là những Hoàng Xuân Bình, Nguyễn Châu Sa ( Nguyễn Thị Bình ), Lý Hải Châu, Đỗ Duy Liên, cùng hàng trăm trường hợp tựa như mà LS Nguyễn Hữu Thọ đã đem hết trí lựcvà trái tim giành mạng sống cho họ ”.
Những hoạt động yêu nước đã dẫn ông đến chặng đường tù ngục và lưu đày dài dằng dặc, có lúc bị đưa ra tận vùng heo hút khổ cực nhất thời ấy là nhà lao Lai Châu, có lúc bị đưa về giam rồi quản thúc nhiều năm tại Phú Yên… Sống cách ly đã lâu và bị áp lực tâm lý quá nặng nên sau này vợ ông là bà Dương Thị Chung đã bị bệnh tâm thần.
Nói về tiến trình này, ông Nguyễn Hữu Châu cho biết : “ Mẹ tôi nhiều lần “ đứng tim ” bởi những hoạt động giải trí của cha tôi, mặc dầu bà luôn ủng hộ những việc làm của ông ”. Với những nguyên do nhằm mục đích bảo vệ cái gọi là bảo mật an ninh vương quốc, chính quyền sở tại TP HCM đã lần lượt bắt giữ và nhốt LS Nguyễn Hữu Thọ tại bót Catinat, Khám lớn TP HCM, Khám Chí Hòa, nhà lao Gia Định … Kể từ đó, bà Dương Thị Chung và những con liên tục đi thăm nuôi chồng và cha, động viên ông vượt qua những khó khăn vất vả của cuộc đấu tranh. Sau đó, để tách luật sư ra khỏi trào lưu đấu tranh ở Hồ Chí Minh, chính quyền sở tại thực dân đã đày ông ra tận nhà tù ở TP. Hà Nội, rồi nhà tù ở Bản Giằng, Mường Tè, Lai Châu vào năm 1950. Ông Nguyễn Hữu Châu cho biết : “ Khi cha tôi bị đày ra tận Lai Châu, sát vùng biên giới phía Bắc, dù mẹ con tôi rất muốn đi thăm cha, nhưng vô phương, không cách nào tìm đường để đi đến đó được ”. LS Nguyễn Hữu Thọ đã gửi thư phản đối chính quyền sở tại thực dân về hành vi này, trong đó ông lên án chính quyền sở tại này đã thủ đoạn “ chia rẽ trọn vẹn vợ với chồng, cha với con và vô nhân đạo ”. Nói về quá trình này, ông Nguyễn Hữu Châu kể : “ Lúc này em Thủy chưa đầy 2 tuổi. Lần tiên phong sống xa chồng, một nách 3 con, mẹ tôi sống trong buồn lo và căng thẳng mệt mỏi. Mẹ mất ngủ lê dài, thần kinh ngày càng suy nhược. Họa vô đơn chí, ngôi nhà 152 De Gaulle ( nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa ) ở TP HCM bị chủ đòi lại. May là có bà ngoại cho mẹ, con về ở chung. Tháng 11/1952, cha tôi được trả tự do, mái ấm gia đình lại được xum họp. Trong thời hạn này cha tôi dành thời hạn chữa trị bệnh cho mẹ tôi ở bệnh viện Chợ Quán. Nhưng việc nước, việc dân lại dồn dập, khẩn trương cha tôi tham gia xây dựng Phong trào bảo vệ độc lập, đòi thi hành Hệp định Genève. Ngày 15/11/1954, cha tôi lại bị bắt giam mà không được thông tin trước. Chúng tôi cũng không biết chính quyền sở tại đưa cha tôi đi giam ở đâu. Về sau mới biết chúng đưa cha tôi đi quản thúc ở TP. Hải Phòng. Sau đó, chính quyền sở tại Hồ Chí Minh liên tục đày ải cha tôi tại Phú Yên. Trong thời hạn đó, mẹ tôi rất lo ngại và stress vì không có tin tức gì của cha tôi, không biết sống chết ra làm sao, bệnh tình mẹ tôi lại càng thêm nặng. Rồi có một tin sét đánh, mái ấm gia đình tôi nhận được một điện tín khẩn báo rằng cha tôi bệnh rất nặng ở Phú Yên. Gia đình nhanh lẹ ra ngoài đó tìm cha tôi, tưởng là để chôn cất cha. May mắn nhờ một mũi tiêm thuốc kịp thời đã cứu sống cha tôi, cứu mạng được cha tôi sau một trận đánh tàn khốc của quân địch tại huyện Củng Sơn, Phú Yên ”. Trong suốt thời hạn LS Nguyễn Hữu Thọ bị giam giữ ở Phú Yên mái ấm gia đình ông ở TP HCM rất là khó khăn vất vả. Bà Dương Thị Chung lúc này bệnh tình rất nặng, không có điều kiện kèm theo chăm nom và chữa trị, phải vào nhà dưỡng lão Thị Nghè, trong lúc 3 con còn nhỏ phải vào trường nội trú. Ông Châu cho biết, tình hình mái ấm gia đình lúc này rất bế tắc, không có nhà để ở. May thay, có người quen trợ giúp cho mượn tiền để 3 chị em mướn được căn nhà trong hẻm nhỏ, đưa mẹ về chăm nom.
“Chị Trân và tôi phải vừa đi học vừa đi dạy thêm kiếm tiền nuôi mẹ và cả nhà. Nhà khoảng 40 mét vuông, chật hẹp, 4 mẹ con ngủ dưới đất, nhà bếp, nhà ăn, nhà tắm là một, đi vệ sinh công cộng. Vì quá thương vợ con bơ vơ, dù bị tù tội đày ải, cha tôi vẫn tìm cách viết thơ cho nhiều bạn bè nhờ họ giúp mẹ con tôi vượt qua hoàn cảnh éo le này… Tuy vậy, chúng tôi vẫn sống hạnh phúc với niềm tin ở người cha có trách nhiệm với gia đình, với đất nước và nhân dân”.
Sau ngày 30/4/1975, luật sư Nguyễn Hữu Thọ về Hồ Chí Minh và bà Chung vợ ông vẫn đang ở căn nhà trong hẻm nhỏ. Đây là lần xum họp mái ấm gia đình lê dài nhất của ông cho tới ngày ông qua đời ngày 24/12/1996. Tuy nhiên, đáng buồn là trong thời hạn này bệnh tình của bà Dương Thị Chung không suy giảm. Ông Nguyễn Hữu Châu ngậm ngùi nói : “ Cha tôi ra đi nhưng ông cũng yên tâm vì biết những con đã và đang chăm nom tốt cho mẹ ”. Có thể nói, bà Dương Thị Chung là một trong những vị phu nhân có thực trạng rất là đặc biệt quan trọng và éo le của những nhà cách mạng tiền bối, những người từng giữ vai trò, vị trí quan trọng trong hàng ngũ chỉ huy cách mạng Nước Ta. Suốt cuộc sống bà hầu hết chỉ có lo ngại và căng thẳng mệt mỏi cho số phận của chồng, con không có lấy một ngày bình an cho bản thân mình. Ngày 25/2/2016, những con cháu ông bà LS Nguyễn Hữu Thọ và Dương Thị Chung lại họp mặt, tưởng niệm một thời kỳ gian nan đã qua và chúc thọ bà tròn 95 tuổi. Cố Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ chắc cũng yên lòng …