Cựu SV 2 Khóa LƯƠNG VĂN CAN (69-73) & HUỲNH THÚC KHÁNG (70-74) – ĐHSP HUẾ

HÀN MẶC TỬ với “ Đà lạt trăng mờ”

( Bài viết của TRẦN NGỌC TRÁC – trích DUYÊN NỢ ĐÀ LẠT – NXB Văn Học )
Có lẽ sau 80 năm để có, hiếm thấy một bài thơ nào viết về Đà Lạt hay như bài thơ “ Đà Lạt trăng mờ ” của Hàn Mặc Tử. Tôi đã sưu tầm hơn ba ngàn bài thơ viết về Đà Lạt đăng trên những báo, tạp chí và cả bản thảo viết tay của nhiều văn nghệ sĩ khắp mọi miền đến Đà Lạt sáng tác và nỗ lực lắm cũng làm được một tuyển thơ về Đà Lạt. Thơ hay đã khó, thơ lưu lại trong trái tim tình nhân thơ lại càng khó vô cùng .

Khi chưa là công dân của thành phố Đà Lạt, tôi cũng như nhiều người yêu thơ khác đều biết đến bài thơ “ Đà Lạt trăng mờ” của Hàn Mặc Tử. Đó là giai đoạn phương tiện nghe nhìn chưa phát triển. Thời mà học sinh trung học còn mơ mộng, lãng mạn, kiếm tìm những bông hoa ép vào cuốn sổ, chép những bài thơ tình lên trang vở …Bài thơ “ Đà Lạt trăng mờ” cũng được chép lại cẩn thận như một báu vật của riêng mình.

Chỉ thoáng nghe hai câu thơ “ Để nghe tơ liễu run trong gió / Và để nghe trời giải nghĩa yêu ” là bọn trẻ chúng tôi hồi đó đã đỏ mặt. Con gái thì “ hồng đôi má ” thẹn thùng. Con trai thì xấu hổ. Vậy mà vẫn “ lén lút ” chuyền tay nhau bài thơ này của Hàn Mặc Tử .
Năm 1933, nhà thơ Hàn Mặc Tử lên Đà Lạt chơi. Cảm xúc trước vạn vật thiên nhiên kì vĩ của Đà Lạt, Hàn Mặc Tử đã viết bài thơ “ Đà Lạt trăng mờ ” :
Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu
Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt
Như đón từ xa một ý thơ .
Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để nghe trời giải nghĩa yêu .
Hàng thông thấp thoáng đứng trong im
Cành lá in như đã lặng chìm
Hư thực làm thế nào phân biệt được
Sông Ngân Hà nổi giữa màn đêm .
Cả trời say nhuộm một màu trăng
Và cả lòng tôi chẳng nói rằng
Không một tiếng gì nghe động chạm
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng …
Hình ảnh liễu rũ bên Hồ Xuân Hương, lăn tăn sóng gợn, hàng thông lặng im, thực mơ mơ thực … đã làm cho Hàn Mặc Tử xao xuyến vung bút thành thơ .
Mời nghe bài hát phổ bài thơ cùng tên :

Để hiểu rõ hơn về bài thơ “ Đà Lạt trăng mờ ” của Hàn Mặc Tử, con trai của nhà thơ Quách Tấn – ông Quách Giao cho hay : “ Ba tôi và Hàn Mặc Tử quen nhau từ năm 1931. Khi đó ba tôi thao tác tại Toà công sứ Đà Lạt, Hàn Mặc Tử sống với mẫu thân tại Quy Nhơn .
… Năm 1932, Hàn Mặc Tử làm ở Sở đạc điền Qui Nhơn. Mùa xuân năm Kỷ Dậu ( 1933 ), Hàn Mặc Tử nhân được nghỉ phép lên Đà Lạt thăm ba tôi. Hai nhà thơ đi thưởng ngoạn những thắng cảnh, từ thác Cam Ly đến rừng Ân Ái. Trong tập hồi ký “ Đôi nét về Hàn Mặc Tử ”, ba tôi đã ghi :
“ Trước hết đi xem những cảnh gần. Cảnh nào cũng làm cho Tử trìu mến .
Đến Cam Ly, Tử nhất định ở lại suốt ngày. Khách du quan khi nào cũng có. Phần đông đều dồn nơi thác và nơi những tiểu đình. Tử thích đứng trên những chiếc cầu cong cong làm bằng những khúc thông để nguyên vỏ và bắc ngang qua những dòng khe đá chảy quanh co .
Gió thổi mát lạnh và mùi hoa rừng thoang thoảng đưa .
Vì cảnh bát ngát, không hề đứng một chỗ để ngắm. Theo những con đường khuất khúc và rợp bóng thông, nhưng rất thật sạch vì có người coi sóc, tôi đưa Tử vào rừng sâu. Bóng nắng lọt qua kẽ lá trông trong dịu như bóng trăng và tiếng thông cuộn gió nghe ào ào như tiếng sóng .
Đứng trên đồi cao trông xuống cảnh rừng Ân Ái ( Bois d’Amour ) thật chẳng khác nào đứng nhìn mặt biển lộng gió nồm. Chợt nhớ câu hát trong tuồng Hộ Sanh của Đào Tấn, tôi buột miệng hát :
Lao xao sóng bủa ngọn tùng
Gian nan là nợ anh hùng phải vay .
Tử vỗ tay khen : “ Thật tân kỳ ! ”
Sau cuộc du ngoạn bằng ngựa ở Đường vòng Mỹ cảnh ( Tour des 99 Points de vue ), Hàn Mặc Tử đã thấy được đàn cà tông, ngủ trưa bên hồ Than Thở ( Lac des Soupirs ), nằm ngắm trời xanh, ngửi hơi nhựa thông bay phảng phất trong gió trưa .
Tối đến, đôi tri kỷ tay trong tay đi dạo cảnh Đà Lạt lúc đêm hôm. Ba tôi đã ghi vào tập hồi ký :
“ Dạo cảnh Đà Lạt lúc đêm hôm cũng là một kỳ thú. Những con đường quanh co, khi lên cao khi xuống thấp, nhiều khi đường chồng lên nhau. Lắm nơi, đứng xa mà trông, thấy như những cuộn vải đen giăng lơ lửng trên đọt cây … Đèn điện lẫn lộn cùng sao, trên cao có, dưới thấp có, chỗ thì chói rọi giữa không, chỗ thì khép nép trong cành lá … Mùi nhựa thông đêm hôm bay ngát cả không khí. Thỉnh thoảng mùi hoa mimosa, mùi hoa violet trộn lẫn vào thành một mùi vị đặc biệt quan trọng, hít vào thấy nhẹ cả châu thân .
Tử nắm tay tôi, đi từng bước một, không nói không rằng .
Đến bờ hồ nhìn xuống mặt nước, chúng tôi mới nhớ là đêm trăng ! Mặt hồ lóng lánh. Và vầng trăng dưới nước trông trong sáng gấp mấy lần vầng trăng ở trên mây .
Tử nói :
– Cứ xem bóng trăng cũng biết nước hồ ở Đà Lạt trong đến ngần nào !
Tôi tiếp :
– Theo tôi chỉ có nước hồ Đà Lạt và nước sông Hương mới đáng gọi là nước. Nước ở những sông, những hồ, dù trong đến đâu, sắc xanh cũng có phần lợt lạt. Duy nước hồ Đà Lạt và nước sông Hương là đượm đà màu nước biển. Ai đã từng nhìn đôi mắt của người mẫu Ấn Độ – đôi mắt xanh như ngọc và xa thăm thẳm như vòm trời ngày thu – thì mới tin lời nói của tôi là không huyễn hoặc. Muốn thấy rõ cái đẹp của nước hồ Đà Lạt thì phải đến ngắm lúc ban trưa tạnh trời .
Tử trầm ngâm hồi lâu rồi nói :
– Không có cảnh thì khó có thơ, mà đứng trước cảnh đẹp quá, thơ nghĩ cũng không ra được .
– Theo tôi không phải vì cảnh quá đẹp mà thơ không dám ra. Đó là vì đứng trước cảnh đẹp cũng như đứng trước tình đẹp, người thơ mắc lo tận thưởng cái đẹp của tình, của cảnh, tâm lý đâu còn rảnh rang mà nghĩ đến thơ. Huống nữa người thơ chỉ làm thơ trong khi thiếu thốn. Tình kia đã quá khá đầy đủ để cho tâm hồn ôm ấp thì người thơ còn thiếu thốn gì nữa mà làm thơ .
Tử vỗ tay tán thưởng .
Chúng tôi đang chuyện trò thì có vẻ như có một luồng ánh sáng từ trong hồ bay ra và thoáng nhẹ ở trước mắt. Chúng tôi chú mục : Một đám sương lớn bằng một chiếc chiếu chõng nổi lềnh bềnh trên mặt hồ. Sương mỗi lúc mỗi vun cao và lan rộng, phản chiếu ánh trăng sáng hực cả bốn bên. Trong phút chốc mặt hồ bị khuất hẳn và trước mặt chúng tôi nổi lên một ngọn “ núi bông gòn ” trắng phau và sáng ánh. Rồi một ngọn gió thổi nhẹ, sương ùn ùn toả ra khắp nơi và cuốn cả trời đất muôn vật. Chúng tôi không còn thấy gì ngoài ánh trăng. Đến nỗi chúng tôi đứng sát bên nhau mà chúng tôi nhìn cũng không thấy rõ được nhau !
Chúng tôi có cảm xúc là trời đất đã tan ra thành thuỷ tinh và chúng tôi đương đứng lơ lửng giữa hư vô … Sương bay thấm má và một luồng hơi mát chạy khắp châu thân, gây một cảm khoái dìu dịu …
Tôi nói khẽ cùng Tử :
– Mình đương chìm vào mộng hay mộng đương lắng vào mình ?
– Hư thực phân biệt làm thế nào được ! Nhưng chớ nói nhiều … Hãy lắng nghe … Hình như có tiếng rỉ tai từ đáy hồ vọng đến. Tôi không mơ đâu nhé ! Hãy lắng nghe …
Đứng tựa lan can cầu trước dinh quản đạo, chúng tôi nắm chặt tay nhau … Rồi sương tan dần và từ từ mặt trăng sáng trở lại .
Tử nói :

– Cảnh thật huyền mơ! Tiếng lòng lẫn cùng tiếng tạo vật! Con người hoà hẳn vào thiên nhiên.”

Sau đêm ngắm trăng trên mặt hồ Đà Lạt, Hàn Mặc Tử và ba tôi đều bị cảm lạnh. Một tuần sau hai người chia tay .
Vẻ đẹp huyền diệu của non sông Đà Lạt đã là nguồn cảm hứng cho hai bài thơ Đà Lạt đêm sương và Đà Lạt trăng mờ của ba tôi và Hàn Mặc Tử. ”
Với những thông tin có được từ ông Quách Giao, tất cả chúng ta hiểu thêm hoàn cảnh sinh ra của bài thơ “ Đà Lạt trăng mờ ” của Hàn Mặc Tử .
Nhà văn Mai Văn Hoan ở Huế cũng có bài viết “ Đây xứ thiêng liêng … ” với những tình cảm đặc biệt quan trọng dành cho Hàn Mặc Tử :
“ Nếu Quy Nhơn là nơi khởi đầu sự nghiệp thi ca Hàn Mặc Tử thì Đà Lạt lại là nơi Hàn Mặc Tử đã tìm được cho mình một khoảng trống thơ thích hợp. Con người thường sống trong hai cõi : cõi thực và cõi mộng. Hàn Mặc Tử cũng vậy. Nhưng có lẽ rằng do bị rơi vào cảnh ngộ đặc biệt quan trọng nên về cuối đời, Tử thường sống trong cõi mộng nhiều hơn cõi thực. Hơn ai hết, Hàn Mặc Tử luôn có ý thức tìm mối quan hệ giữa sống và chết, giữa thực và hư, giữa sắc và không. Hàn Mặc Tử ý niệm : “ Sắc cũng như không, chết cũng như sống, gần cũng như xa và hư cũng như thực ”. Với Tử “ Hư và thực là những huyền ảo chập chờn trước mắt ” ( Chiêm bao với thực sự ) .
Chính cho nên vì thế mà khi đặt chân đến Đà Lạt, Hàn Mặc Tử đã thốt lên :
Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu !
Đó không chỉ là phút khởi đầu của tình yêu, của niềm mê hồn mà còn là phút khởi đầu của thi ca, của sự phát minh sáng tạo thẩm mỹ và nghệ thuật. Phút khởi đầu đó rất là quan trọng. Hàn Mặc Tử như đang đắm chìm trong khói sương Đà Lạt :
Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ !
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt ,
Như đón từ xa một ý thơ .
Ngỡ như Đà Lạt chờ đón khoảng thời gian ngắn này đã lâu, ngỡ như trời đất này là để dành riêng cho Hàn Mặc Tử. Không ở đâu “ hư và thực là những huyền ảo chập chờn trước mặt ” như ở đây. Giữa khói sương mờ ảo ấy “ hư thực làm thế nào phân biệt được ! ”. Điều này rất đúng với ý niệm của Hàn Mặc Tử : “ Hư cũng như thực, thực cũng như hư ”. Ngay cả trăng sao cũng phải “ đắm đuối ” trong màn sương hư ảo đó. Nếu chỉ tả cho hợp cảnh, chắc tác giả sẽ viết “ Trăng sao chới với trong sương nhạt ”. Nhưng “ chới với ” chỉ hợp cảnh mà không hợp tình. Phải là “ trăng sao đắm đuối ” mới diễn đạt được niềm đam mê của Hàn Mặc Tử với khói sương Đà Lạt. Cũng trăng ấy, cũng sao ấy, cũng khói sương ấy nhưng phải đến Hàn Mặc Tử mới trở nên “ đắm đuối ” như thế ! .
Không gian Đà Lạt là một khoảng trống đầy sao : “ Sông Ngân Hà nổi giữa màn đêm ”, khoảng trống Đà Lạt còn là một khoảng trống đầy trăng : “ Cả trời say nhuộm một màu trăng ”. Trăng sao, khói sương với những “ hàng thông lấp loáng ” đã tạo nên nét đẹp riêng của cảnh trời Đà Lạt. Đà Lạt không chỉ có vẻ đẹp huyền ảo, Đà Lạt còn là nơi rất là yên tĩnh. Hàn Mặc Tử đã “ kêu gọi ” rất nhiều từ cùng vần để diễn đạt sự yên tĩnh ấy : “ làm thinh ”, “ đứng trong im ”, “ cành lá in ”, “ lặng chìm ”. Đà Lạt yên tĩnh đến mức ngỡ như nghe được cả tiếng nước reo dưới đáy hồ, “ tơ liễu run trong gió ” … Yên tĩnh đến mức :
Không một tiếng gì nghe động chạm
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng …
Cái khoảng trống vô cùng yên tĩnh, cái khoảng trống đầy sương khói, đầy trăng, đầy sao, cái khoảng trống “ hư thực làm thế nào phân biệt được ” của Đà Lạt ghi dấu ấn khá sâu đậm trong tâm thức Hàn Mặc Tử. Và thi sĩ đã mang theo cái khoảng trống Đà Lạt ấy đi suốt cuộc hành trình dài thi ca của mình. Hình như ở đâu, đi đâu thi sĩ cũng nhìn thấy khoảng trống Đà Lạt. “ Hương khói ở đâu ngoài xứ mộng ” trong bài thơ Huyền ảo của thi sĩ phảng phất hương khói Đà Lạt. Màn sương đêm bao trùm “ những tháp kiêu ngạo ”, trong bài thơ Thi sĩ Chàm khuyến mãi ngay Chế Lan Viên cũng phảng phất cái màn sương Đà Lạt. Ngay cả khi bày tỏ niềm khao khát gặp lại người con gái thôn Vĩ mà thi sĩ vẫn thầm yêu trộm nhớ, Hàn Mặc Tử cũng như đang đắm chìm giữa khoảng trống Đà Lạt :
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà
( Đây thôn Vĩ Dạ )
Và rất nhiều lần Hàn Mặc Tử tái hiện cái khoảng trống Đà Lạt ấy :
Chiếc cầu chở cả một đêm trăng
Muôn ánh sao ngời chói thẳng băng
Muôn sợi hương trầm say bồn chồn …
( Ghen )
Có thể chứng minh và khẳng định : khoảng trống Đà Lạt đã biến thành khoảng trống thơ của Hàn Mặc Tử. Đà Lạt đã biến thành quốc tế riêng của Hàn Mặc Tử. Hiếm có nhà thơ nào tạo dựng được cho mình một khoảng trống đầy trăng, đầy sao, đầy khói sương như thi sĩ .
Hàn Mặc Tử phải cám ơn cái tích tắc thiêng liêng khi lần tiên phong đặt chân đến Đà Lạt. Ngược lại, Đà Lạt cũng rất biết ơn nhà thơ thiên tài đã vĩnh cửu hóa vẻ đẹp huyền ảo và yên tĩnh của Đà Lạt trong một đêm trăng mờ. Nếu giữ được vẻ đẹp sương khói và yên tĩnh ấy, Đà Lạt sẽ còn làm “ đắm đuối ” bao nhiêu hành khách như Hàn Mặc Tử đã từng đắm đuối ! ”
Tháng 9 năm 2008, bài thơ “ Đà Lạt trăng mờ ” đã được nhà giáo Thân Trọng Sơn ở thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng dịch sang tiếng Pháp như sau :

DALAT SOUS LA LUNE VOILÉE

Voici le moment divin qui a déjà commencé
Un ciel de rêve dans un tableau féerique
La lune et les étoiles dans la brume blafarde noyées
Semblent attendre de loin une ébauche poétique .
Qu’on ne parle pas, qu’on cesse les causeries
Pour écouter, au fond du lac, les eaux murmurer
Pour écouter, dans le vent, les saules frissonner
Le ciel va expliquer ce que l’amour signifie .
Les pins s’aper çoivent, debout, dans le silence
Leurs branches et feuilles ne font aucun bruit .
Entre l’irréel et le réel, distingue-t-on la différence !
La voie lactée émerge sur le rideau de la nuit .
Le firmament s’enivre, teinté de clarté lunaire ,
Et tout mon cœur veut maintenant se taire .
Aux alentours, aucun heurt ne se fait entendre
Pas même l’éclat lointain d’une étoile filante .
Traduction de THÂN TRỌNG SƠN
Dẫu thời hạn có biến hóa, số phận con người nay còn mai mất thì bài thơ “ Đà Lạt trăng mờ ” của Hàn Mặc Tử vẫn sống sót và ở mãi trong lòng công chúng yêu thơ qua nhiều thế hệ. Đó là món quà vô giá mà nhà thơ Hàn Mặc Tử viết riêng cho Đà Lạt. Bây giờ có dịp đọc lại, ngâm nga – mặc dầu ngôn từ thơ có phần đã cũ nhưng Hàn Mặc Tử vẫn nói hộ được bao điều cho đôi lứa yêu nhau mà Đà Lạt là nơi dễ gợi lên trong nhau những tình yêu đẹp, lãng mạn, điệu đàng …

Nguồn FB. Son Than

Share this:

Thích bài này:

Thích

Đang tải …

Source: https://vvc.vn
Category : Từ Thiện

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay