Hoàn cảnh sáng tác Chiếc thuyền ngoài xa – Văn mẫu 12 hay nhất – Wikichiase

Câu hỏi : Hoàn cảnh sáng tác Chiếc thuyền ngoài xa
Lời giải :
“ Chiếc thuyền ngoài xa ” của Nguyễn Minh Châu được sáng tác vào tháng 8/1983, lúc đầu được in trong tập “ Bến quê ”, sau đó có vinh dự được nhà văn dùng để đặt tên cho cả tập truyện ngắn, xuất bản năm 1987. Năm 1983, đó là một thời gian khá đặc biệt quan trọng khi cuộc cuộc chiến tranh chống Mĩ và tay sai đã kết thúc thắng lợi, tất cả chúng ta trở về muôn mặt của đời thường. Và cũng trong thời gian này, cả dân tộc bản địa đang bước vào quy trình tiến độ thay đổi, vì vậy đời sống có nhiều điều giật mình mê hoặc, có sức hút so với văn nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn Minh Châu .

         “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn xuất sắc thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Trong giai đoạn này, qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn đã bộc lộ sự chuyển biến quan trọng trong sáng tác: từ phong cách mang đậm tính chiến đấu, chuyển sang cảm hứng thế sự, cảm hứng nhân sinh, ngòi bút của nhà văn hướng vào thể hiện con người trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và bình yên. “Chiếc thuyền ngoài xa” thực sự là một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Đồng thời giúp nhà văn gửi gắm được những thông điệp nghệ thuật quan trọng.

Bạn đang đọc: Hoàn cảnh sáng tác Chiếc thuyền ngoài xa – Văn mẫu 12 hay nhất – Wikichiase

Hoàn cảnh sáng tác Chiếc thuyền ngoài xa

Các em cùng Toploigiai tìm hiểu thêm về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

1. Tác giả Nguyễn Minh Châu

a. Cuộc đời

Nhà văn Nguyễn Minh Châu sinh ngày 20 tháng 10 năm 1930. Quê gốc của ông tại làng Thôi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Trước Cách mạng tháng Tám, ông từng tốt nghiệp bậc Thành Chung tại trường Kỹ nghệ Huế năm 1944 – 1945. Sau đó, ông liên tục học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại TP Hà Tĩnh. Đến tháng 1 năm 1950, ông gia nhập quân đội, học ở trường sỹ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác làm việc tại Ban tham mưu những tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hóa truyền thống trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác làm việc tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn Nước Ta năm 1972. Ông mất ngày 23 tháng l năm 1989 tại Thành Phố Hà Nội .

b. Thành tựu văn học

Hành trình văn học của Nguyễn Minh Châu khởi đầu bằng truyện ngắn Sau một buổi tập ( 1960 ) và khép lại với truyện vừa Phiên chợ Giát ( 1989 ). Ba thập kỷ – một hành trình dài không phải là dài so với những đồng nghiệp, đồng lứa như : Nguyễn Khải, Xuân Thiều, Hồ Phương …, tuy nhiên với mười ba tập văn xuôi, một tập tiểu luận phê bình, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã để lại một sự nghiệp văn chương đủ sức vượt qua thời hạn. Trong đó, đặc biệt quan trọng phải kể đến những tác phẩm chính :
– Cửa sông ( tiểu thuyết, 1966 ) ;
– Những vùng trời khác nhau ( truyện ngắn, 1970 ) ;
– Dấu chân người lính ( tiểu thuyết, 1972 ) ;
– Miền cháy ( tiểu thuyết, 1977 ) ;
– Lửa từ những ngôi nhà ( tiểu thuyết, 1977 ) ;
– Những người đi từ trong rừng ra ( tiểu thuyết, 1982 ) ,
– Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ( truyện ngắn, 1983 ) ;
– Bến quê ( truyện ngắn, 1985 ) ;
– Mảnh dất tình yêu ( tiểu thuyết, 1987 ) ;
– Cỏ lau ( truyện vứa, 1989 ) .
Có thể nói, nhà văn Nguyễn Minh Châu là nhà văn thuộc thế hệ sau, nhưng chỉ trải qua những sáng tác văn chương của ông, người đọc sẽ không quên nhắc đến một nhà văn tiêu biểu vượt trội của nền văn học tân tiến Nước Ta. Nói như nhà văn Nguyễn Khải : “ Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Nước Ta và cũng là người mở đường bùng cháy rực rỡ cho những cây bút trẻ năng lực sau này ” .

Tóm tắt Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu đặc sắc nhất.

Chiếc thuyền ngoài xa là một câu truyện gửi gắm nỗi niềm trăn trở giữa nghệ thuật và thẩm mỹ và đời sống đạo đức. Phùng – một nhiếp ảnh đã đến vùng biển miền Trung để săn được những bức ảnh đẹp của vạn vật thiên nhiên. Sau nhiều ngày chờ đón, anh cũng đã có được bức ảnh đắt giá. Nhưng đằng sau bức ảnh ấy là một hiện thực mà Phùng phải suy ngẫm, người đàn bà bị chồng hành hạ và đánh đập nhưng lại không bỏ chồng vì đời sống của họ còn có nhiều điều người ngoài không hề biết được. Phùng nhận ra rằng lao lý và chánh án cũng không hề giúp sức đời sống của người đàn bà này. Anh nhận ra giá trị thâm thúy về đời sống, rằng mình phải nhìn nhận sự vật nhiều chiều chứ không phải chỉ qua một cái nhìn đầy cảm quan từ vẻ vẻ bên ngoài của nó .

1. Các chi tiết cụ thể nghệ thuật và thẩm mỹ trong Chiếc thuyền ngoài xa

a.  Tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm

– Trước hết đó là một bức ảnh thuần thẩm mỹ và nghệ thuật dành cho những nhà sành nghệ thuật và thẩm mỹ : Một bức ảnh mang vẻ đẹp toàn mĩ, vốn là một cảnh đắt trời cho, kết tinh công phu và sự suôn sẻ của người nghệ sĩ
– Một bức ảnh về con thuyền được chụp từ ngoài xa với vẻ đẹp hài hoà giữa con người và cảnh vật. Một cảnh đẹp được ghi lại bằng một ấn tượng thuần tuý nghệ thuật và thẩm mỹ. Một bức ảnh không chỉ đem đến một niềm niềm hạnh phúc cho người phát minh sáng tạo mà còn đủ sức thuyết phục với cả những nhà sành nghệ thuật và thẩm mỹ và có sức sống lâu bền ” mãi mãi về sau ” …
– Đằng sau bức ảnh thẩm mỹ và nghệ thuật đó là một bức ảnh đời sống hiện thực trần trụi, lam lũ mà TT là hình ảnh người đàn bà vùng biển to lớn với dáng người thô kệch … bước những bước chậm rãi, bàn chân đặt trên mặt đất chắc như đinh, hoà lẫn trong đám đông .
– Chi tiết bức ảnh đã trở thành một cấu tứ cho truyện ngắn này .

 b, Giọt nước mắt người đàn bà hàng chài

Thể hiện nỗi đau, sự bất lực của người vợ, người mẹ trong hoàn cảnh rất là éo le : Trước đó, dù hứng chịu trận đòn roi trút xuống như lửa cháy, người đàn bà vẫn “ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy ? Chỉ khi bị đứa con phát hiện, tận mắt chứng kiến cảnh tượng đau lòng : Con đánh cha, cha đánh con, người đàn bà mới đau đớn bật khóc. Giọt nước mắt bật ra từ những xót xa, tủi nhục mà người đàn bà dồn nén, chất chứa lâu nay trong lòng. Hơn hết, giọt nước mắt bật ra từ trái tim người mẹ : bất lực không hề bảo vệ được tâm hồn non nớt, thơ ngây của đứa trẻ, bất lực nhìn cái mái ấm gia đình mà mình cố sức giữ gìn có rủi ro tiềm ẩn tan vỡ …
– Thể hiện nỗi đau, sự bất lực của người mẹ không hề bảo vệ được tâm hồn ngây thơ, trong sáng cho đứa trẻ

         – Giúp khắc hoạ tính cách, tâm lí nhân vật, thể hiện bi kịch của nhân vật và cho thấy chiều sâu tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu.

c. Xương rồng luộc chấm muối

Hình ảnh “ xương rồng luộc chấm muối ” được hiện lên trong lời kể của người đàn bà hàng chài với chánh án Đầu tại tòa án nhân dân huyện. Qua lời kể này của người đàn bà đã cho ta thấy một cuộc sống lam lũ, xấu số và bươn trải của chính bà và cũng là số phận chung của những người sống cùng trong mái ấm gia đình bà. “ Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn ” “ đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật ” đã gói gọn những khổ nhọc của một đời luôn bán mặt cho đất bán sống lưng cho trời. Vì đời sống khi nào cũng túng quẫn, hình ảnh “ xương rồng chấm muối ” của mái ấm gia đình ấy, cũng đã hé mở nguyên do sâu xa của nạn bạo hành mái ấm gia đình. Chính vì người chồng khổ quá, nên những lúc như vậy là xách bà ra đánh. Những cái đánh vũ phu và tàn ác, những cái đánh như trút xuống, liên tục và đau đớn biết bao. Chi tiết đã cất tiếng nói về giá trị hiện thực, phản ánh cái đói cái nghèo của người dân miền biển nói riêng, và cũng là cái khốn khó chung của dân cư Nước Ta thời hậu chiến. Và chi tiết cụ thể cũng đã là một lời nói của ngòi bút nhân đạo thâm thúy, Nguyễn Minh Châu đã đi sâu vào thực chất để khắc họa nỗi lo âu, khắc họa về thực trạng bần hàn, tối tăm cùng cực, và căn nguyên của nạn bạo hành mái ấm gia đình cũng chính từ cái nghèo khó đó mà ra .

d. Bãi xe tăng hỏng 

Bãi xe tăng hỏng – vật chứng chứng tỏ cuộc chiến tranh vừa mới qua chưa xa. Tuy cuộc chiến tranh đã qua, những người lính như Phùng đã nỗ lực rất là chiến đấu mang lại tự do cho nhân dân, mang lại độc lập cho quốc gia, thế nhưng anh lại không hề giải phóng cho những người phụ nữ nghèo khỏi đói khổ, khỏi cảnh tượng đấm đá bạo lực mái ấm gia đình .
Chiếc xe tăng giống như một vật chứng của cuộc chiến tranh đã hủy hoại khiến cả một quốc gia rơi vào tình cảnh đói nghèo, mất mát. Nó cũng giống như nhân chứng, tận mắt chứng kiến tổng thể đời sống của người dân chài, tận mắt chứng kiến cái vẻ đẹp yên bình và cả những hành vi đánh đập vợ của ông chồng sau cái vẻ đẹp. Chiến tranh chưa khi nào là tốt đẹp, hình ảnh chiếc xe tăng – vật biểu trưng cho cuộc chiến tranh cũng thế, chính nó đã tham gia vào việc che giấu hành vi đấm đá bạo lực của ông chồng. Cảnh người chồng ra sức quật người vợ được diễn ra sau bãi xe tăng cũ, để tránh những đứa con phát hiện và khiến cho Phùng suýt nữa thì tin rằng tấm ảnh mà anh chụp được là 1 vẻ đẹp hoàn mĩ .
=> Nêu lên bài học kinh nghiệm : ngăn ngừa “ cuộc chiến tranh tâm hồn ”, cuộc đấu tranh chống lại cái ác còn nóng bức và can đảm và mạnh mẽ hơn cuộc đấu tranh chống quân địch xâm lược .

2. Tình huống truyện “ Chiếc thuyền ngoài xa ”

– Tóm tắt trường hợp truyện “ Chiếc thuyền ngoài xa ” :
Nghệ sĩ Phùng đến ven biển miền Trung chụp những tấm ảnh đẹp cho cuốn lịch năm sau, anh thấy cảnh đẹp như tranh vẽ. Đó là bức tranh chiếc thuyền ngoài xa ẩn hiện trong bầu sương sớm. Cảnh đẹp đã làm anh ngây ngất, thăng hoa. Thấy “ hoảng sợ ”, thấy “ trái tim mình như có gì đó bóp thắt vào ”. Nhưng khi chiếc thuyền lại gần bờ, anh lại tận mắt chứng kiến đằng sau chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy là cảnh một người đàn ông đánh đập vợ, người vợ cam chịu, nhẫn nhục .
– Ý nghĩa tình huống truyện :
Qua hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn chỉ ra : cuộc sống tiềm ẩn nhiều điều nghịch lí, xích míc ; không hề nhìn nhận con người, đời sống ở hình dáng vẻ bên ngoài mà phải đi sâu khám phá, phát hiện thực chất bên trong .
Tình huống truyện mang ý nghĩa thâm thúy, thấm thía, nhấn mạnh vấn đề mối quan hệ giữa thẩm mỹ và nghệ thuật và cuộc sống : “ Nghệ thuật vị nhân sinh ” .

3. Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

a. Nghĩa tả thực:

Chiếc thuyền là hình tượng của bức tranh vạn vật thiên nhiên đẹp và đời sống hoạt động và sinh hoạt của người dân làng chài “ Trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. ”

b. Nghĩa biểu tượng:

– Là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật và thẩm mỹ. Đó là chiếc thuyền có thật trong cuộc sống, là khoảng trống sinh sống của mái ấm gia đình người hàng chài. Cuộc sống mái ấm gia đình đông con, khó kiếm ăn, đời sống túng quẫn là nguyên do làm cho người chồng trở nên cục cằn, thô lỗ và biến vợ thành đối tượng người tiêu dùng của những trận đòn. Những cảnh tượng đó, những thân phận đó nếu nhìn từ xa, ở ngoài xa thì sẽ không thấy được .
– Vì ngoài xa nên con thuyền mới đơn độc. Đó là sự đơn độc của con thuyền nghệ thuật và thẩm mỹ trên đại dương đời sống, đơn độc của con người trong cuộc sống. Chính sự thiếu thân thiện, sẻ chia ấy là nguyên do của sự bế tắc và lầm lạc. Phùng đã chụp được chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm – một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích, một chân lí của sự tổng lực. Nhưng khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, tận mắt chứng kiến cảnh đánh đập vợ của người đàn ông kia, anh đã kinh ngạc và vứt chiếc máy ảnh xuống đất. Anh nhận ra rằng, vẻ đẹp ở ngoài xa kia cũng chứa đựng nhiều oái oăm, ngang trái và nghịch lí. Nếu không đến gần thì chẳng khi nào anh nhận ra. Xa và gần, bên ngoài và sâu thẳm … đó cũng là cách nhìn, cách tiếp cận của thẩm mỹ và nghệ thuật chân chính .

c. Phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chìa trong Chiếc thuyền ngoài xa

Nguyễn Minh Châu là tác giả tiêu biểu vượt trội của văn học Nước Ta sau 1975. Ông thành công xuất sắc với nhiều tác phẩm như : Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Chiếc thuyền ngoài xa. Nhưng để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc là tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa ” .
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng thâm thúy nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài – người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh .
Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở lại mặt trận xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề xuất của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển độc nhất vô nhị : “ trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù .. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới .. hàng loạt khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hòa giải ”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ có vẻ như vừa “ tò mò thấy cái chân lí của sự triển khai xong ”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng : người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng đến kinh ngạc, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ .
Xuyên suốt hàng loạt câu truyện, phần đông người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định : khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta …. Không phải nhà văn “ nghèo ” ngôn từ đến độ không hề đặt cho chị một cái tên mà có vẻ như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc sống ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa đời sống bộn bề lo toan .
Hình như đời sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại tiềm ẩn nhiều điều kì diệu khiến người khác phải tâm lý. Người đàn bà trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt căng thẳng mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, căng thẳng mệt mỏi có vẻ như đang buồn ngủ. Và cuộc sống nhọc nhằn, lam lũ, khó khăn vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch .

         Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự bất hạnh trong cuộc đời chị. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ.   Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh.  Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,…
Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc” Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trôn mà  coi đó là một lẽ đương nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.
Người đàn bà đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Chị xót xa đau đớn khi phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…”

Người đàn bà ấy là người thâm thúy và đồng cảm lẽ đời. Cái sự thâm trầm trong đồng cảm lẽ đời có vẻ như chị chẳng khi nào để lộ rõ ràng ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc sống mình, chị gật đầu, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề xuất giúp sức thì : “ Xin những chú lượng tình cho cái sự lỗi thời ” ; “ Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó ” .
Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ : “ Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn ”. Trong cuộc mưu sinh đầy gay cấn : thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự thiết yếu của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy những con : “ Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không hề sống cho mình như trên đất được ”. Chị “ phải sống cho con chứ không hề sống cho mình ” .
Có đồng cảm được như vậy tất cả chúng ta mời hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người đàn bà xấu số. Bởi nếu hiểu vấn đề một cách đơn thuần chỉ cần nhu yếu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn yếu tố một cách thấu suốt thì tâm lý và cách xử sự của người đàn bà là không hề khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị .
Người đàn bà ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị đồng cảm nguyên do vì sao chồng lại trở nên như vậy. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi đời sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể tất cả chúng ta không đồng ý cho hành vi tội lỗi của ông nhưng tất cả chúng ta phần nào cảm thông cho ông .

         Đặc biệt ở người đàn bà là chị cũng đã vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hi vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi : “..vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; “ trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.
Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời.  Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

Gấp trang truyện lại người đọc còn mãi ám ảnh bởi những câu hỏi : Cuộc đời người đàn bà ấy rồi sẽ kết thúc ra sau ? Những đứa con tội nghiệp của bà có được đời sống niềm hạnh phúc ? Đó là những yếu tố nhà văn vẫn chưa đưa ra lời giải đáp. Câu trả nằm trong đời sống, hành vi của mỗi người tất cả chúng ta. Điều đó nói lên giá trị của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Nước Ta tân tiến .
Đăng bởi : Wikichiase. com
Chuyên mục Giáo dục đào tạo

Source: https://vvc.vn
Category : Từ Thiện

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay