Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam 1945 – 1. Hoàn cảnh lịch sử – Tình hình chung  Cuộc kháng chiến chống – StuDocu

1. Hoàn cảnh lịch sử
– Tình hình chung
 Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng lãnh
đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm
vi cả nước vẫn chưa hoàn thành.
 Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, song miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị
của thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền.
– Miền Bắc
 Mặc dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần đấu tranh kiên quyết của
nhân dân ta, nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội
và ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã phải rút khỏi miền Bắc.
 Ngày 1/1/1955 :Trung ương Đảng, Chính Phủ, chủ tich hcm trở về thủ đô
 Ngay sau khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc khẩn trương khôi phục kinh tế,
hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm vụ còn lại của
cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
– Miền Nam,
 Lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để
thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự
của Mỹ.
 Để thực hiện âm mưu nói trên, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 7-
7-1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn
thay Bửu Lộc.
 Ngày 17-7-1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố không hiệp thương tổng
tuyển cử thống nhất đất nước và ngày 23-10-1955 đã tổ chức cái gọi là “trưng cầu
dân ý” để phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống.
 Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ – Diệm đã liên tiếp mở các
cuộc hành quân càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực dân kiểu mới,
chia cắt lâu dài đất nước ta.
-> Thực chất, đây là một cuộc chiến tranh đơn phương đẫm máu chống lại nhân
dân miền Nam trong tay không có vũ khí. Với chính sách “tố cộng”, “diệt cộng”,
loại cộng sản ra ngoài vòng pháp luật để trừng trị, và với khẩu hiệu “thà giết nhầm
hơn bỏ sót”, chúng thẳng tay đàn áp tất cả các lực lượng chống đối. Chỉ tính đến
cuối năm 1955, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng đã bị
bắt và bị giết hại.

  • Nhiệm vụ của Đất nước
     Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại đặt cho Đảng ta một yêu
    cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt
    Nam tiến lên phù hợp với tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát
    triển chung của thời đại.
     Xuất phát từ việc nhận thức sâu sắc tình hình thế giới và đặc điểm cơ bản của tình
    hình đất nước sau tháng 7-1954, trải nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung

ương và Bộ Chính trị, chủ trương chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
mới của Đảng đã từng bước hình thành.
2. Đảng lãnh đạo miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Về chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên CNXH: chuyển miền Bắc sang giai đoạn mới
với nhận thức: Sự kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự mở đầu
của cách mạng XHCN như các cương lĩnh của Đảng đã xác định
Về nhiệm vụ: Tháng 9/1954, Bộ chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền
Bắc là: hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế quốc dân. Trước hết là phục
hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn đinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng
cường và mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế… để sớm đưa miền Bắc trở lại bình
thường sau 9 năm chiến tranh.
Thực hiện hiệp định Giơnevơ, ngay sau khi hòa bình được lập lại, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân miền Bắc đấu tranh đòi đối phương phải rút quân khỏi miền Bắc. Để chống lại
âm mưu thủ đoạn của địch và ổn định tình hình, Đảng và nhà nước ta đã kịp thời ban
hành các chính sách: chính sách đối với tôn giáo, chính sách đối với công chức, trí
thức trước đây làm việc cho địch, chính sách đối với ngụy quân.
Kết quả: ngày 10/10/1954, tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội. Ngày 16/5/
toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp và tay sai đã rút khỏi miền Bắc.
Nhận rõ kinh tế miền Bắc cơ bản là nông nghiệp, Đảng đã chỉ đạo lấy khôi phục và phát
triển sản xuất nông nghiệp làm trọng tâm. Từ giai đoạn 1954-1957, phát động quần
chúng miền Bắc cải cách ruộng đất. (Dẫn chứng:)
 Việc đất đai nông thôn tập trung vào Nhà nước quản lý cũng tạo điều kiện thuận
lợi để thực hiện xây dựng các công trình thủy lợi, các cơ sở phục vụ nông
nghiệp. Đến cuối năm 1955, các công trình thủy lợi bị Pháp phá hủy đều được
dần khôi phục, diện tích đất được tưới tiêu đạt mức 202 ha.
 Tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá I, từ 29-12-1956 đến 25-1-1957, báo cáo của
Chính phủ kiểm điểm về công tác cải cách ruộng đất đã nêu rõ: “Cải cách ruộng
đất ở miền Bắc đã căn bản hoàn thành, giai cấp địa chủ đã căn bản bị đánh đổ,
chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất bị xoá bỏ. Nông dân đã làm chủ nông
thôn, nguyện vọng lâu đời của người nông dân là người cày có ruộng đã được
thực hiện. Sức sản xuất ở nông thôn đã được giải phóng, đời sống nhân dân
bước đầu đã được cải thiện, mở đường cho việc phát triển công thương nghiệp,
góp phần quan trọng vào công cuộc củng cố miền Bắc, phát triển kinh tế, văn
hoá. Đó là những thành tích căn bản”.
 Công cuộc giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất được tiếp tục đẩy mạnh. Để
đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cải cách ruộng đất, Đảng chủ trương dựa
hẳn vào bần cố nông, đoàn kết với trung nông, đánh đổ giai cấp địa chủ, tịch thu
ruộng đất của họ để chia đều cho dân cày nghèo. Đến tháng 7-1956, cải cách
ruộng đất đã căn bản hoàn thành ở đồng bằng, trung du và miền núi. Chế độ
chiếm hữu ruộng đất phong kiến ở miền Bắc đến đây bị xóa bỏ hoàn toàn. Hơn
9 triệu người trong hơn 2 triệu hộ nông dân lao động được chia hơn 810 ha
ruộng đất.
 Đến năm 1957, nền kinh tế miền Bắc được phục hồi, vượt mức cao nhất dưới
thời Pháp thống trị (năm 1939) năm 1939 diện tích trồng lúa của miền Bắc là
1.811 ha, năng suất 13,04 tạ/ha, sản lượng 2,407 triệu tấn, thóc bình quân
đầu người là 211,2 kg. Các con số tương ứng của năm 1957 là 2.191 ha,

thành hậu phương không thay đổi, vững mạnh phân phối nhu yếu của sự nghiệp cách mạng Nước Ta .

3.

Đảng lãnh đạo chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế
tiến công cách mạng

  • Từ năm 1954 Mỹ đã có âm mưu xâm lược đối với miền Nam thành một căn cứ
    quân sự để tiến công miền Bắc và hệ thống xã hội chủ nghĩa từ phía Đông
    Nam khi có điều kiện

→ Mục đích nhằm mục đích biến miền Nam thành một mắt xích trong mạng lưới hệ thống địa thế căn cứ quân sự chiến lược ở Khu vực Đông Nam Á nhằm mục đích ngăn ngừa tác động ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội vùng này .

  • Mỹ đã sử dụng nhiều thủ đoạn về chính trị, kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống, quân sự chiến lược, nhất là nhanh gọn thiết lập cỗ máy chính quyền sở tại tay sai Nước Ta Cộng Hòa do Ngô Đình Diệm làm Tổng Thống, thiết kế xây dựng lực lượng quân đội
  • Địch vừa dụ dỗ lừa bịp, vừa đàn áp, khủng bố với nhiều thủ đoạn thâm độc, dã man, ráo riết thi hành quốc sách ” tố cộng, diệt cộng ” ; lập ” khu trù mật “, ” khu dinh điền ” nhằm mục đích mục tiêu bắt bớ, trả thù tổng thể những người yêu nước kháng chiến cũ, thẳng tay đàn áp trào lưu đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Geneva của những tầng lớp nhân dân ; gây ra nhiều vụ thảm sát đẫm máu ở Bến Tre, Quảng Nam, Phú Yên
  • Tháng 7 năm 1954, Đảng quyết định hành động đổi khác phương pháp từ đấu tranh quân sự chiến lược sang đấu tranh chính trị. Họp Báo Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng ( từ ngày 15-17 / 7/1954 ) đã chỉ rõ : ” Hiện nay đế quốc Mỹ là quân địch chính của nhân dân quốc tế và nó đang trở thành quân địch chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương do đó mọi việc của ta đều nhằm mục đích chống đế quốc Mỹ “

→ Từ đó Đảng chỉ huy quần chúng nhân dân đòi đối phương thi hành Hiệp định Geneva đồng thời liên tục đấu tranh dân tộc bản địa dân chủ ở miền Nam trong tình hình mới

  • Tháng 9 năm 1954 Nghị quyết Bộ Chính Trị nêu rõ 3 nhiệm vụ cụ thể trước mắt
    của cách mạng miền Nam là:

+ Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định .+ Chuyển hướng công tác làm việc cho tương thích điều kiện kèm theo mới .

  • Tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình, thống nhất, độc lập để
    đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền bù nhìn thân Mỹ và hoàn thành thống
    nhất Tổ Quốc.
  • Tháng 10 năm 1954 Xứ ủy Nam Bộ được xây dựng do chiến sỹ Lê Duẩn, Uỷ viên Bộ Chính Trị làm bí thư nhằm mục đích triển khai thông tư của Bộ Chính Trị về tính hình và công tác làm việc của những đảng bộ miền Nam
  • Tháng 8 năm 1956, chiến sỹ Lê Duẩn đã dự thảo Đề cương đường lối cách mạng Nước Ta ở miền Nam → Bản đề cương là một trong những văn kiện quan trọng góp thêm phần hình thành đường lối cách mạng Nước Ta ở miền Nam của Đảng
  • Phong trào đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, chống bầu cử lừa bịp, chống cướp đất, đuổi nhà, … được tăng trưởng mạnh ở cả nông thôn và thành thị với hàng trăm tổ chức triển khai quần chúng công khai minh bạch trong đó có những ủy ban đấu tranh đòi tự do được xây dựng ở miền Nam tham gia
  • Từ năm 1958, kẻ địch liên tục mở những cuộc hành quân càn quét, dồn dân quy mô lớn vào những trại tập trung .
  • Tháng 3 năm 1959, chính quyền sở tại Ngô Đình Diệm công bố ” đặt miền Nam trong thực trạng cuộc chiến tranh “. Với luật 10/59, địch dùng Tòa án quân sự chiến lược đặc biệt quan trọng để đưa những người bị bắt xét xử và giết tại chỗ như súng đạn, máy chém, ..
  • Tháng 1 năm 1959 , Hội nghị Trung Ương lần thứ 15 đã đưa ra nghị quyết về
    cách mạng miền Nam. Nội dung Nghị quyết 15 của Đảng gồm những nội dung
    sau:

  • Tình hình xã hội miền Nam sau 1954 có hai mâu thuẫn cơ bản:

· Mâu thuẫn giữa Nhân dân miền Nam với bọn đế quốc xâm lược ( hầu hết là đế quốc Mỹ )· Mâu thuẫn giữa Nhân dân miền Nam : xích míc nông dân và địa chủ phong kiến, xích míc giữa dân tộc bản địa với đế quốc Mỹ và tập đoàn lớn thống trị Ngô Đình Diệm là xích míc đa phần

  • Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là

· Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị đế quốc và phong kiến· Hoàn thành cách mạng dân tộc bản địa dân chủ nhân dân ở miền Nam· Thực hiện độc lập dân tộc bản địa và người cày có ruộng

Phong trào Đồng Khởi

aối cảnh

Từ năm 1958 chính quyền Mỹ – Diệm đã thi hành nhiều chính sách tàn bạo,
đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh. Ngày 6-5-1959, Mỹ – Diệm ra
luật 10/59 lê máy chém đi khắp miền Nam, các Tòa án quân sự đặc biệt của
chúng đưa thẳng người bị bắt ra xét xử và bắn tại chỗ. Chính sách khủng
bố và chiến tranh đó đã làm cho mâu thuẫn giữa Mỹ – Diệm với nhân dân
miền Nam trở nên gay gắt hơn, tình thế cách mạng chín muồi và dẫn đến
bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam.

bễn biếnTừ giữa năm 1959, 1 số ít cuộc khởi nghĩa và đấu tranh vũ trang đã bùng nổ ở vùng Nam và Nam Trung Bộ. Trong đó, nổi bật là trào lưu Đồng Khởi ở Bến Tre. Ngày 17-1-1960, chiến sỹ Nguyễn Thị Định lãnh đạo nhân dân huyện Mỏ Cày khởi nghĩa, sau đó lan rộng ra những huyện khác, rồi nhanh gọn lan rộng ra ra khắp những tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và 1 số ít nơi thuộc Trung Bộ. Hệ thống kìm kẹp của địch ở những xã, ấp bị tê liệt và tan vỡ từng mảng .cết quảĐến cuối năm 1960, trào lưu Đồng Khởi đã làm tan rã cơ cấu tổ chức chính quyền sở tại cơ sở địch ở nhiều vùng nông thôn, có 1 xã / 2 xã nhân dân lập chính quyền sở tại tự quản. Vùng giải phóng sinh ra trên khoanh vùng phạm vi to lớn, tiếp nối từ Tây Nguyên đến miền Tây Nam Bộ và đồng bằng Liên khu V. Thắng lợi của trào lưu Đồng Khởi ở nông thôn đã thôi thúc can đảm và mạnh mẽ trào lưu đấu tranh ở đô thị và những đồn điền, xí nghiệp sản xuất .Từ thắng lợi của trào lưu Đồng Khởi, ngày 20-12-1960, tại thị xã Tân Lập ( Tây Ninh ), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Nước Ta được xây dựng. Từ đây, cách mạng miền Nam đã có một tổ chức triển khai chính trị tập hợp thoáng rộng quần chúng, nhân dânTheo chiến sỹ Lê Duẩn nhìn nhận : “ Thực chất là cao trào khởi nghĩa của quần chúng, v. Những cuộc khởi nghĩa từng phần tiên phong như vậy chỉ hoàn toàn có thể là tác dụng của trào lưu đấu tranh chính trị vĩnh viễn, kinh khủng của quần chúng, của một trào lưu sâu rộng, không phải chỉ trong mấy xã mà tạo thành thế liên hoàn gồm có nhiều huyện, nhiều tỉnh, có như vậy, thành quả của khởi nghĩa mới giữ được ”d. Ý nghĩaThắng lợi của trào lưu Đồng Khởi là bước nhảy vọt có ý nghĩa lịch sử của cách mạng miền Nam, chuyển từ thế gìn giữ lực lượng sang thế tiến công, từ khởi nghĩa từng phần sang cuộc chiến tranh cách mạng chống chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ .Thắng lợi của trào lưu Đồng Khởi biểu lộ truyền thống cuội nguồn yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc thâm thúy của dân tộc bản địa Nước Ta, sự chỉ huy sáng suốt, tài tình, đúng đắn của Đảng Lao động Nước Ta – “ ý Đảng ” hợp với “ lòng dân ”. Đây chính là bộc lộ sinh động của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc bản địa thời đại Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương 15, nhân dân miền Nam đã nhất tề nổi dậy, bằng nhiều giải pháp khởi nghĩa cực kỳ đa dạng và phong phú, phát minh sáng tạo, làm tan rã hàng loạt cỗ máy kìm kẹp của địch ở xã, ấp, thôn, bản. Phong trào Đồng Khởi đã tạo điều kiện kèm theo thuận tiện để Đảng bộ miền Nam được Phục hồi, lực lượng vũ trang ba thứ quân và mạng lưới hệ thống chỉ huy quân sự chiến lược những cấp được xây dựng ; những căn cứ địa cách mạng được hồi sinh, lan rộng ra. Đồng thời, “ giáng một đòn giật mình vào kế hoạch Ai-xen-hao, làm thất bại một hình thức thống trị nổi bật của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ” .Bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc bản địa trong trào lưu Đồng Khởi 60 năm về trước, đến nay vẫn còn nguyên giá trị, cần được thừa kế, tăng trưởng và vận dụng phát minh sáng tạo vào thực tiễn, nhất là trong điều kiện kèm theo hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng của quốc gia, nhằm mục đích phát huy tối đa sức mạnh toàn dân tộc bản địa, tích hợp sức mạnh dân tộc bản địa với sức mạnh thời đại, triển khai thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì tiềm năng “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công minh, văn minh ” .

  • Tháng 7-1954, Hội nghị Geneva về Đông Dương kết thúc, Việt Nam tạm
    thời chia làm hai miền Nam – Bắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng
    hai miền tập trung thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là hoàn thành cách
    mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và tiến hành cách mạng xã hội chủ
    nghĩa ở miền Bắc. Để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ đó, Nghị quyết Trung
    ương 15 (tháng 1-1959) nêu rõ: “Nhưng vì nhiệm vụ cơ bản của mỗi miền
    khác nhau, cho nên nhiệm vụ, tính chất, thành phần Mặt trận ở mỗi miền có
    chỗ khác nhau. Vì vậy, cần có Mặt trận riêng cho miền Nam”. Sau một thời
    gian chuẩn bị, ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
    Việt Nam ra đời, nhanh chóng trở thành một thực thể chính trị, là đại diện
    chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam. Mặt trận đã thông
    qua bản Tuyên bố và Chương trình hành động “mười điểm”, đề ra chính
    sách cơ bản, trong đó xác định chính sách ngoại giao hòa bình, trung lập,
    đáp ứng lợi ích, yêu cầu của mọi tầng lớp nhân dânới đường lối ngoại
    giao hòa bình trung lập và hòa bình thống nhất Tổ quốc, những hoạt động

Kịp giờ nổ súng, em mừng, em vuiDưới sông ngực đập bồi hồiMười hai cô gái, mười hai nhịp cầuMặt sông ánh một trời saoMắt em lấp lánh lung linh, sao nào đẹp hơn ?Hành quân lòng bỗng bồn chồnQua cầu lại nhớ vai tròn của em .10 –

. Nguồn tham khảo

tapchiqptd / vi / tim-hieu-truyen-thong-quan-su / phong-trao-dong-khoi – bieu-tuong-suc-manh-dai-doan-ket-dan-toc-thoi-dai-ho-chi-minh / 14952

Hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
giai đoạn 1960 – 1975 – Tạp chí Cộng sản (tapchicongsan.org)

Đội quân tóc dài trong tứ thơ Lê Anh Xuân – Báo Đồng Khởi Online ( baodongkhoi )Nhớ Ca Lê Hiến ! ( vnu.edu )Giáo trình Lịch sử Đảng

Source: https://vvc.vn
Category : Từ Thiện

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay