Chuyện tình bi tráng của nguyên mẫu cô du kích trong bài “Núi Đôi”

Bài thơ Núi Đôi được nhà thơ Vũ Cao sáng tác từ một chuyện tình có thật, bối cảnh có thật. Theo lời tác giả, trong bài thơ duy nhất chỉ có câu “Bảy năm về trước em mười bảy/Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng” là chi tiết hư cấu.

Người 17 tuổi đã trẻ nhất làng?

Nhà thơ Vũ Cao từng nói, nếu không có vật liệu đời sống hàng ngày thì ông không viết được. Ông kể rằng bài thơ được ông viết vào một ngày cuối năm 1956. Hồi đó ông về công tác làm việc ở sư đoàn 312, đóng quân ở huyện Sóc Sơn ( TP.HN ), cạnh đó có ngọn núi Đôi .

Một hôm, theo mấy người dân đi chợ, ông nghe họ kể chuyện tình của một cô gái du kích trong làng yêu một anh trai làng, rồi anh đi bộ đội. Khi anh trở về thì cô gái đã hy sinh.

{keywords}
Liệt sỹ Trần Thị Bắc, hình mẫu của nhân vật cô du kích trong bài thơ Núi Đôi .

Vũ Cao liền tìm đến thăm mộ người nữ liệt sỹ đó ở xóm Chùa, thôn Xuân Đoài ( còn gọi là Xuân Dục – Đoài Đông ), thuộc xã Phù Linh ( còn gọi là Lạc Long ). Đến tận nơi và nghe người dân kể lại câu truyện tình giữa anh bộ đội và cô du kích, cảm hứng Open khiến ông đã chấp bút viết ra bài thơ Núi Đôi …
Cả tên làng, tên chợ, tên người và quang cảnh đều trọn vẹn có thật. Mộ cô gái hiện vẫn còn. Chỉ có anh bộ đội là tình nhân của cô du kích thì lúc ấy Vũ Cao không gặp được, không rõ còn sống hay đã mất .
Về nguyên do tại sao ngay trong hai câu thơ đầu, ông lại cho rằng đôi nam nữ, trong đó cô gái 17 tuổi và chàng trai đôi mươi là “ trẻ nhất làng ” ?. Vũ Cao sau này nói rằng, ngay chính ông cũng … không hiểu vì sao ông lại viết như vậy .
Ông kể : “ Quả thật hồi đó trong làng còn có cả trẻ nhỏ và thanh thiếu niên cùng trang lứa với họ. Có lẽ tôi đã quá cảm động trước chuyện tình đẹp như mơ và cũng đầy diễn biến thảm kịch của đôi lứa ấy mà “ thậm xưng ” lên như vậy .
Tuy nhiên, nói trẻ nhất làng thì cũng có góc nhìn không ngoa. Người ta tiếc cho cuộc tình không thành ở lứa tuổi 17, lứa tuổi nhiều sức sống nhất, yêu tha thiết nhất, thế mà giặc Pháp xâm lăng quê nhà, giết cô du kích ” .

Sự đồng cảm lạ kỳ giữa nhà thơ – hình mẫu

Hai ngọn núi Đôi giờ đây vẫn còn, người dân ở khu vực xã Phù Linh đều biết câu truyện trong bài thơ cùng tên ngọn núi, hỏi ai cũng đều hoàn toàn có thể nhận được câu vấn đáp : “ Cô ấy chính là người làng này ” .

Nhà thơ Vũ Cao ( 1922 – 2007 ) quê tại xã Liên Minh, huyện Huyện Vụ Bản, tỉnh Tỉnh Nam Định ( cùng quê với nhạc sĩ Văn Cao ) .
Ông sinh trong một mái ấm gia đình nho học và hoạt động giải trí văn học khá sớm. Vũ Cao được Tặng Trao Giải Nhà nước về Văn học nghệ thuật và thẩm mỹ năm 2001 .

Ông có hai người em trai đều là nhà văn: Vũ Ngọc Bình và Vũ Tú Nam.

Nhân vật nữ trong bài thơ chính là liệt sỹ Trần Thị Bắc, con gái đầu trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Lớn lên trong thời kỳ giặc Pháp xâm lược, năm 15 tuổi Bắc đã tham gia các hoạt động đoàn thể. 17 tuổi cô vào đội du kích với nhiệm vụ làm giao thông liên lạc, tiếp tế cho đội du kích rồi được giao cả ba nhiệm vụ: quân báo, cứu thương và binh vận.
Nhân vật nữ trong bài thơ chính là liệt sỹ Trần Thị Bắc, con gái đầu trong một mái ấm gia đình có truyền thống cuội nguồn yêu nước. Lớn lên trong thời kỳ giặc Pháp xâm lược, năm 15 tuổi Bắc đã tham gia những hoạt động giải trí đoàn thể. 17 tuổi cô vào đội du kích với trách nhiệm làm giao thông vận tải liên lạc, tiếp tế cho đội du kích rồi được giao cả ba trách nhiệm : quân báo, cứu thương và binh vận .Ngày 21/3/1954, dẫn một đoàn cán bộ đi công tác làm việc, khi quay trở lại núi Đôi thì Bắc gặp ổ phục kích của địch. Cô giao liên dù bị địch bịt miệng nhưng vẫn kịp thời la lớn để cảnh báo nhắc nhở những người trong đoàn cùng đi phía sau, giúp những cán bộ chạy thoát .
Tức tối, địch tra hỏi nhưng không khai thác được thông tin gì từ cô du kích dũng mãnh này. Giặc Pháp xử bắn Bắc ngay tại chỗ. Khi đồng đội tìm đến nơi thì Bắc đã tắt thở. Đồng đội đắp mộ cho cô ở khu vực cầu Cốn, Vệ Sơn, xã Tân Minh .
Người ta cũng xác lập được nhân vật “ Anh đi bộ đội sao trên mũ ” ấy cũng là một người có thật : ông Trịnh Khanh, người cùng xã Phù Linh. Theo lời ông Khanh kể lại, ông và cô Bắc quen nhau trong thời hạn Bắc đang học y tá, và đơn vị chức năng của ông đóng quân gần đó. Là đồng hương nên có nhiều điều quý mến nhau, giữa đôi trai gái này đã hẹn ước với nhau trước khi cô Bắc học xong khoá y tá rồi quay về Phù Linh .
Đầu năm 1953, ông Khanh và cô Bắc gặp lại nhau và hai người quyết định hành động tổ chức triển khai đám cưới ngay tại đơn vị chức năng của chú rể. Đám cưới tổ chức triển khai đơn sơ, đại diện thay mặt họ nhà trai là đồng đội cùng đơn vị chức năng, đại diện thay mặt họ nhà gái là mẹ của Bắc .
Vợ chồng sống với nhau được hai ngày thì chia tay, ông Khanh theo đơn vị chức năng chuyển quân đến khu vực mới, chị Bắc trở về quê nhà Phù Linh. “ Tôi không ngờ đó là cuộc chia tay vĩnh viễn “, ông Khanh nhớ lại .
Ba tháng sau ngày cưới, ông Khanh nhận được tin vợ mình đã hi sinh. Đau đớn nhưng không biết làm thế nào, ông liên tục theo đơn vị chức năng bước vào những trận đánh mới .

{keywords}
Xác lô cốt của giặc Pháp trên núi Đôi .

Khi Hiệp định Genève được ký kết, một buổi chiều cuối năm 1954, người ta nhìn thấy một anh bộ đội vai đeo túi balo bước về, nhưng không vào làng ngay mà ngồi thẫn thờ bên ngôi mộ chi Bắc ven gò Cầu Cốn. Ông Khanh nghẹn ngào “ Anh ngước nhìn lên hai dốc núi / Hàng cây, bờ cỏ, con đường quen / Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói / Núi vẫn đôi mà anh mất em ”. “ Không hiểu vì sao nhà thơ Vũ Cao lại hoàn toàn có thể đồng cảm, hiểu tâm trạng của người trong cuộc đến như vậy ”, ông Khanh nói .
Năm 1975, sau khi quốc gia thống nhất, ông Khanh đã tới tìm gặp nhà thơ Vũ Cao, nhà thơ lúc đó mới bàng hoàng : ” Thế Bắc có chồng rồi à ? ” .

Theo nhà thơ Vũ Cao, khi mới bắt gặp câu chuyện, ông đã dự định sẽ viết một truyện ngắn về đề tài này chứ không phải là một bài thơ. “Không hiểu vì sao, sau khi đi thực tế, tứ thơ dâng lên và bài thơ ra đời”, ông kể lại.

Hàng chục năm sau khi bài thơ ra đời, nhiều bạn đọc còn nhầm tưởng toàn cảnh và trường hợp trong bài thơ là của chính tác giả. Trong một lần trò chuyện với sinh viên Trường cao đẳng Sư phạm Thành Phố Hà Nội, thậm chí còn còn có một cô sinh viên nước mắt lưng tròng thầm thì với nhà thơ “ Cháu thương bác quá ” .
Một nhà thơ từng nói, Vũ Cao là nhà thơ hiền hiếm có. Rằng Vũ Cao nổi tiếng sau kháng chiến chống Pháp với bài thơ Núi Đôi bất tử, Vũ Cao lẽ ra có thể nhân thành công xuất sắc đó để đưa thơ mình lên. Nhưng ông lại cứ như người bộ hành chậm rãi, nhường đường cho người khác, cho những nhà thơ khác. Vũ Cao nói, ông làm thơ, mục tiêu cũng chỉ là để ship hàng bộ đội mà thôi .
( Theo Xa lộ pháp lý )

Source: https://vvc.vn
Category : Từ Thiện

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay