Lịch sử Phật giáo – Wikipedia tiếng Việt

Câu chuyện về các quốc gia của Hutchison, mô tả Bức ảnh này trích trong một chương về Ấn Độ trong cuốn, diễn đạt Ajatashatru đến thăm Đức Phật để giác ngộ tội lỗi của mình .

Phật giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền đông Ấn Độ vào thế kỷ 6 TCN. Được truyền bá trong khoảng thời gian 49 năm khi Đức Phật còn tại thế ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều dạng người, nhiều tập tục ở các thời kỳ khác nhau, và do đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển rộng rãi trên toàn thế giới, ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.

Bối cảnh lịch sử dân tộc[sửa|sửa mã nguồn]

Miền Bắc Ấn Độ là dãy Himalaya cao lớn và dài tạo nên một hàng rào cô lập các vùng bình nguyên của xứ này với các vùng còn lại. Để liên lạc với bên ngoài thì chỉ có con đường núi xuyên qua Afghanistan. Nền văn hóa chính ngự trị thời bấy giờ là văn hóa Vệ Đà (Veda). Các bộ lạc du mục người Aryan đã mở mang và xâm chiếm các vùng lãnh thổ Tây Bắc Ấn và lan rộng ra hầu hết bán đảo Ấn Độ khoảng 1000 năm trước công nguyên

Văn hoá Vệ Đà nghiêng về thờ phụng nhiều thần thánh cũng như có các quan điểm thần bí về vũ trụ. Những sự phát triển về sau đã biến Vệ Đà thành một tôn giáo (đạo Bà La Môn) và phân hoá xã hội thành bốn giai cấp chính trong đó đẳng cấp Bà La Môn là giai cấp thống trị. Tư tưởng luân hồi cho rằng sinh vật có các vòng sinh tử thoát thai từ đạo Bà La Môn (hay sớm hơn từ tư tưởng Vệ Đà). Đạo Bà La Môn còn cho rằng tồn tại một bản chất của vạn vật, đó là Brahman (hay Phạm Thiên).

Tôn giáo gắn liền với nó là triết học tăng trưởng mạnh tại Ấn Độ với sự Open rất nhiều hướng triết lý và cách hành đạo khác nhau và đôi lúc chống chọi phản bác nhau. Trong thời hạn trước khi Thích Ca thành đạo, đã có rất nhiều phe phái tu luyện. Các khuynh hướng triết học lý luận cũng phân hoá mạnh như thể những xu thế khoái lạc, ngẫu nhiên, duy vật, thiếu tín nhiệm mọi thứ, huyền bí ma thuật, tu khổ hạnh, tu đức hạnh, tụng kinh …

Giai đoạn sơ khai và Giáo hội tiên phong[sửa|sửa mã nguồn]

Giai đoạn sơ khai[sửa|sửa mã nguồn]

Mảnh tiền bằng bạc của dòng Shakya ( Thích Ca ) ( 600 – 500 TCNNgay sau khi thành đạo ( vào khoảng chừng giữa sau thế kỉ thứ 6 TCN – có tài liệu cho đó là vào năm 589 TCN theo Phật giáo Nam Tông hay năm 593 TCN theo Phật giáo Bắc Tông ) thì Thích Ca đã quyết định hành động thuyết giảng lại hiểu biết của mình. 60 đệ tử tiên phong là những người có quan hệ gần với Thích Ca đã hình thành tăng đoàn ( hay giáo hội ) tiên phong. Sau đó, những người này chia nhau đi khắp nơi và mang về thêm ngày càng nhiều người muốn theo tu học. Để thao tác được với một lượng người theo tu học ngày càng đông, Phật đã đưa ra một chuẩn mực cho những đệ tử hoàn toàn có thể dựa vào đó mà thu nhận thêm người. Các chuẩn mực này phần chính là việc quy y tam bảo – tức là đồng ý theo hướng dẫn của chính Phật, những lời chỉ dạy của Phật ( Pháp ), và hội đồng tăng đoàn .

Tổ chức tiên phong[sửa|sửa mã nguồn]

Trong thời đức Phật Thích Ca còn tại thế thì những tu sĩ Phật giáo được tập hợp trong tổ chức triển khai được gọi là Tăng đoàn, trực tiếp chịu sự hướng dẫn của Thích Ca về giáo lý và phương cách tu tập. Tăng đoàn là tổ chức triển khai thống nhất, bình đẳng giữa mọi thành viên không phân biệt giới tính, tuổi tác, vị thế xã hội và có tiềm năng tối cao là đem lại giác ngộ cho mọi thành viên. Nhờ vào tổ chức triển khai có tính bình đẳng và qui củ nên Tăng đoàn tránh được nhiều chia rẽ .Kỷ luật của giáo hội dựa trên nguyên tắc tự giác. Trong những kì họp, giới luật được nêu lên, sau đó thành viên tự xét và nhận vi phạm nếu có. Những điều lệ chính được đề cập là nhẫn nhục, hành thiện tránh ác, tự chủ và kiềm chế trong ăn nói và tinh tấn .Ngoài những người xuất gia, Phật còn có rất nhiều đệ tử tại gia hay cư sĩ. Giới cư sĩ cũng được Phật thuyết giảng và ngược lại tham gia ủng hộ tăng đoàn về nhiều mặt ..

Sau khi Phật nhập niết bàn thì Tôn giả Ma-ha-ca-diếp (Maha Kassapa) thay phần lãnh đạo giáo hội. Giáo hội giữ nguyên các hoạt động truyền thống của mình cho đến kì kết tập kinh điển lần thứ hai.

Các Hội nghị kết tập tầm cỡ chính[sửa|sửa mã nguồn]

Kết tập lần thứ I[sửa|sửa mã nguồn]

  • Lý do
    1. Khi Phật còn sinh tiền, các giảng thuyết đều chỉ truyền miệng. Phật lại tùy theo trình độ hiểu biết và khả năng hấp thụ để có lời giảng thích hợp. Các phương pháp dùng lại rất phong phú tùy theo hoàn cảnh và phương tiện. Do đó, sự dị biệt khó tránh khỏi trong các lời giảng.
    2. Ngay sau khi Phật nhập niết bàn, đã có các đệ tử cho rằng phải làm điều này, không làm điều nọ, không chịu ràng buộc tâm ý… Để tránh sự sai biệt, và bảo tồn các giáo pháp và luật lệ cho được toàn vẹn, Ma-ha-ca-diếp (Maha Kassapa) đã đề nghị kết tập và phân loại toàn bộ lời dạy của Phật lại thành kinh điển để tránh chia rẽ, sai lầm về giáo pháp[1].
  • Diễn biến và kết quả

Cuộc kết tập lần I đã được tổ chức tại thành Vương Xá (Rājagaha), gồm 500 A-la-han Arhat. Được sự bảo trợ của vua A Xà Thế (Ajatasatru) là vua xứ Ma Kiệt Đà (Magadha. Thời gian: vào mùa Hạ năm Đức Phật Niết-bàn. Ngài Ưu Ba Ly (Upali) trùng tuyên Luật tạng trước, Ngài A Nan trùng tuyên Kinh tạng sau. Bộ luật được trùng tụng là: Bát thập tụng Luật. Lý do kiết tập: Tỳ kheo Bạt Nan Đà vui mừng khi nghe tin Đức Phật nhập niết bàn.
Phương pháp kết tập được kể lại bằng trí nhớ và cũng không có ghi thành văn bản. Những điều ghi nhận này sau đó được viết lại thành 4 bộ kinh:

Đây là những tài liệu cổ nhất có ghi lại cuộc sống của Phật và hoạt động giải trí của Tăng đoàn, lưu lại trong bước đầu hình thành Kinh tạng và Luật tạng. Các bộ kinh văn trên cũng là cơ bản cho Phật giáo nguyên thủy .

Kết tập lần thứ II[sửa|sửa mã nguồn]

  • Lý do
    1. Sau 100 năm (đầu thế kỉ thứ 5 TCN) thì có nhiều người muốn thay đổi một số điều chi tiết trong giới luật. Đại hội kết tập lần thứ II cốt để bàn thảo về những thay đổi này.
    2. Đại hội còn nhằm mục đích ngăn không để các tư tưởng của các đạo khác thâm nhập vào giáo lý Phật giáo.
  • Diễn biến và kết quả

Đại hội có 700 vị tỳ kheo, được tổ chức tại Vesali trong tám tháng dưới sự trợ giúp của vua Kalasoka. Trong đại hội những người không đồng ý với việc giữ nguyên giới luật ban đầu đã bỏ ra để tổ chức một hội nghị kết tập riêng và thành lập Đại chúng bộ (mahāsāṅghika). Số người còn lại vẫn tiếp tục kết tập kinh điển, sau đó hình thành Thượng tọa bộ (Theravada)[2].

Kết tập lần thứ III[sửa|sửa mã nguồn]

Asoka (A Dục) là hoàng đế của đế chế Mauryan, ra đời khoảng năm 273 TCN. Trước khi trở thành Phật tử, ông có tính khí rất hung bạo, đã giết nhiều anh em của mình để cướp ngôi vua cũng như đã xua quân chiếm lãnh thổ Kalinga (ngày nay thuộc bang Orissa) phía Đông Ấn Độ. Nhưng ngay sau đó nhờ gặp được Sa di Nigrodha, ông theo Phật giáo cải hối và làm rất nhiều điều thiện, chống lại bạo lực. Ông là người có công lớn khuyến khích Phật giáo, xây dựng hàng chục ngàn chùa chiền, bảo tháp Phật giáo.

Đây là quy trình tiến độ lưu lại sự tăng trưởng của Phật giáo ra ngoài chủ quyền lãnh thổ Ấn Độ. Nhiều đoàn truyền giáo đạo Phật đã được cử đến khắp nơi từ Âu sang Á, đến tận Hy Lạp, những nước tại Trung Á, Trung Đông, cũng như Trung Quốc, Miến Điện và Sri Lanka. Hiện còn một yếu tố đang được tranh luận là liệu đoàn thuyết pháp của vua Asoka đã đến được Nước Ta hay không. Câu hỏi này còn trông chờ vào việc tìm ra thêm những vật chứng về khảo cổ ở Nước Ta. Ngoài ra, vua Asoka còn là người bảo trợ cho kì kết tập tầm cỡ lần thứ III .

Kết tập kinh điển lần thứ III và bản dịch tiếng Pali của toàn bộ Tam Tạng kinh

  • Lý do: Trong thời gian vua Asoka trị vì vào giữa thế kỉ thứ 3 TCN, Phật giáo đã phát triển rộng ra nhiều nơi. Một điều tất yếu là có nhiều sự phân hóa ngay trong đạo Phật. Ngoại đạo trà trộn, sửa đổi Kinh Tạng, không giữ giới luật, cho nên vua A Dục đã cử hành cuộc kết tập lần này, viết bằng tiếng Pali trên lá bối.
  • Diễn biến và kết quả: Hội nghị được chủ trì bởi Moggaliputta Tissa, khoảng 1.000 tì kheo ưu tú được cử đến. Hội nghị được tổ chức vào khoảng năm 225 TCN và kéo dài trong 9 tháng. Địa điểm kết tập là thành Pataliputta thuộc về đế chế Magadhan dưới sự khởi xướng và giúp đỡ của vua Asoka. Đây là lần đầu tiên Tam Tạng Kinh bao gồm Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng được hoàn thiện.

Cuối đại hội, Moggaliputta Tissa đã chỉ ra “Những Điểm Dị Biệt” (Kathavatthu) để bác bỏ luận thuyết không hợp lệ của một số bộ phái. Đại hội kết tập này có hạn chế là chỉ được sự công nhận về giáo pháp của tông phái Thượng tọa bộ, tông phái chiếm đa số lúc bấy giờ.
Sau đại hội, Tam Tạng kinh cùng với các chú giải được con trai vua Asoka là Mahinda đem tới Tích Lan. Các kinh điển này sau đó đã được dịch sang tiếng Pali và còn nguyên vẹn cho đến nay.

Kết tập lần thứ IV[sửa|sửa mã nguồn]

Đại hội tại Sri Lanka[sửa|sửa mã nguồn]

Một đại hội của phái Thượng tọa bộ diễn ra vào khoảng chừng năm 25 TCN tại chùa Thūpārama ở kinh đô Anuradhapura của Tích Lan. Cũng có thuyết cho rằng đại hội này diễn ra vào thời gian 400 năm sau khi Gautama qua đời và được vua Vattagàmani bảo trợ. [ 3 ] Lại có thuyết nữa cho rằng Đại hội này diễn ra vào năm 232 TCN ( năm Phật lịch 313 ) thời vua Devanampiya Tissa ( trị vì : 307 TCN – 267 TCN, mất 267 TCN ). [ 4 ]

Thời gian kết tập là vào khoảng 400 năm sau khi Phật nhập Niết Bàn, do vua xứ Tích Lan là Vattagàmani hỗ trợ. Kì kết tập này đã đọc, hiệu đính và sắp xếp lại thứ tự của Tam Tạng kinh, cũng như dịch bộ kinh này sang tiếng Pali. Thuyết này được nhiều học giả công nhận chính là kết tập lần thứ IV của Thượng tọa Bộ (Theravada). Thành quả của cuộc kết tập này của phái Thượng tọa bộ là bộ kinh điển bằng tiếng Pali, được viết lên lá cọ và được truyền bá sang xứ của người Môn ở Myanma, Thái Lan, Campuchia, Lào ngày nay.

Đại hội tại Kashmir[sửa|sửa mã nguồn]

Vua Kanishka ( Ca Nị Sắc Ca Vương ) là Fan Hâm mộ trung thành với chủ với Phật giáo, rất ưa được nghe giảng kinh văn nên thường mời nhiều vị cao tăng đến giảng kinh. Tuy nhiên, ông nhận thấy có rất nhiều sự độc lạ về những kiến giải trong Phật giáo nên khởi tâm bảo trợ cho kì kết tập lần thứ IV. Thời gian kết tập là vào thời gian 400 năm sau khi Phật nhập niết bàn ( thế kỉ thứ 1 ). Địa điểm là vùng Kasmira miền Tây Bắc Ấn Độ. Vì mục tiêu muốn thống nhất những độc lạ và tránh sự trà trộn như những kết tập trước nên Đức vua Ca Nị Sắc Ca Vương ra lệnh tuyển chọn những vị đã chứng đạo quả khắt khe và đã chọn ra 500 vị A La Hán để kết tập Tam Tạng kinh và do Vasamitra ( Bồ Tát Thế Hữu ) chủ tọa với sự trợ giúp của Parsva ( Hiếp Tôn Giả ) .

Sau khi kết tập, vua Kanishka đã ra lệnh khắc lại toàn bộ Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng lên trên những lá đồng, bảo quản tại một nơi cố định, không cho mang ra ngoài. Tuy nhiên, những di vật này đã bị thất lạc, nay chỉ còn phần thích luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa (Abhidharma Mahavibhasa sastra) mà Trần Huyền Trang đã dịch sang tiếng Hán, gồm hai trăm quyển.

Các kì kết tập khác[sửa|sửa mã nguồn]

Các lần kết tập còn lại đều là của riêng bộ phái Thượng tọa Bộ ( còn gọi là Nam Truyền ) thực thi .

Phật giáo suy tàn tại Ấn Độ[sửa|sửa mã nguồn]

Sự suy tàn của đạo Phật tại Ấn Độ hoàn toàn có thể đã mở màn từ thế kỉ thứ 7 và đạo Phật thực sự chính thức biến mất trọn vẹn trên đất Ấn từ cuối thế kỉ thứ 12. Mãi cho đến giữa thế kỉ thứ 20 thì trào lưu chấn hưng Phật giáo tại Ấn mới chính thức mở màn trở lại .
Đại học Nalanda một TT Phật giáo quan trọng ở Ấn Độ ( bị hủy hoại năm 1197 )

Sự phân hoá của Phật giáo[sửa|sửa mã nguồn]

Từ thế kỉ thứ 7 trở đi, đạo Phật đã có nhiều phân hoá. Nhiều tông phái đã Open lại có đường lối dị biệt và nhiều lúc chia rẽ nhau. Thời gian đó, cũng là lúc ra đời những tông phái Mật tông. Các phái này đưa ra rất nhiều hình ảnh Bồ Tát và có nhiều hoạt động giải trí về hình thức tựa như với việc thờ cúng thần linh của Ấn giáo, do đó, không ít đã làm lu mờ những điểm đặc trưng của Phật giáo. Sự bao dung và tự do của Phật giáo cũng là một tiền đề cho sự suy tàn. Các vua trong nước Ấn mặc dầu chuẩn bị sẵn sàng nghe thuyết giảng Phật pháp nhưng vẫn không bỏ quên đạo Bà La Môn và không ngừng phát huy đạo này thay vì Phật giáo .

Quan hệ với Ấn Độ giáo[sửa|sửa mã nguồn]

Ấn Độ giáo ( hay Bà La Môn ) là một tôn giáo ra đời từ thế kỉ 15 TCN, với một điểm đặc trưng là nó chuẩn bị sẵn sàng tiếp thu những nguyên tắc hay khái niệm của đạo khác. Trong số Fan Hâm mộ Phật giáo có rất nhiều tu sĩ phát gốc từ đạo Bà La Môn nên những tư tưởng và nề nếp của Ấn giáo có tác động ảnh hưởng không ít đến đạo Phật. Mặt khác quan trọng hơn là việc Ấn giáo đã mặc nhiên thu nạp những tư tưởng của Phật giáo để làm thành tư tưởng Bà La Môn. ( Trong đó có việc Phật Thích Ca Mâu Ni đã trở thành một vị tiên tri quan trọng của tôn giáo này ). Những cuộc tự thay đổi của Ấn Độ giáo kể từ thế kỉ thứ 7 đã đem lại sinh khí cho tôn giáo này cũng như làm mờ nhạt dần hình ảnh Phật giáo. Sự trộn lẫn của những tư tưởng Phật giáo vào Ấn giáo sâu và rộng đến nỗi một người tầm trung rất khó phân biệt được rõ ràng giữa Ấn giáo và Phật giáo. Mãi cho đến thời nay, khi nghiên cứu và điều tra về Phật giáo và Ấn giáo nhiều tác giả Tây phương vẫn còn hoảng sợ khi phân biệt hai tôn giáo này. Ngoài ra, trong thời hạn đó, với đặc tính dễ thích nghi và tương thích với nhu yếu thờ phụng của người tầm trung ở Ấn Độ, đạo Phật đã dần dà trở thành thứ yếu hay trở thành tôn giáo của những tầng lớp tri thức .

Bị ảnh hưởng tác động bởi sự bành trướng của Hồi giáo[sửa|sửa mã nguồn]

Vào nửa cuối thế kỉ thứ 8, vua Al-Mahdi (775-785) của triều đại Hồi giáo Abbasad đã đem quân tấn công Ấn Độ. Họ đã phá hủy, cướp bóc các tài liệu, công trình, kiến trúc Phật giáo—trong đó quan trọng là trung tâm Phật học Valabhi (Valabhī). Mặc dù sau đó họ không tiếp tục bức hại Phật giáo, nhưng dầu sao đây cũng là bước đầu trong việc hủy hoại Phật giáo tại Ấn Độ, Afghanistan và Trung Đông.

Đến năm 1178, quân đội Hồi giáo của Muhammad Ghuri đã triển khai nhiều cuộc chinh phạt Ấn Độ. Hầu hết những khu công trình Phật giáo đã bị tiêu hủy. Vào năm 1197, TT Phật giáo Nālandā bị tiêu diệt trọn vẹn, kể cả những tăng sĩ. Vikramaśīla cũng bị chiếm năm 1203, chấm hết trọn vẹn một thời đại lịch sử vẻ vang của Phật giáo tại Ấn Độ .

Các bộ phái chính lúc bấy giờ[sửa|sửa mã nguồn]

Các nhánh chính[sửa|sửa mã nguồn]


Một hình ảnh tiêu biểu của tư tưởng Đại thừa ở các nước Quán Thế Âm Bồ TátMột hình ảnh tiêu biểu vượt trội của tư tưởng Đại thừa ở những nước Khu vực Đông Nam Á

Các tông phái khác[sửa|sửa mã nguồn]

Các di tích lịch sử và TT Phật giáo[sửa|sửa mã nguồn]

Bodh Gaya

Đại tháp Giác Ngộ tại thánh địa

Là cái nôi tiên phong của Phật giáo. Các TT Phật giáo đã ra đời ngay từ thời Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni truyền đạo và tăng trưởng mạnh vào thời vua Asoka. Ngày nay, những di tích lịch sử quan trọng ở Ấn Độ là :

  • Bồ-đề đạo tràng (BodhGaya). Đây là nơi mà Thích Ca đã ngồi thiền và thành đạo. Alexander Cunningham và các cộng sự đã tìm ra các chứng tích về các cột trụ của đạo tràng này vào thập niên 1880. Tháp Bồ Đề ngày nay được dựng lại từ thế kỉ thứ 7. Bodh Gaya cách thành phố Gaya 12 km bằng đường bộ. Người ta có thể đến đó qua ngõ Gaya bằng đường hàng không hay dùng xa lộ Deli-Calcuta.
  • Sarnath, còn gọi là Mrigadava (Deer park). Đây là nơi mà Phật bắt đầu thuyết giảng giáo lý cho 5 anh em Kiều Trần Như (vườn Lộc Uyển). Di tích còn sót lại là tháp Dhamekh được xây vào triều đại Gupta thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. (Chữ Phạn dharmekh nghĩa là chánh pháp.)
    Sarnath chỉ cách Varanasi ở Uttar Pradesh khoảng 8 km và có thể đến đó từ Varanasi bởi đường hàng không, hay xe lửa.
  • Kusinagara Đây là nơi mà Phật nhập niết bàn. Qua các khai quật thì người ta đã tìm thấy được các mảnh vỡ của các tượng phật và các cột trụ mà vua Asoka đã xây dựng. Nơi này ngày nay là Kasia, thuộc về Deoria của bang Utta Pradesh.
  • Trung tâm Phật giáo Nalanda. Đây là trường đại học Phật giáo đầu tiên trên thế giới. Nalanda nằm cách Patna 90 km. có thể đến Patna bằng đường hàng không hay đường bộ. Sau đó có thể đến Nalanda bằng đường tàu hoả. Trạm Nalanda nằm trên nhánh đường của Bhaktiyarpur-Rajgir trong phần Eastern Railway. Hoặc từ Patna, có thể dùng xe bus để đến Nalanda.

Chùa Kandy, Sri Lanka, tương truyền là nơi chứa xá lợi răng Phật .Ở Sri Lanka có rất nhiều những di tích lịch sử Phật giáo. Quan trọng nhất gồm có .

  • Anuradhapura: Đây là cố đô của Sri Lanka (thời ấy có tên là Tích Lan, hay Ceylon) có rất nhiều di tích Phật giáo. Trong số đó, đáng chú ý là:
Cây bồ đề được chiết cành từ cây bồ đề gốc nơi mà Thích Ca đã thành đạo. Cây này có tuổi thọ hơn 2100 năm. Cây bồ đề chính ở Ấn đã bị hủy hoại. Hầu hết các nhánh bồ đề hiện tại chiết ra về các nơi khác trên thế giới đều chỉ xuất phát từ cây bồ đề con này.
Đền Thuparama, đây là một trong những ngôi đền cổ nhất của Phật giáo tại Sri Lanka, xây dựng vào thế kỉ thứ 3 TCN dưới triều đại vua Devanmpiyatissa. Đền này có đặt một mảnh vụn xương vai phải của Phật. Ngôi đền đã được trùng tu và xây lại nhiều lần. Ngôi đền hiện tại là phiên bản năm 1862.
Khu đền Ruvanveli đã được xây cất bởi vua Dutugemunu vào thế kỉ thứ 2 TCN. Đây là một kiến trúc khổng lồ cao 103 mét và chiếm chu vi 286 mét. Khu di tích này được được phát hiện vào đầu thế kỉ 20 và được phục chế theo đúng kích thước ban đầu.
Anuradhapura, cách Colombo 250 km về phía bắc. Từ Colombo có nhiều chuyến xe buýt Colombo-Anuradhapura mỗi ngày. Phương tiện tàu hoả từ Colombo đến Anuradhapura cũng có.
  • Tượng Phật ngồi thiền Lord Buddha tìm thấy ở Polonnaruwa. Tượng được tạc vào thành núi đá bằng granit vào thế kỉ thứ 12 cao 14 mét. Gần đó, cũng có hai khối tượng hình sư Anan đứng khoanh tay bên cạnh Thích Ca tịch diệt trong tư thế nằm. Polonnaruwa nằm ở phía Đông Sigiriya, tốn chừng 1,5 giờ đi xe buýt.
  • Quần thể tượng và tranh Phật trong các hang động ở Dabulla. Đây là nơi trú ẩn của vua Valagam Bahu ở thế kỉ thứ 1 TCN. Tổng cộng hơn 80 hang động đã được các sư thời đó dùng để tọa thiền. 5 trong tổng số các hang này có nhiều tượng và tranh Phật được kiến tạo vào thời gian đó. Dambulla nằm cách Kandy 72 km về hướng bắc và cách Anuradhapura 64 km về hướng đông nam trên đường nối hai thành phố này. Từ đường cái người ta phải đi bộ lên cao 150 mét qua các bậc đá trọc. Nên mang theo dù khi thăm viếng.

Thánh địa LumbiniNepal cũng có nhiều TT Phật giáo quan trọng như :

  • Lumbini, nơi Phật Thích Ca ra đời. Vùng di tích tìm thấy ở hướng Tây Nam là một đồng bằng ở chân của rặng núi Churia (xem thêm bản đồ trong bài Thích Ca Mâu Ni). Trước đây người ta không xác định được địa danh này. Mãi đến 1 tháng 12 năm 1886, nhà khảo cổ người Đức Dr. Alois A. Fuhrer mới tìm thấy cột tháp của vua Asoka ghi lại làm xác nhận nơi ra đời của Thích Ca Mâu Ni.
    Để đến Lumbini, dùng đường hàng không từ Kathmandu tới Bhairawa. Từ nơi này có các loại xe buýt hay taxi đưa đến Lumbini cách đó 22 km.
  • Kathmandu: Đây là thành phố mà có khoảng 1/3 số người theo Phật giáo. Đáng để ý có:
Tháp Swayambhunath (có nghĩa là “tự tại”) ở Kathmandu. Nằm về phía tây của trung tâm thành phố. Tháp này đã có 2000 năm tuổi. Tháp này nằm trên đỉnh của một đồi cao 77 mét và có 350 bậc thang đi bộ. Đỉnh tháp là các khung thiếp vàng của các mắt Phật nhìn về bốn phía. Giữa hai mắt thường có thêm mắt thứ 3 tượng trưng cho khả năng thiên nhãn thông.
Tháp Bodhnath (hay Boudhanath) ở Kathmandu. Đây là tháp lớn nhất Nam Á cách 5 km về phía đông của Katmandu. Đây được xem là trung tâm Phật giáo Tây Tạng quan trọng nhất bên ngoài Tây Tạng. Trong khuôn viên của tháp có 35 thiền đường. Tháp có thể được xây vào thế kỉ thứ 14.
Có một ít đường bay đến Kathmandu. Sân bay quốc tế ở đó là Tribhuvan.

Tượng Phật tạc vào núi đá khổng lồ ở Bamiyan

Afghanistan nằm trên con đường tơ lụa (the Silk Road), đường bộ huyết mạch giao thương Á-Âu trong lịch sử loài người. Đạo Phật trước khi truyền sang Trung quốc cũng đã lan đến xứ này từ rất sớm, khoảng thế kỉ thứ 2 TCN. Vua Kaniska, một Phật tử, đã cai trị Afghanistan từ thế kỉ thứ 1 TCN. Đến thế kỉ thứ 3, thời đại vua Asoka, thì Phật giáo ở đây trở nên hưng thịnh. Một trung tâm Phật giáo quan trọng hình thành vào cuối thế kỉ thứ 1 tại nơi này là Gandhara.

Grandhara là một trung tâm Phật giáo rất lớn. Nghệ thuật Phật giáo ở đây đã đạt đến đỉnh cao. Các thành phố chính của văn minh Granhara bao gồm Zaranj, Bamiyan, Paktia, Kabul, Zabul, và Peshawar. Một trong những công trình nghệ thuật Phật giáo tiêu biểu là các tượng Phật tạc vào núi đá khổng lồ ở Bamiyan. Các công trình này được xây dựng khoảng thế kỉ 2-5. Pho tượng lớn nhất cao khoảng 52 mét (pho nhỏ hơn cao 35 mét). Nghệ thuật này chịu ảnh hưởng kiến trúc văn hoá của Hy Lạp, Ba Tư, Trung và Nam Á. Công trình đã bị phá hủy một lần bởi Hephthalites (White Huns, Yanda, 厌哒) vào thế kỉ thứ 6. Lần đó, pho tượng lớn nhất vẫn còn. Sau đó, các tượng đã bị chính quyền Hồi giáo cực đoan Taliban phá hủy hoàn toàn vào tháng 3 năm 2001.
Ngoài ra, trong năm 1994 thì thư viện quốc gia Anh công bố tìm được một di chỉ kinh Phật cổ lấy từ Grandhara bao gồm nhiều mảnh gốm. Tiếp sau đó, Đại học Washington (Hoa Kỳ) vào tháng 8 năm 2002 cũng tìm được thêm 8 mảnh vỡ của cùng một di chỉ này. Việc nghiên cứu giải mã nội dung đã được tiến hành trong nhiều năm qua và đang được xuất bản từ từ.

Potala, nơi từng là chỗ ở của Đạt Lai Lạt MaCung điện

Tây Tạng là quốc gia mà trước khi bị Trung Quốc chiếm (1951) có hơn 99% dân số theo Phật giáo mà đa số là Mật tông. Thủ đô Tây Tạng là Lhasa và cũng là trung tâm Phật giáo quan trọng. Sau khi bị chiếm đóng, hàng chục ngàn chùa chiền bị tiêu hủy và rất nhiều di sản quý liên quan tới Phật giáo ở đây bị cướp phá nghiêm trọng. Số di tích còn sót lại hiện nay thuộc về thành phố Lhasa
Lhasa Thành phố ở độ cao gần 3700 mét này có từ thế kỷ thứ 7 và ngay từ khi thành lập nó đã dung nạp Phật giáo. Hai địa danh còn giữ lại và được chính quyền Trung Quốc trùng tu cho mục tiêu du lịch là đền Jokhan và điện Potala
Chùa Jokhan (hay Đại Chiêu) ngày trước là trung tâm của bộ phái Shakya (Thích Ca) thuộc Mật tông. Trên đỉnh chùa có hình tượng bánh xe Pháp Luân. Ngôi chùa là một công trình kiến trúc khổng lồ với 3 tầng bên trong phủ đầy bởi các tượng Phật. Đáng kể nhất là tượng Jowo Shakya (Thích Ca khi 12 tuổi). Nơi này là trung tâm cho hàng trăm ngàn người Tây Tạng đến hành hương.
Điện Potala, nghĩa là “thánh địa Phật giáo”, là nơi mà các Dalai Lama trú ngụ. Đây là một biểu tượng của Phật giáo Tây Tạng. Điện này được xây cất từ thế kỉ thứ 7. Dáng hiện tại của nó là kiến trúc đã trùng tu vào thời gian của Dalai Lama thứ 5. Điện này có 13 tầng cao 117 mét gồm gần 1000 phòng là nơi làm việc ngày xưa của chính quyền Tây Tạng.

Miến Điện, nay là Myanma, là một vương quốc mà Phật giáo đã truyền đến rất sớm. Phật giáo là quốc giáo của xứ này. Truyền thuyết cho rằng Phật giáo đã gia nhập xứ này từ khi Phật Thích Ca còn sống. Hiện tại hầu hết Phật tử theo Thượng tọa bộ .
Tháp Shwedagon tại Yangon Myanma, body toàn thân tháp được dát vàng ước đạt lên đến 30 tấn
Chùa Thiếu Lâm ( Thiếu Lâm Tự ), nơi khởi xướng của Thiền tông Nước Trung Hoa và bộ môn kungfu Thiếu LâmPhật giáo tăng trưởng rất sớm ở Trung Hoa. Do địa phận to lớn nên có nhiều di tích lịch sử tương quan đến lịch sử vẻ vang Phật giáo. Đáng kể là :
Trong thế kỷ qua, những nhà nghiên cứu Iran cho biết rằng có một số ít chuyện tiền thân Đức Phật ( Jataka stories ) từng được biết đến ở Iran dưới nhan đề là Pancatantra, được chuyển dời sang tiếng Ba Tư vào thế kỷ thứ 6 theo chiếu chỉ của vua Khusru, và được dịch sang tiếng Ả Rập và tiếng Syria vào thế kỷ thứ 8, dưới tựa đề là Kalilag va Damnag. Bản dịch tiếng Ba Tư này về sau lại được chuyển ngữ sang tiếng Hy Lạp, tiếng La Mã và tiếng Do Thái. Đến thế kỷ thứ 8, quyển sách Cuộc đời của Đức Phật ( The Life of Lord Buddha ) được ông John dịch sang tiếng Hy Lạp, tác phẩm rất được phổ cập ở những nước Trung Đông thời bấy giờ. Theo ông Rashid al-Dìn, một nhà sử học sống vào thế kỷ 13, ghi nhận rằng có tối thiểu mười một bộ Kinh Phật được chuyển ngữ và lưu hành rộng khắp trên quốc gia Ba Tư vào thời đó, trong số này có kinh Vô Lượng Thọ ( Sukhavati – Vyuha sutra ) và kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương ( Karanda-vyuha ) được ghi nhận còn hiện hữu cho tới thời nay. Gần đây, người ta còn tìm thấy thêm 1 số ít Kinh như Tương Ưng Bộ kinh ( Samyutta Nikaya ), Tăng Chi Bộ kinh ( Anguttara Nikaya ) và Thọ Ký Di Lặc kinh ( MaitreyaVyakarana ). [ 5 ]Mặc dù nền văn hóa truyền thống của Iran và Ả Rập được xem là có ảnh hưởng tác động qua một số ít mẫu chuyện tiền thân của Đức Phật, nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm thấy một bản dịch tiếng Ba Tư, Ả Rập hay ngôn từ Trung Đông nào khác. Sự ảnh hưởng tác động của Phật giáo trên nền văn học Ba Tư mà hiện tại tất cả chúng ta thấy qua những tác phẩm của những nhà sử học, địa lý học và đặc biệt quan trọng là nhân học chỉ là những từ ngữ Phật giáo như al Budd ( Đức Phật ), al Budasf ( Bồ tát ), v.v… Trong văn chương của Ba Tư, đặc biệt quan trọng ở phía Đông Ba Tư, thường miêu tả những hình ảnh và biến cố của PG từ những ngôi chùa ở vùng Merv và Balkh. Về kiến thức và kỹ năng nghi lễ của Phật giáo có liên hệ với một bảo tháp ở Balkh được thuật lại bởi nhà sử học Ba Tư Ibn al-Faqih vào thế kỷ 10 và sử gia người Syria, ông Yaqut, vào thế kỷ 13. Về mặt hiểu biết Phật giáo của người Ba Tư còn rất thô thiển và hạn chế, vì nó phải chịu ràng buộc vào sự thịnh suy của Phật giáo tại những nước Trung Á và Afghanistan, mặt khác, sự tàn lụi của Phật giáo tại Ấn Độ theo sau cuộc tiến công quyết liệt của đội quân Hồi giáo, cũng ảnh hưởng tác động đến sự tăng trưởng Phật giáo của những vương quốc lân cận. [ 6 ]Phật giáo tại Iran được ghi nhận là tăng trưởng và thông dụng trong hai thời kỳ, thứ nhất là đầu thế kỷ thứ 3 lê dài đến thế kỷ thứ 7 khi gặp sự tiến công của trào lưu Hồi giáo ; thứ hai, Phật giáo lại một lần nữa được phục hưng bởi sự chinh phục Ba Tư của người Mông Cổ vào đầu thế kỷ 13 .Về con đường truyền bá Phật giáo vào Iran hoàn toàn có thể là gắn liền với hai hướng như sau : Thứ nhất, con đường truyền giáo được khởi xướng vào triều đại của vua A Dục. Sử liệu ghi nhận rằng nhiều tăng sĩ đã được phái đến truyền pháp tại thành phố Bactria và Gandhara thuộc Afghanistan, nhờ vậy mà Phật giáo đã tăng trưởng tại xứ sở này và sau cuối tràn qua Khurasan, ( một thành phố nằm về phía Đông Bắc của Iran thời nay ). Thứ hai, Phật giáo được truyền vào Iran qua ngã đường tơ lụa ( silk route ), con đường này nối tiếp Đông Tây, xuất phát từ vùng Đông và Tây Ấn, do những nhà buôn người Ấn khám phá để nối kết với những vương quốc có mối liên hệ về thương mại. Các nhánh mà con đường tơ lụa đi qua là Batria và Gandhara để đi tới vùng Địa Trung Hải và những nhà buôn PG đã có thời cơ để gieo rắc hạt giống Bồ Đề vào những nơi này. Sử liệu cũng ghi nhận rằng vào đầu thế kỷ thứ 2 trước CN, những nhà buôn Ấn thường dừng chân tại vịnh Ba Tư và Ả Rập, điều này lý giải tại sao những địa điểm trong vùng này mang dấu vết của ngôn từ Ấn, như but hay hind ( Ấn Độ ) và bahàr, chữ Sanskrit là vihàra ( tu viện Phật giáo ) .Mặc dù Hỏa giáo ( Zoroastrianism ) là một đạo có lợi thế tại Iran, nhưng Phật giáo vẫn được truyền nhập và phổ cập, điều này được chứng tỏ bởi tiền đồng Phật giáo của Peroz, con trai của vua Ardahir I ( 226 – 41 sau CN ), một người theo đạo Phật và Hỏa giáo. Tuy nhiên, vào thế kỷ thứ 3 cũng có một vài chứng cứ về việc Phật giáo gặp phải sự kháng cự của nhà cầm quyền. Ông Kartir, một vị tu sĩ uy tín của đạo Thờ Lửa, ghi lại trên bia đá rằng Phật giáo và 1 số ít tôn giáo khác tại vương quốc Sassanid đã bị đàn áp. Al-Bìrùnì, một sử gia Ba Tư ở vào thế kỷ 11 cũng chứng minh và khẳng định rằng Phật giáo đã bị áp lực đè nén trong thời kỳ này trước lúc Đạo Hồi ( một tôn giáo lớn do nhà tiên tri Muhammad ( 570 – 632 ) sáng lập tại nước Ả Rập vào thế kỷ thứ 7 trước CN ) truyền đến Iran .Bằng chứng đơn cử về sự sống sót của Phật giáo tại Iran thời nay rất mỏng dính, phần nhiều không còn gì cả. Các hang đá tự tạo rất công phu ở Chehelkhaneh và Haidari gần vịnh Ba Tư được xem như thể những tu viện Phật giáo, được tạo dựng theo kiến trúc của Ấn Độ và Trung Á. Rủi thay, không có một dẫn chứng rõ ràng nào còn sống sót để xác định sử liệu này. Truyền thuyết của Ba Tư kể rằng, trong hai thế kỷ thứ 8 và 9, tại Ba Tư có một hoàng tộc theo Phật giáo rất hùng mạnh mang tên là Barmakid ở thủ phủ Balkh. Nhiều tác giả người Ả Rập cũng thừa nhận điều này như thể một đề tài truyền khẩu. Hoàng tộc này đã kiến thiết xây dựng và trông nom nhiều Tu viện Phật giáo Nawbahàr nằm rải rác ở hướng đông bắc Iran. Không may thay, Hoàng tộc này đã bị sụp đổ theo sau cuộc thương thuyết bất thành với triều đình Abbasid đặt tại Baghdad. Sau đó, có vẻ như mạng lưới hệ thống tu viện Nawbahàr đã bị tịch thu trước thời gian Hồi giáo xâm lăng đến vùng này, vì khi người Hồi giáo đến thì hình bóng của Phật giáo không còn thấy ở đó nữa. Tiếp theo đó, những ngôi Tu viện Phật giáo Nawbahàr được chuyển sang làm thánh đường của Hồi giáo. [ 7 ]Thời kỳ Phật giáo được xem là tăng trưởng tại Iran là vào đầu thế kỷ 13 khi Thành Cát Tư Hãn ( Genghis Khan, 1162 – 1227 ) xâm lăng quốc gia này vào năm 1218. Vị vua Mông Cổ này và những quần thần của ông đều là Phật tử, nên những vị là những nhà bảo lãnh cho Phật giáo tại Ba Tư cho đến khi vua Ghazan Khan đổi theo Đạo Hồi vào năm 1295. Trong thời hạn còn ủng hộ Phật giáo, những vua Mông Cổ đã có những dự án Bất Động Sản kiến thiết xây dựng chùa chiền một cách rất quy mô tại vương quốc Maragheh, ( nằm phía đông bắc Iran ) và nhiều nơi khác, nhưng kế hoạch này đã bị bãi bỏ theo lệnh của vua Ghazan, tiếp đó những ngôi chùa đã bị hủy hoại hoặc chuyển qua làm Thánh đường Hồi giáo. Rất hoàn toàn có thể những vật chứng trong thời kỳ này có hai hang động tự tạo ở Chehelkhaneh và Haidari, cả hai nơi đều ở gần cố đô Mông Cổ Maragheh. Cả hai hang động rất nổi tiếng này đã được những họa sỹ vẽ lại bằng tranh màu nước để trang trí trong những thánh đường Hồi giáo. Những nỗ lực sau này của vua Mông Cổ Uldjaitu ( 1305 – 16 ) bỏ Đạo Hồi và quay trở lại với Phật giáo để phục hưng lại Phật giáo ở Ba Tư, nhưng tiếc thay, Phật giáo đã biến mất tại xứ sở này vào hậu bán thế kỷ 14 .Ngày nay, hình ảnh của Phật giáo tại Iran, còn chăng chỉ là những lá cờ được trang hoàng trên những ngôi tháp ở tại thành phố Kavkaz, mà người ta tin rằng nó hoàn toàn có thể là những tác động ảnh hưởng còn sót lại của người Mông Cổ trên xứ sở Trung Đông này. [ 8 ]
Chùa Dâu, ngôi chùa Phật giáo tiên phong được thiết kế xây dựng tại Nước TaPhật giáo được truyền đến Nước Ta cách nay khoảng chừng 2000 năm, do nhà sư người Ấn Độ là Mahajivaka ( Ma Ha Kỳ Vực ) truyền bá đạo Phật vào Nước Ta năm 188 trước Công Nguyên. Có nhiều dẫn chứng cho thấy Phật giáo gia nhập vào Nước Ta tại thời gian trước sau công lịch xê dịch một, hai thế kỉ. Đây cũng là lúc mà văn minh Trung Hoa phát huy ảnh hưởng tác động tại những vương quốc lân cận theo phương pháp vừa cưỡng bức vừa tự giác. Vì vậy, tuy hoàn toàn có thể được coi là xứ sở tiếp đón Phật giáo sớm hơn, là nguồn cung ứng tu sĩ và kinh sách tiên phong cho Trung Quốc, nhưng Nước Ta lại chịu một sự truyền giáo ngược khi những văn bản kinh sách bằng chữ Hán được truyền vào từ Trung Hoa. Nước Ta, cũng như những nước lân bang, khó tránh khỏi tác động ảnh hưởng về văn hóa truyền thống và truyền thống lịch sử tôn giáo đó .Thiền Uyển Tập Anh ghi nhận cuộc bàn luận giữa thiền sư Thông Biện và Thái Hậu Phù Thánh Linh Nhân ( Ỷ Lan ) ( khi bà hỏi về nguồn gốc Đạo Phật Nước Ta vào dịp những cao tăng trong nước tập hợp tại chùa Khai Quốc ( nay là chùa Trấn Quốc – TP.HN ) vào ngày rằm tháng 2 năm 1096 ) Thông Biện dẫn chứng lời pháp sư Đàm Thiên ( 542 – 607 TL ) đối thoại với Tùy Cao Đế ( 541 – 604 ) : ” Một phương Giao Châu, đường sang Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông ( Nước Trung Hoa ) chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 40 người, dịch kinh được 15 quyển, vì nó có trước vậy, vào lúc ấy thì đã có Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó ” .Nước Ta cũng đã trải qua rất nhiều cuộc cuộc chiến tranh với ngoại bang và nội chiến. Hệ quả tất yếu là hầu hết những khu công trình kiến trúc rực rỡ nói chung, và Phật giáo nói riêng, bị huỷ hoại hầu hết. Chưa kể ngay cả trong thời bình những phù điêu tượng khắc hay thẩm mỹ và nghệ thuật cổ Phật giáo Nước Ta cũng đã bị thất thoát ra quốc tế. Hiện tại những vùng còn lại những di chỉ quan trọng là :
Haeinsa (Hải Ấn) nơi lưu giữ mộc bản Tam Tạng kinh Triều TiênChùaĐạo Phật được truyền sang bán đảo Triều Tiên khoảng chừng cuối thế kỷ thứ 4 ( năm 372 ). Do lịch sử dân tộc tăng trưởng đặc trưng, tại đây xuất hiện đủ những tông phái lớn Thượng tọa bộ, Đại thừa ( kể cả Thiền tông ) và Mật tông. Các di tích lịch sử ở đây rất nhiều nhưng cũng bị tàn phá do cuộc chiến tranh hay do sự không cho hoạt động giải trí như là dưới triều Joseon ( 1395 – 1910 ). Hơn nữa từ đầu thế kỷ 20 ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, do chủ trương hủy hoại tôn giáo, những khu công trình Phật giáo ở nơi này đã trọn vẹn bị hủy hoại. Nam Hàn ngày này có khoảng chừng 20 % dân theo Phật giáo và có đến hàng chục ngàn chùa chiền. Do đó, rất khó để liệt kê hay nhìn nhận hết những khu công trình quan trọng ra. Ở đây chỉ hạn chế vài kiến trúc Phật giáo tiêu biểu vượt trội .
Tháp Phật giáo lớn nhất Phra Pathom, Nakhon Pathom, TháiNhiều người tin là Phật giáo đã truyền tới Đất nước xinh đẹp Thái Lan trong thời hạn vua Asoka ở Ấn Độ đưa người đi truyền giáo vào thế kỷ thứ 3 TCN. Một cách chắc như đinh thì Phật giáo và Ấn Độ giáo đã đến đây qua những ngõ giao thương mua bán đường thủy hay qua những nước lân bang như Miến Điện và Campuchia vào thế kỷ thứ 6. Các di tích lịch sử ở đây rất nhiều, nhưng hầu hết được xây sau thế kỉ 14. Những khu công trình hay TT có giá trị lịch sử dân tộc lớn gồm có :

  • Phra Pathom Chedi thuộc tỉnh Nakhon Pathom, 56 km phía Tây Bangkok. (Chữ chedi có nghĩa là “tháp”). Nakhon Pathon được xem là nơi xuất phát đạo Phật đầu tiên ở Thái Lan. Ngôi tháp Phra Pathom cao 120 m với đáy tròn bán kính 233,5 m. Tháp hiện nay đã được khởi công vào thời vua Mongkut Rama IV (1804-1868) trong vòng 17 năm, nhằm bao bọc cho một tháp nhỏ hơn được cho là có từ hơn 2000 năm tuổi. Đây là tháp lớn nhất thế giới.
  • Wat Mahathat (chữ wat có nghĩa là “đền” hay “chùa”). Đây là công trình kiến trúc tiêu biểu cho ảnh hưởng của văn hoá Khmer (giai đoạn nghệ thuật Tích Lan). Khu đền nằm ở trung tâm thành phố Ayutthaya, được xây dựng vào thời vương quốc Sukhothai, có tổng cộng hơn 200 ngôi tháp. Cứ mỗi ngôi tháp lớn dạng đài sen sẽ được vây quanh bởi 8 tháp nhỏ hơn. Đền này có lẽ xây vào năm 1374, nơi đây ngày trước được dùng để thờ mảnh xương Phật. Ngày nay thì tháp trung tâm đã bị đổ nát do thời gian.
    Ngoài ra, tại Ayutthaya còn có các đền thờ Phật nổi tiếng là Phra Si Sanphet (xây năm 1448 với 3 ngôi tháp hình chuông úp là biểu tượng cho Ayutthaya), Ratchaburana (xây vào thế kỉ 15), và Lokaya Sutha (chưa xác định chính xác niên đại).

Tượng đầu Phật bị cây bao trùm tại Wat Mahathat, Ayutthaya

  • Trung tâm Phật giáo Haripuchai, ngày nay thuộc về thành phố Chiang Mai. Đây là trung Phật giáo lớn của Thái Lan khoảng 1000 năm trước. Hiện tại còn lại rất nhiều chùa tháp. Trong số đó, có tháp Wat Chiang Man dựng năm 1306. Đặc biệt, bên trong đền có một bức tranh Phật được cho là mang về từ Tích Lan 2000 năm trước đây và một tượng Phật bằng tinh thể (crystal) lấy về từ Lopburi có khoảng 1800 năm tuổi.
    Ngoài ra, trung tâm Haripuchai còn các đền Phật khác như là: Chedi Luang (xây năm 1391), Chet Yot (xây cuối thế kỷ 15), Doi Suthep (xây năm 1386), Phra Sing (xây năm 1345) và Wat Suan Dok (xây vào thế kỷ 16).

Một số thuyết cho rằng đạo Phật đã gia nhập vào xứ Campuchia vào thế kỉ thứ 3 TCN. Tuy nhiên, hoàn toàn có thể đạo Phật đã gia nhập cùng lúc với đạo Bà La Môn qua việc lan rộng ra giao thương mua bán với Ấn Độ sớm nhất là vào thế kỷ thứ 1 TCN. Nhưng lúc đó, trong suốt thời hạn dài của vương quốc Phù Nam, đạo Bà La Môn đã hưng thịnh hơn đạo Phật. Đến thế kỷ 12, vua Jayavarman II đã cho thiết kế xây dựng ngôi đền Hindu khổng lồ Angkor để thờ thần Vishnu. Đền này lan rộng ra thành Angkor Wat. Nhưng đến triều vua Jayavarman VII, trị vì từ 1181 đến 1215, Phật giáo đã gần như thay thế sửa chữa trọn vẹn vai trò của Ấn Độ giáo, Angkor Wat chuyển sang thờ Phật và vua Jayavarman VII đã xây nhiều đền thờ Phật khác trong thành Angkor Thom ( ở gần Angkor Wat ) mà nổi tiếng nhất đền Bayon .

Angkor Thom là một công trình Phật giáo lớn nhất ở Campuchia được xây vào cuối thế kỷ 12, nay thuộc về tỉnh Siem Reap. Nó có đặc điểm là chịu rất nhiều ảnh hưởng của kiến trúc Bà La Môn. Thành có hào nước bao bọc rộng 100 mét cặp theo bốn vách tường cao 8 mét làm thành một khu vực hình vuông mỗi cạnh khoảng 3 km theo các hướng chính. Các cổng lớn được trổ ngay trung điểm của các bức tường cho các hướng Tây, Nam và Bắc có các cầu bắc qua. Riêng hướng Đông có hai cổng vào. Các đường dẫn tới cổng vào có các dãy 54 hình tượng bằng đá.

Chùa Todaiji, ngôi chùa bằng gỗ lớn nhất quốc tếĐạo Phật chính thức gia nhập vào Nhật Bản từ thế kỉ thứ 6. Hai TT Phật giáo tại đây là cố đô Nara, Kyoto, và Tokyo

Phật giáo thời nay[sửa|sửa mã nguồn]

Niên biểu lịch sử dân tộc Phật giáo[sửa|sửa mã nguồn]

Sự tăng trưởng của Phật giáo thời vua Asoka

Source: https://vvc.vn
Category : Từ Thiện

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay