Nhà Mạc – Wikipedia tiếng Việt

Nhà Mạc (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) (1527–1593) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã ép vua Lê Cung Hoàng (nhà Hậu Lê) nhường ngôi tháng 6 năm 1527 và chấm dứt khi vua Mạc Mậu Hợp lập con trai là Mạc Toàn lên ngôi, bị quân đội Lê – Trịnh do Trịnh Tùng chỉ huy đánh bại vào cuối năm 1592 – sau đó Mạc Toàn lên ngôi nhưng tại vị chỉ được 2 tháng, tổng cộng thời gian tồn tại chính thức của triều đại là gần 66 năm.

Tuy nhiên, quy trình tiến độ sau đó hậu duệ nhà Mạc như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan, Mạc Kính Vũ vẫn còn liên tục chống lại nhà Hậu Lê thời kỳ trung hưng đến tận năm 1677 [ 1 ] tại khu vực Cao Bằng .Thời kỳ 1533 – 1592 trong lịch sử dân tộc Nước Ta còn được gọi là thời kỳ Nam – Bắc triều, do chính quyền sở tại nhà Mạc chỉ thực sự có quyền lực tối cao từ địa phận Tỉnh Ninh Bình thời nay trở ra, còn từ Thanh Hóa trở vào là thế lực lấy danh nghĩa kiến thiết xây dựng lại nhà Lê từ năm 1533 .

Sau khi nhà Mạc nắm quyền, các quyền thần cũ nhà Lê không theo nhà Mạc đã có một số hoạt động chống đối như cầu viện nhà Minh hoặc nổi dậy nhưng đều không thành. Chỉ đến khi nhà Hậu Lê tái lập thì chiến tranh quy mô mới thực sự bắt đầu.

Nguyễn Kim khởi nghĩa, họ Vũ cát cứ[sửa|sửa mã nguồn]

Khi Mạc Đăng Dung giết vua Lê Cung Hoàng để cướp ngôi, nhiều quan lại đã tử tiết để phản đối nhà Mạc giết vua cướp ngôi, từ đó thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh “phù Lê diệt Mạc”. Bấy giờ triều thần có Lại bộ thượng thư Đông các đại học sĩ Vũ Duệ, Lại bộ thượng thư Ngô Hoán, thị thư viện Hàn lâm Nguyễn Mẫn Đốc, quan Đô ngự sử là Nguyễn Văn Vận, quan Hàn lâm hiệu lý là Nguyễn Thái Bạt, quan Lễ bộ thượng thư là Lê Tuấn Mậu, quan Lại bộ thượng thư là Đàm Thận Huy, quan Tham chính sứ là Nguyễn Duy Tường, quan Quan sát sứ là Nguyễn Tự Cường, tước Bình hồ bá là Nghiêm Bá Ký, quan Đô ngự sử là Lại Kim Bảng, Hộ bộ thượng thư Nguyễn Thiệu Tri, quan Phó Đô-ngự-sử là Nguyễn Hữu Nghiêm, quan Lễ-bộ tả Thị-Lang là Lê Vô Cương đều là người khoa giáp, người thì nhổ vào mặt hay là lấy nghiên mực ném vào mặt Mạc Đăng Dung, hay chửi mắng, đều bị Đăng Dung giết đi. Có người thì khởi binh phù Lê thất bại và bị giết, có người thì theo vua Lê không kịp, nhảy xuống sông mà chết, người thì quay đầu về Lam Sơn bái lạy rồi tự tử. Sau này, khi dẹp xong nhà Mạc, nhà Lê được trung hưng lại, vua Lê Huyền Tông và triều đình bàn luận công lao, truy phong tước phúc thần cho 13 vị trung thần tiết nghĩa vì nước hy sinh này, trong đó xếp ông Vũ Duệ đứng đầu trong số 13 người[2].

Năm 1529, một võ tướng cũ của nhà Lê là Nguyễn Kim trung thành với chủ với nhà Lê, không thần phục nhà Mạc, bỏ chạy vào miền núi Thanh Hoá và sang Ai Lao ( Lào ), tập hợp lực lượng chống nhà Mạc. Năm 1533, Nguyễn Kim tìm một người tên là Lê Duy Ninh là con của vua Lê Chiêu Tông đưa lên ngôi trên đất Sầm Châu ( Ai Lao ), tức là vua Lê Trang Tông. Tuy nhiên những nhà sử học hoài nghi Duy Ninh không phải là con của vua Chiêu Tông vì tuổi của Duy Ninh và Lê Chiêu Tông chênh nhau quá ít [ 3 ]Từ khi Trang Tông lên ngôi, nhiều sĩ phu, tướng lĩnh mở màn tập hợp bên Nguyễn Kim để chống nhà Mạc. Năm 1540, Mạc Thái Tông chết. Thượng hoàng Mạc Đăng Dung lập cháu nội là Mạc Phúc Hải lên ngôi, tức là Mạc Hiến Tông. Năm sau, thượng hoàng Đăng Dung chết .Năm 1543, quân nhà Lê về nước đánh chiếm Tây đô ( Thanh Hoá ). Hoạn quan nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu hàng. Năm 1545, Chấp Nhất dâng dưa độc cho Nguyễn Kim, Kim ăn vào chết. Chấp Nhất bỏ trốn về nhà Mạc. Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền chỉ huy quân đội .Ở phía tây-bắc, vùng Hưng Hoá ( Tuyên Quang ), bạn bè Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên ( Chúa Bầu ) là thủ lĩnh trong vùng cát cứ không thần phục nhà Mạc. Nhà Mạc vài lần mang quân đánh nhưng không diệt được họ Vũ, sau lại phải đối phó với nhiều biến cố khác nên buộc phải để họ Vũ cát cứ. Họ Vũ sai người liên lạc theo về nhà Lê trung hưng .

Phụ chính Mạc Kính Điển[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1546, Mạc Hiến Tông chết, con là Mạc Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông, chú là Khiêm vương Mạc Kính Điển làm phụ chính. Trong triều xảy ra biến loạn. Tướng Phạm Tử Nghi muốn lập con Mạc Thái Tổ là Hoằng vương Mạc Chính Trung đã trưởng thành nhưng không được nên cùng Chính Trung khởi binh làm mưa làm gió. Phạm Tử Nghi nhiều lần muốn đánh chiếm Đông Kinh không thành, bèn đem Chính Trung ra chiếm cứ Yên Quảng ( Quảng Ninh ), cướp phá Thành Phố Hải Dương và đánh phá sang Trung Quốc khiến nhà Minh lo lắng. Đến năm 1551 Mạc Kính Điển dẹp được Phạm Tử Nghi. Tử Nghi bị chém, Chính Trung bỏ chạy và bị giết. Có thuyết nói Tử Nghi chết về tay người Minh .Năm 1550, Thái tể Lê Bá Ly quyền thế quá lớn, có phần hống hách, hai sủng thần là Phạm Quỳnh, Phạm Dao [ 4 ] cậy thế vua Mạc vây đánh. Bá Ly cùng thông gia là Nguyễn Thiến mang gia quyến gồm những tướng Nguyễn Quyện, Nguyễn Khải Khang, Lê Khắc Thận chạy vào Thanh Hóa hàng theo nhà Lê. Tuy nhiên sau vài năm, khi Nguyễn Thiến và Lê Bá Ly chết, những con là Nguyễn Quyện, Lê Khắc Thận lại về theo nhà Mạc và Nguyễn Quyện trở thành danh tướng nhà Mạc .Năm 1562, Mạc Tuyên tông mất, con là Mạc Mậu Hợp mới 2 tuổi lên nối ngôi. Việc chính vì sự đều do Khiêm vương Kính Điển quản lý và điều hành .Bấy giờ nhà Lê chiếm lại được Thanh Hóa và Nghệ An. Năm 1558, con thứ Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm hại như anh cả Nguyễn Uông nên xin vào trấn thủ Thuận Hoá. Năm 1570, Trịnh Kiểm lại giao cho Hoàng trấn thủ nốt Quảng Nam. Năm 1572, Hoàng dùng kế giết được tướng Mạc là Mạc Lập Bạo vào đánh. Nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn trấn áp Bắc Bộ .Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, hai con Trịnh Cối, Trịnh Tùng tranh ngôi. Trịnh Cối thua phải sang đầu hàng nhà Mạc. Tuy nhiên Trịnh Tùng là người thay thế sửa chữa xứng danh của Trịnh Kiểm nên vẫn duy trì được thế cân đối với nhà Mạc .Trong suốt những năm 1545 – 1580 là quá trình hai bên giằng co, khi thì Trịnh Kiểm và sau này là Trịnh Tùng dẫn quân ra đánh Sơn Nam, Tỉnh Ninh Bình, Sơn Tây, Thăng Long, khi thì Mạc Kính Điển cho quân tiến công Thanh Hóa – Nghệ An. Mạc Kính Điển nhiều lần phải mang vua Mạc qua sông tránh sang Kim Thành ( Thành Phố Hải Dương ) nhưng quân Lê vẫn không vào được Thăng Long. Hai bên khi được khi thua. Cuộc chiến giằng co nổi lên tên tuổi những tướng Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu bên Lê, Nguyễn Quyện bên Mạc .Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển mất, em là Mạc Đôn Nhượng lên thay làm phụ chính. Lực lượng quân đội nhà Mạc suy yếu đi nhiều vì thiếu đi người chỉ huy có tầm cỡ và uy tín .

Mất Thăng Long[sửa|sửa mã nguồn]

Mạc Mậu Hợp từ nhỏ lên ngôi, khi lớn vẫn dựa vào những hoàng cha chính, không chú trọng việc chính sự. Sau khi Mạc Kính Điển chết, việc trong ngoài đều trông chờ vào Mạc Đôn Nhượng cùng những tướng Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn [ 5 ], Bùi Văn Khuê. Uy thế quân Mạc suy sút nhiều và thường bị thua trận .Năm 1591, Trịnh Tùng đem quân bắc tiến áp sát thành Thăng Long. Đầu năm 1592, Mạc Mậu Hợp chạy sang Gia Lâm, thống suất thủy quân để làm thanh thế trên sông Nhị Hà cho những tướng giữ thành Thăng Long. Trịnh Tùng thúc quân tổng tiến công. Các tướng Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên tan vỡ bỏ chạy. Phục binh của Nguyễn Quyện ở cầu Dền không kịp nổi dậy đã bị giết. Nguyễn Quyện bị bắt [ 6 ], hai con tử trận. Quân Mạc chết rất nhiều .Trịnh Tùng rút quân chủ lực về. Mạc Mậu Hợp thu tàn quân án ngữ sông Nhị Hà, lại ham vẻ đẹp của vợ tướng Bùi Văn Khuê là Nguyễn thị Niên [ 7 ] nên muốn giết Khuê. Tháng 8 năm 1592, Khuê biết chuyện bèn đem quân hàng Lê, hợp binh với Trịnh Tùng đại phá quân Mạc .Tháng 11 năm 1592, Trịnh Tùng lại tiến đánh Thăng Long. Mậu Hợp thua chạy về Kim Thành ( Thành Phố Hải Dương ). Thấy thế nguy cấp, Mậu Hợp lập con là Toàn lên ngôi, tự mình làm tướng thống suất quân đội. Sau những đại chiến đẫm máu tại khu vực những phủ Nam Sách, Hạ Hồng, Kinh Môn trong tháng 11 và 12 thì quân đội nhà Mạc chịu tổn thất cực kỳ nặng nề. Mạc Mậu Hợp phải bỏ trốn đến huyện Phượng Nhãn, bị bắt sống sau đó ít ngày và bị hành hình .
Dù Mạc Mậu Hợp và sau đó là Mạc Toàn bị bắt và bị giết thì thế lực của nhà Mạc chưa bị hủy hoại hết. Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, cho đến đầu thế kỷ 17 thì những vùng như Thái Nguyên, TP Lạng Sơn, Cao Bằng vẫn thuộc quyền quản trị của nhiều người như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan là quen thuộc của nhà Mạc ( thuộc chi Mạc Kính Điển ). Tại những khu vực này chiến trận vẫn tiếp nối trong nhiều năm và nhân dân vẫn liên tục chịu cảnh lầm than, đồng ruộng bị bỏ phí .Nhà Minh, vì muốn duy trì thế Nam Bắc triều ở Nước Ta có lợi cho họ nên can thiệp để họ Mạc được cát cứ ở Cao Bằng. Khi nhà Minh mất ( 1644 ), những vua Nam Minh – tàn dư nhà Minh – vẫn ủng hộ họ Mạc. Họ Mạc nối nhau trấn giữ ở đây trong nhiều năm, đến con Kính Khoan là Kính Vũ. Mãi đến khi nhà Minh mất hẳn ( 1662 ) về tay nhà Thanh, họ Trịnh mới ra tay dẹp họ Mạc. Tới năm 1677, việc trấn giữ Cao Bằng của họ Mạc mới chấm hết .Những người họ Mạc bị đổi sang họ khác. Về sau, nhân khi chính sự Đàng Ngoài dưới thời Trịnh Giang rối ren, năm 1739, hậu duệ của họ Mạc là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển lại nổi dậy khởi nghĩa chống Trịnh trong vài năm [ 8 ] .

Thành nhà Mạc[sửa|sửa mã nguồn]

  • Thành Nhà Mạc Lạng Sơn hiện nằm trong khu vực phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, dấu tích còn lại gồm 2 đoạn tường xây bằng đá giữa hẻm núi. Hiện nay di tích thành Nhà Mạc ở Lạng Sơn đã được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia và được đầu tư, tôn tạo đưa vào phục vụ du khách du lịch tham quan.[9]
  • Thành nhà Mạc nằm ở trung tâm thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang hiện nay. Theo sử sách ghi lại thành được xây vào năm 1592 đời nhà Mạc, và được sửa chữa vào thời đầu nhà Nguyễn (thế kỷ 19). Thành được xây theo kiểu hình vuông, mỗi cạnh dài 275m, cao 3,5m và dày 0,8m; mỗi mặt thành có một cửa hình bán nguyệt với kiến trúc theo lối phòng thủ quân sự.. Thành đã được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia và đang có nguy cơ xóa sổ.
  • Thành nhà Mạc ở tỉnh Cao Bằng là thành Nà Lự: khi nhà Mạc chạy lên Cao Bằng (1594-1677), trong 83 năm, ba đời vua Mạc đóng đô ở Cao Bình đã cho tu sửa, xây thành cao lên, có cổng thành kiên cố để phòng thủ, đề phòng triều đình vua Lê – chúa Trịnh lên thôn tính. Nhưng có khả năng thành này xây từ nhà Đường 618-802.[10]
  • Thành nhà Mạc ở tỉnh Ninh Bình là thành Bình Sơn, thuộc xã Mai Sơn, Yên Mô, Ninh Bình. Thành hiện còn đoạn dài khoảng 1 km, gần Quốc lộ 1. Gần thành nhà Mạc là tuyến sông Nhà Mạc và nhiều di tích thời Mạc ở Ninh Bình.
  • Ở xã Cao Xá, Lâm Thao, Phú Thọ nhân dân vẫn truyền tục câu nói: “Hăm mốt tháng chạp, gió đổ thành Mạc. Hăm hai tháng chạp, gió đổ thành Dung” để nói về thành Nhà Mạc xây dựng dở chừng thì bị mưa bão làm sụp đổ không thể xây dựng thành Thành được. Hiện nay, thường thường hàng năm vào những ngày “hăm mốt, hăm hai tháng chạp” ở Cao Xá vẫn thường có mưa bão. “Đầu Thành” là từ địa phương ở Cao Xá vẫn dùng để nói về địa điểm đoạn đầu thành Nhà Mạc xây ở thôn Dục Mỹ. Hiện nay các dấu tích của Thành Nhà Mạc ở Cao Xá hầu như không còn vì một thời kỳ nhân dân ở đây khai thác đất làm đường sá, xây dựng nhà ở.

Rút kinh nghiệm từ thất bại của nhà Hồ do việc cướp ngôi nhà Trần, ngay sau khi giành ngôi nhà Lê, Mạc Thái Tổ đã chủ động tìm giải pháp thương lượng với nhà Minh. Tháng 2 năm 1528, ông sai sứ sang nhà Minh “xin được tạm coi việc nước vì con cháu họ Lê không còn ai thừa tự”. Nhà Minh tạm thời chưa có phản ứng nào đáng kể vì nội bộ cũng chưa hoàn toàn nhất trí về cách phản ứng với tình hình Đại Việt[11].

Ngoài việc đi sứ, Mạc Thái Tổ còn sai người đút lót, tranh thủ sự ưng ý của những quan vùng biên giới của nhà Minh. Năm 1529, bạn bè Trịnh Ngung, Trịnh Ngang sang tố cáo nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê và cầu viện nhà Minh nhưng bị sự ngăn cản của những quan trấn thủ vùng biên của nhà Minh, do đó dự tính của hai đồng đội họ Trịnh không triển khai được [ 12 ] .Sau khi lập lập Lê Trang Tông lên ngôi, Nguyễn Kim sai Trịnh Duy Liêu vượt biển sang Trung Quốc xin cầu viện nhà Minh đánh nhà Mạc. Chúa Bầu Vũ Văn Uyên ở Tuyên Quang cũng sai người sang tố cáo việc nhà Mạc cướp ngôi. Năm 1537, Minh Thế Tông giao quân cho Mao Bá Ôn chuẩn bị sẵn sàng tiến xuống phía nam. Nhà Mạc ở vào tình thế ” lưỡng đầu thọ địch ” .Các nhà sử học nhìn nhận rằng : trên thực tiễn, Minh Thế Tông không trọn vẹn có dự tính dụng binh đánh Đại Việt vì ở Trung Quốc khi đó cũng gặp những khó khăn vất vả [ 13 ] : 1 số ít khởi nghĩa nông dân nổ ra ở Hoa Bắc, ” nuỵ khấu ” người Nhật gây rối dọc vùng ven biển Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, được sự thông đồng của những phú thương người Hoa vừa kinh doanh vừa cướp bóc ; người Bồ Đào Nha mở màn nhòm ngó Áo Môn .Chính vì thế, vua Minh theo chủ trương phô trương thanh thế bên ngoài, kích động cuộc nội chiến giữa nhà Hậu Lê và nhà Mạc và ép nhà Mạc thu phục. Ý định chống cự quân Minh của nhà Mạc sớm tiêu tan vì không hề chớp lấy được những khó khăn vất vả mà nhà Minh đang phải đương đầu [ 14 ]. Tháng 2 năm 1539, nhà Mạc dâng biểu sang nhà Minh xin hàng .Nhà Minh sai Mao Bá Ôn và Cừu Loan tiến áp sát biên giới, lấy danh nghĩa chỉ nhằm mục đích trừng phạt cha con Mạc Đăng Dung nhằm mục đích phân hoá người Đại Việt. Để tránh ngã xuống, Mạc Đăng Dung gật đầu đầu hàng .Ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1540, Mạc Đăng Dung cùng những bầy tôi Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Trị lên cửa ải. Ông tự trói mình đến dâng biểu xin hàng quân Minh. Trong biểu xin hàng, Mạc Đăng Dung nhấn mạnh vấn đề 3 yếu tố [ 15 ] :

  1. Thoái thác việc họ Mạc sang Yên Kinh (Bắc Kinh)
  2. Giao nộp đất, gồm 2 đô Như Tích, Chiêm Lãng và 4 động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát
  3. Xin ấn tín để được thừa nhận sự cai trị ở An Nam.

Mao Bá Ôn và Cừu Loan nhận biểu của Mạc Đăng Dung bèn lui binh, tâu lên Minh Thế Tông. Vua Minh hạ lệnh :

  1. Lệnh cho Phiên ty Quảng Tây hằng năm cấp lịch Đại Thống cho nhà Mạc, quy định lệ 3 năm cống 1 lần
  2. Nhận và nhập 2 đô Như Tích, Chiêm Lãng và 4 động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát vào Khâm châu của Trung Quốc
  3. Hạ An Nam quốc xuống An Nam Đô thống sứ ty, đúc ấn và ban cho nhà Mạc.

Tuy nhiên sau này ấn của nhà Minh mang sang thì Mạc Thái Tổ đã qua đời, Mạc Hiến Tông đảm nhiệm .

Tuy đạt được mục tiêu bảo vệ toàn vẹn quốc gia, nhưng về mặt ngoại giao, vị thế của nhà Mạc so với các triều trước không bằng: danh hiệu Đô thống sứ ty là vị thế nội thần chứ không phải ngoại thần.

Sang thời Mạc Mậu Hợp, thái bảo Giáp Trưng từng dâng sớ xin triều đình bàn lại vì “việc đó là nhục nước”. Tuy nhiên sau khi bàn luận, Mạc Mậu Hợp do dự không quyết định.

Năm 1542 khởi đầu ghi lại mốc bình thường hoá trong quan hệ Mạc-Minh. Đồ tiến cống từ giữa thời Mạc đổi ra lư hương, bình hoa bằng vàng bạc, nặng bằng người vàng [ 16 ] .Năm 1548, đoàn sứ do Lê Quang Bí đứng vị trí số 1 sang cầu phong cho vua mới là Mạc Tuyên Tông bị hoài nghi trá hình đã bị giữ lại. Lê Quang Bí bị giữ tới 19 năm tại Trung Quốc, năm 1566 mới được quay trở lại. Khi đó Tuyên Tông đã mất, vua mới là Mạc Mậu Hợp khen ngợi và phong làm Tô quận công, ví như Tô Vũ nhà Hán đi sứ Hung Nô .Thời Mạc Mậu Hợp, nhà Mạc đã suy yếu, thường thất thế trước quân Nam triều nhà Lê. Nhà Mạc dùng chủ trương tăng cường ngoại giao, cống nạp cho nhà Minh để tranh thủ sự ủng hộ khi bị thất thế, duy trì lệ tiến cống 6 năm 1 lần [ 17 ] .

Năm 1592, họ Mạc rút chạy lên Cao Bằng. Nhà Hậu Lê xin cầu phong của nhà Minh. Sau lần hội khám năm 1597, nhà Minh vẫn chỉ phong cho Lê Thế Tông làm An Nam đô thống sứ ty như phong cho nhà Mạc trước đây. Đồng thời, nhà Minh dùng uy thế “thiên triều” ép họ Trịnh cắt đất Cao Bằng cho họ Mạc cát cứ trong nhiều năm, tới năm 1677 mới chấm dứt.

Tổ chức quân đội[sửa|sửa mã nguồn]

Nhà Mạc rất chú trọng kiến thiết xây dựng lực lượng quân đội đủ mạnh để bảo vệ chính quyền sở tại. Trong cả nước, quân đội nhà Mạc được chia ra 4 vệ :

  • Binh lính Hải Dương thuộc vệ Hưng Quốc
  • Binh lính Kinh Bắc thuộc vệ Kim Ngô
  • Binh lính Sơn Tây thuộc vệ Cẩm Y
  • Binh lính Sơn Nam thuộc vệ Chiêu Vũ

Toàn bộ quân đội nhà Mạc lúc phần đông nhất có 12 vạn quân [ 18 ] .Để khuyến khích niềm tin chiến đấu của quân sĩ trong thời chiến, nhà Mạc có những khuyến mại cho lực lượng quân đội. Chính sách này đã giúp nhà Mạc tạo nên một đội ngũ quân sĩ khá phần đông và trung thành với chủ để bảo vệ quyền hạn triều đình [ 19 ] .
Mạc Thái Tổ đã đưa ra một số ít quy định về ruộng đất gồm có : binh điền, lộc điền, quân điền, dựa trên những quy định đã có từ thời Hồng Đức ( Lê Thánh Tông ) hay việc cho đúc tiền Thông Bảo .

Thời kỳ Mạc Thái Tông trị vì có thể coi là thời kỳ đỉnh cao của nhà Mạc. Lúc đó nhà Lê chưa trung hưng, toàn cõi do nhà Mạc cai quản, cảnh thịnh trị được các sử gia nhà Lê – triều đại đối địch với nhà Mạc – soạn Đại Việt sử ký toàn thư, phải ghi nhận: “đêm ngủ không đóng cửa, ngoài đường không ai nhặt của rơi”[20].

Nhưng từ khi Nguyễn Kim nổi dậy, chiến tranh nổ ra, đất nước bị tàn phá, kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chiến tranh liên miên đã làm cho đời sống của người dân trở nên đói nghèo hơn. Ví dụ năm 1572, sau khi nhiều phen bị nạn binh đao thì tại Nghệ An lại phát dịch. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục có viết rằng: Các huyện, đồng ruộng bỏ hoang nhân dân đói khổ. Dịch lệ lại phát sinh, người chết đến quá nửa. Nhân dân xiêu giạt, hoặc tan tác vào Nam, ra Bắc. Trong cõi Nghệ An đìu hiu vắng tanh.

Nhìn toàn diện và tổng thể, nhà Mạc có tư duy kinh tế tài chính cởi mở, sớm nhìn thấy xu thế văn minh của thủ công nghiệp, thương mại và kinh tế tài chính sản phẩm & hàng hóa ; điều đó khác hẳn với chủ trương bảo thủ của nhà Lê. Nhà Mạc quản lý trong 65 năm đã đưa vùng đông bắc giàu mạnh lên, về ngoại thương đã vươn tới thị trường những nước châu Á. Tuy nhiên, kinh tế tài chính vẫn đa phần dựa vào nông nghiệp theo phương pháp tiểu nông, tàn dư của phương pháp sản xuất Á Đông cùng chính sách gia trưởng với nền kinh tế tài chính manh mún, khiến mầm mống tư bản chủ nghĩa chớm phát sinh đã không tăng trưởng được [ 21 ] .

Văn học nghệ thuật và thẩm mỹ[sửa|sửa mã nguồn]

Văn học nhà Mạc chia làm 3 thể loại chính :
Nghệ thuật thời Mạc hầu hết là trong nghành kiến trúc và trang trí, biểu lộ ở những khu công trình thiết kế xây dựng trong cung đình, chùa chiền và tại những làng xã .Công trình cung đình quan trọng thời Mạc đa phần ở Dương Kinh ( [ di tích lịch sử hiện tại ở Cổ Trai, huyện Kiến Thụy, thành phố TP. Hải Phòng ) – quê nhà nhà Mạc như điện Phúc Huy, điện Hưng Quốc, điện Sùng Đức. Công trình xây và trùng tu chùa thời Mạc tại những địa phương gồm có : Hải Phòng Đất Cảng 27 chùa ; Thành Phố Hải Dương và Hưng Yên 36 chùa ; Hà Tây cũ 28 chùa .Từ thời Mạc, đình làng được dùng làm nơi hoạt động và sinh hoạt hội đồng làng xã. Hai ngôi đình nổi tiếng nhất thời kỳ này là đình Đông Lỗ và đình Tây Đằng. Nghệ thuật kiến trúc và trang trí thời Mạc được nhìn nhận là đã tạo một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc nghệ thuật và thẩm mỹ Nước Ta [ 22 ] .

Tôn giáo tín ngưỡng[sửa|sửa mã nguồn]

Nhà Mạc vẫn theo pháp độ cũ của nhà Lê từ hệ tư tưởng đến mô hình thiết chế nhà nước, lấy Tống nho làm tư tưởng cai trị chính[23], tuy nhiên không hạn chế các tôn giáo khác như đạo Phật, đạo Giáo như nhà Lê Sơ. Các quan lại và người trong hoàng tộc nhà Mạc đã cúng tiến nhiều đất cho nhà chùa và xây cất, tu bổ nhiều chùa.

Việc truyền đạo Thiên chúa vào Đại Việt khởi đầu được triển khai từ năm 1533 thời Mạc Hiến Tông nhưng chưa thu được hiệu quả. Năm 1581 thời Mạc Mậu Hợp, những nhà truyền giáo lại đến, nhưng vì ngôn từ sự không tương đồng nên ở đầu cuối giáo đoàn phải trở về Ma Cao [ 24 ] .

Thi cử và chủ trương dùng người[sửa|sửa mã nguồn]

Nhà Mạc rất chú trọng tới nhân tài từ tuyển chọn qua đường thi cử. Tuy chiến tranh, nhưng nhà Mạc cũng chú ý đào tạo và xây dựng hệ thống quan lại thông qua 22 kỳ khoa cử với chu kỳ ba năm một lần, bắt đầu từ năm 1529 và chấm dứt năm 1592. Chẳng hạn năm 1535, nhà Mạc mở khoa thi Hội, lấy Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bùi Khắc Đốc, Nguyễn Thừa Hưu đỗ tiến sĩ cập đệ; Nguyễn Di Lượng cùng 6 người khác đỗ tiến sĩ xuất thân; Nguyễn Trùng Quang cùng 21 người khác đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.

Một ghi nhận nữa là tận năm 1592, khi chiến sự bên bờ nam sông Hồng diễn ra ác liệt trước cuộc tổng tấn công của quân Lê Trịnh, vua Mạc Mậu Hợp vẫn tổ chức triển khai thi ở Bồ Đề bên kia sông theo đúng định kỳ để lấy được 18 tiến sỹ. Trong 65 năm sống sót ở Thăng Long, nhà Mạc mở 21 kỳ thi Hội, lấy đỗ 485 Tiến sĩ và 13/46 trạng nguyên [ 25 ] trong 800 năm thi tuyển Nho học thời phong kiến Nước Ta .Khi rút lên Cao Bằng, họ Mạc vẫn tổ chức triển khai thi tuyển để lấy người hiền tài. Có một kỳ thi người đỗ đầu là một phụ nữ tên là Nguyễn Thị Duệ [ 26 ] tức Nguyễn thị Du

Cách trân trọng nhân tài của nhà Mạc được tác giả Nguyễn Bá Trác thế kỷ 19, tác giả Hoàng Việt Giáp tý niên biểu nhắc tới mấy chữ dư âm: “Mạc thị sùng Nho” – Họ Mạc sùng đạo Nho.

Người cựu triều[sửa|sửa mã nguồn]

Trong sách ” Nhà Mạc và yếu tố nguỵ triều trong sử sách ” [ 27 ], những nhà nghiên cứu ghi nhận nhà Mạc đã mạnh dạn sử dụng quan lại cũ của nhà Lê, nổi bật là 4 trạng nguyên đỗ thời Lê sơ : Nguyễn Giản Thanh, Hoàng Văn Tán, Ngô Miễn Thiệu, Trần Tất Văn .Ngoài ra, trong quy trình ” bình định thiên hạ “, Mạc Thái Tổ đã ” thu phục ” nhiều tướng lĩnh giỏi của nhà Lê như Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Vũ Hộ, Phạm Gia Mô … những người đắc lực giúp ông mở ra nhà Mạc .

Cởi bỏ thù hằn[sửa|sửa mã nguồn]

Không chỉ dám dùng người cựu triều thù địch, nhà Mạc còn dám trọng dụng cả những người từng theo địch trở lại. Điều này được những nhà chuyên môn nhìn nhận rất cao .Vụ ly khai của hai nhà thông gia Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến năm 1550 kéo theo một loạt con trẻ của hai họ này, cũng đều là đại thần nhà Mạc như Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn, Nguyễn Khải Khang, Lê Khắc Thận. Nhưng tới năm 1558, khi hai cha già họ Lê và họ Nguyễn qua đời, Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn quay trở lại theo Mạc và được trọng dụng không chút hoài nghi. Miễn được gả công chúa làm phò mã, Quyện trở thành cha vợ vua ( Mậu Hợp ) rồi sau đó liên tục lập công đánh bại quân Lê Trịnh, thành danh tướng Bắc triều. Kết quả đó lôi kéo Lê Khắc Thận, dù đã làm tới thái phó của Lê Trịnh vẫn vượt luỹ về Mạc năm 1572 .

Thật hiếm triều đại nào có chính sách dùng người cởi mở, bao dung trong thời kỳ loạn lạc như nhà Mạc, nếu so sánh những sự kiện trên với các triều đại khác. Sự bao dung của nhà Lý, nhà Trần với vài thủ lĩnh nổi dậy chỉ là cách đối phó để giữ miền biên xa xôi, không dùng với tướng sĩ “người miền xuôi” đã phản.[cần dẫn nguồn] Hậu Trần Giản Định Đế nghi ngờ Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân từng phục vụ nhà Hồ và hàng quân Minh nên giết 2 tướng giỏi; Lê Thái Tổ giết hết các người Việt từng theo phục vụ quân Minh[28]; Lê Thánh Tông giết đại thần Lê Lăng vì từng ủng hộ Lê Khắc Xương lên ngôi… Có lẽ nhà Mạc đã học được tấm gương của Tề Hoàn Công thời Xuân Thu dám dùng Quản Trọng, dù từng có cái thù bắn tên vào đai áo[29].[cần dẫn nguồn]

Chính sách dùng người của nhà Mạc còn được đời sau ca ngợi. Sách Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ cuối thời Lê trung hưng ghi: “cái đức chính của thời Minh Đức (niên hiệu của Mạc Thái Tổ) và Đại Chính (niên hiệu của Mạc Thái Tông) nhà Mạc vẫn còn cố kết ở lòng người chưa quên. Vậy nên thời vận đã về nhà Lê mà lòng người hướng theo nhà Mạc vẫn chưa hết…”[30].

Nhà Hậu Lê suy thoái và khủng hoảng, triều chính rối ren đánh giết lẫn nhau, những vua quỷ Uy Mục đế, vua lợn Tương Dực đế và Chiêu Tông đều không đủ năng lượng cầm quyền, những quyền thần họ Trịnh, họ Nguyễn đều chứa chấp mưu đồ riêng, nông dân nổi dậy khởi nghĩa. Mạc Đăng Dung đã Open trong toàn cảnh đó và chỉ trong chưa đầy 10 năm ông đã dẹp yên tình hình nước Đại Việt. Việc nhà Mạc sửa chữa thay thế một nhà Hậu Lê không còn đủ năng lượng và bị thiên hạ chán ghét là tất yếu của lịch sử vẻ vang. Nếu dòng họ Mạc không nổi dậy thì những dòng họ thế tộc khác cũng làm điều tương tự như trong toàn cảnh lúc đó [ 31 ]. Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng sự thay thế sửa chữa nhà Lê của Mạc Đăng Dung là ” hợp với đời và đạo ” [ 32 ] .

Thời kỳ thịnh trị của Mạc Thái Tông cho thấy năng lực trị nước của nhà Mạc không kém nhà Lê. Đời sống nhân dân no đủ, xã hội ổn định, không gây những xáo trộn như khi nhà Hồ thay nhà Trần. Những lực lượng chống đối nhà Mạc chính là những thế lực cũ thân nhà Lê. Theo sử sách, thời Mạc không có một cuộc khởi nghĩa nông dân nào. Điều đó cho thấy nhà Mạc được lòng dân. Sách Đại Việt Thông sử của Lê Quý Đôn phải thừa nhận Thái Tổ Mạc Đăng Dung “được lòng người hướng về”. Sau khi Hiến Tông qua đời, các vua Mạc lên thay đều là ấu chúa, biến loạn trong ngoài rất nhiều nhưng nhà Mạc vẫn đứng vững. Ngoài năng lực của người phụ chính, hẳn phải có nền tảng là sự ủng hộ của nhân dân Bắc Bộ lúc đó. Việc họ Mạc tiếp tục cát cứ tại Cao Bằng, ngoài sự can thiệp của nhà Minh, nếu không được lòng người thì không thể tồn tại tới 80 năm[33].

Đặc biệt, nhà Mạc rất coi trọng việc phát hiện nhân tài, do đó dù cuộc chiến tranh liên miên nhưng những kỳ thi vẫn tổ chức triển khai khá đều đặn. Ngay cả khi cát cứ trên Cao Bằng, việc thi tuyển vẫn còn duy trì .

Một đặc điểm nữa là cả năm đời vua nhà Mạc không có nạn quyền thần trong thời gian cai trị, dù nhà Mạc khởi nghiệp từ một quyền thần trong triều Lê. Đó là điều mà các triều đại Ngô, Đinh, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam đều gặp phải. Do đó thời Mạc không có việc phế lập, khuynh loát trong cung đình. Duy nhất vụ “bất đồng chính kiến” trong việc lập người thừa kế (Mạc Phúc Nguyên và Chính Trung) năm 1546 – 1551 đã bị đánh dẹp.

Về ngoại giao[sửa|sửa mã nguồn]

Về ngoại giao, một số ít nhà sử học lên án hành vi tự trói mình, tạ tội, đầu hàng nhà Minh của Mạc Đăng Dung ở biên giới năm 1540, vì điều đó làm mất thể diện của nước Đại Việt. Nhưng cũng có người cho rằng trong toàn cảnh lúc đó, việc này là bắt buộc không còn lựa chọn khác. Ở Thanh Hoá, nhà Lê đánh ra, tại Tuyên Quang, chúa Bầu họ Vũ chưa dẹp được. Phía bắc, nhà Minh uy hiếp. Kẻ thù nguy khốn nhất chính là người phương Bắc. Có lẽ Mạc Đăng Dung không muốn lặp lại thảm kịch của nhà Hồ sau khi thay ngôi nhà Trần nên buộc phải hành vi như vậy, vì nếu cạnh tranh đối đầu, nhà Mạc chắc như đinh sẽ thất bại. Các nhà nghiên cứu ủng hộ quan điểm này còn cho rằng, chính vì hổ thẹn và suy sụp sau hành vi này mà Mạc Đăng Dung, vốn đã cao tuổi, nên ốm và mất không lâu sau đó. Sự nhẫn nhục của Mạc Đăng Dung không những trực tiếp cứu nhà Mạc mà còn gián tiếp cứu nhà Lê trung hưng, bởi nếu nhà Mạc bị nhà Minh diệt như nhà Hồ thì nhà Lê cũng sẽ bị nhà Minh diệt như nhà Hậu Trần [ 34 ] .Sau khi thất thế, nhà Mạc liên tục dựa vào ảnh hưởng tác động của nhà Minh để sống sót ở Cao Bằng, nhưng tuyệt nhiên không mượn quân nhà Minh. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, đại thần Mạc Ngọc Liễn ( vốn là người khác họ được cải họ vua ) trước khi mất tại Trung Quốc đã dặn lại vua tôi họ Mạc rằng :

“Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng… Dân ta là dân vô tội mà để phải mắc nạn binh đao, sao lại nỡ thế!… Nếu thấy quân họ đến thì ta nên tránh, chớ có đánh nhau, nên cẩn thận mà giữ là hơn. Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”. (Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 17)

Các đời sau họ Mạc đã làm đúng như Mạc Ngọc Liễn dặn lại. Thua trận, phải rời khỏi ngôi quản lý nhưng không cố giành giật lại bằng mọi giá, điều đó nhà Mạc hơn nhà Hậu Lê, nhà Nguyễn sau này .
Nhà Mạc ở đầu cuối bị mất ngôi khi nhà Lê hồi phục nhờ sức quyền thần nên những sử gia của triều đại thắng trận ra sức hạ thấp nhà Mạc trong sử sách. Do sự chi phối quan điểm của nhà Lê và nhà nguyễn, Nhà Mạc bị gọi là ” ngụy triều “. Tuy nhiên, nếu địa thế căn cứ vào những gì nhà Mạc đã làm, đây thực sự là một vương triều tuy thời hạn sống sót ngắn, nhưng có vai trò tích cực nhất định trong lịch sử vẻ vang Nước Ta. Nhà Lê dù thắng trận nhưng về thực ra thì không còn, cơ nghiệp nhà Lê trung hưng thực ra là cơ nghiệp họ Trịnh .

Giáo sư sử học Văn Tạo trong bài viết “Nhà Mạc và vấn đề ngụy triều” đã vạch rõ: Họ Trịnh và họ Nguyễn lấy tiếng là giúp nhà Lê nhưng thực ra là lo làm lợi cho mình. Họ Trịnh phù Lê nhưng lại phế truất và giết các vua Lê. Họ Nguyễn phù Lê nhưng chỉ lo phát triển cơ đồ riêng và cái cớ chống họ Trịnh. Giáo sư Tạo nhấn mạnh: “Mạc là ngụy công khai, Trịnh Nguyễn là ngụy giấu mặt”[35].

Cách nói ” nguỵ ” cũng chỉ là theo quan điểm của những sử gia thời phong kiến. Các nhà sử học ngày này đã biến hóa quan điểm này và nhà Mạc đã được nhìn nhận như một triều đại bình đẳng với những triều đại ” chính thống ” khác .

Nguyên nhân thất bại[sửa|sửa mã nguồn]

Lực lượng chống đối nhà Mạc, đơn cử là lực lượng nhân danh nhà Lê, những người ủng hộ nhà Lê còn mạnh. Vấn đề chính thống chỉ có một vai trò nhất định, vì Nam triều hay Bắc triều đều có lý lẽ của mình. Bắc triều dù là người đi cướp ngôi, nhưng từ Lê Uy Mục, nhân dân đã chán ghét nhà Lê. Nam triều dù đã mất uy tín nhưng với một bộ phận nhân dân, nhất là vùng ” cơ bản ” quê nhà nhà Lê ( Thanh Hoá ) trở vào còn nhớ công lao đánh quân Minh của nhà Lê. Do đó, khi yếu tố chính trị không đóng vai trò quyết định hành động thì yếu tố nhân sự sẽ quyết định hành động .Theo giáo sư Văn Tạo, về chính trị và kinh tế tài chính, tuy nhà Mạc đã khiến quốc gia giàu mạnh lên trong thời kỳ đầu, nhưng địa phận hoạt động giải trí của nhà Mạc bị bó hẹp, kẹp giữa một bên là nước lớn Trung Quốc, một bên là Nam triều trỗi dậy cùng tư tưởng ” hoài Lê “, không có điều kiện kèm theo lan rộng ra như những chúa Nguyễn ở phía Nam sau này [ 36 ] .Bản thân những tập đoàn lớn chống Mạc đã có những chủ trương tương thích và lực lượng nhân sự đủ năng lực để đối phó với nhà Mạc nên trong một thời hạn dài Nam triều đứng vững trước những cuộc tiến công của nhà Mạc. Thời hậu kỳ ( sau khi Mạc Kính Điển chết ), nhà Mạc không còn lực lượng nhân sự đủ mạnh, nhất là vua Mạc Mậu Hợp không đủ năng lượng và phạm phải sai lầm đáng tiếc nên đã thất bại về quân sự chiến lược. Trong cuộc chiến trường kỳ đó, khi đã thất bại về quân sự chiến lược thì chính trị của nhà Mạc cũng trở nên yếu thế trước khẩu hiệu ” phù Lê ” và nhà Mạc thành kẻ bại trận ở đầu cuối [ 37 ] .

Danh sách những vua nhà Mạc[sửa|sửa mã nguồn]

Giai đoạn Nam Bắc Triều ( 1527 – 1593 )[sửa|sửa mã nguồn]

Giai đoạn Hậu kỳ nhà Mạc ( 1593 – 1683 )[sửa|sửa mã nguồn]

Lưu ý :

  • Mạc Toàn thực sự không còn quyền lực gì.
  • Giữa thời Mạc Hiến Tông và Mạc Tuyên Tông còn có Mạc Chính Trung tự xưng là vua nhà Mạc trong thời gian ngắn nhưng không được nhà Mạc công nhận.
  • Gia đoạn hậu kỳ nhà Mạc sau khi Bắc triều sụp đổ gồm có Mạc Kính Chỉ (niên hiệu Bảo Định (1592) và Khang Hựu [40] (1592-1593)), Mạc Kính Cung (niên hiệu Càn Thống (1593-1625)), Mạc Kính Khoan (niên hiệu Long Thái (1623-1638)) và Mạc Kính Vũ (Mạc Kính Hoàn, niên hiệu Thuận Đức (1638-1677)).

Thế phả vua Mạc[sửa|sửa mã nguồn]

1
Mạc Thái Tổ

(Mạc Đăng Dung)
1526 – 1529

2
Mạc Thái Tông

(Mạc Đăng Doanh)
1530 – 1540

3
Mạc Hiến Tông

(Mạc Phúc Hải)
1541 – 1546

Khiêm Vương
( Mạc Kính Điển )
4
Mạc Tuyên Tông

(Mạc Phúc Nguyên)
1547 – 1561

7

Mạc Mẫn Tông

( Mạc Kính Chỉ )1592 – 1593

Đạt Lễ Công
Mạc Kính Tuân
8

Mạc Đại Tông

( Mạc Kính Cung )1593 – 1625

5

Mạc Mục Tông
(Mạc Mậu Hợp)
1562 – 1592

9

Mạc Quang Tổ

( Mạc Kính Khoan )1625 – 1638

6

Mạc Cảnh Tông
(Mạc Toàn)
1592 – 1592

10

Mạc Minh Tông

( Mạc Kính Vũ )1638 – 1677

11

Mạc Quý Tông

( Mạc Kính Hẻ )1677 – 1681

12

Mạc Đức Tông

(Mạc Kính Quang)

1681 – 1683

Các quan lại, tướng lĩnh[sửa|sửa mã nguồn]

  • Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
  • Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 4, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
  • Nhiều tác giả (1995), Nhà Mạc và vấn đề nguỵ triều trong sử sách, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin
  • Văn Tạo (2006), Mười cuộc cải cách, đổi mới lớn trong lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học sư phạm
  • Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục
  • Đại Việt Sử ký Toàn thư
  • Nguyễn Huy Thức, Lê Văn Bảy (2006), Lê triều dã sử, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin
  • Viện Sử học (1996), Vương triều Mạc, Nhà xuất bản Khoa học xã hội

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://vvc.vn
Category : Từ Thiện

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay