Dàn ý Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ hay nhất (2 mẫu) – Văn mẫu lớp 12

Dàn ý Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ hay nhất (2 mẫu)

Dàn ý Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ hay nhất (2 mẫu)

Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ

Bài giảng: Vợ chồng A Phủ – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Dàn ý Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ 1

Quảng cáo

I. Mở bài

– Tô Hoài rất nhạy cảm với cảnh hoạt động và sinh hoạt, phong tục tập quán của con người những vùng miền, tác phẩm của ông mê hoặc người đọc bởi vốn hiểu biết thâm thúy .
– Tiêu biểu cho phong thái của Tô Hoài là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Đặc biệt, hình tượng nhân vật Mị đã trở thành hình tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức .

II. Thân bài

– Sức sống tiềm tàng là sức sống vốn có của con người nhưng bị thực trạng bên ngoài ảnh hưởng tác động làm che khuất đi, nhưng luôn thường trực, chờ thời cơ trỗi dậy .

1. Sức sống vốn có của Mị trước khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra

– Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra :
+ Mị là cô nàng người Mông tươi tắn, hồn nhiên, có tài thổi sáo “ thổi lá cung hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị ”
+ Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu .
+ Hiếu thảo, cần mẫn, ý thức được giá trị đời sống tự do nên sẵn sàng chuẩn bị làm nương ngô trả nợ thay cho bố .

2. Sức sống tiềm tàng của Mị bị khuất lấp trong cảnh làm con dâu gạt nợ

– Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra : bị “ cúng trình ma ” nhà thống lí, bị bóc lột sức lao động, “ không bằng con trâu con ngựa ”, “ đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào việc làm ”, bị đày đọa nơi âm ti trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …
– Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau : một cô gái khi nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, … đều cúi mặt “ mặt buồn rười rượi ”, không chăm sóc đến thời hạn “ lỗ vuông bằng bàn tay … không biết là sương hay nắng ” .
– Mị sống lầm lũi “ như con rùa nuôi trong xó cửa ”, “ ở lâu trong cái khỏ Mị quen rồi ” .

3. Sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy

– Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ Mị có dự tính tự tử bằng lá ngón, không gật đầu đời sống mất tự do .
– Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy :
+ Âm thanh đời sống bên ngoài ( tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, .. ) ùa vào tâm lý, thức tỉnh những kỉ niệm trong quá khứ của Mị .
+ Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn quay trở lại với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu niềm hạnh phúc .
+ Mị ý thức được sự sống sót của bản thân “ thấy phơi phới trở lại ”, “ Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi ”, với khát khao tự do, chấm hết sự tù đày .
+ Khi A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh quay trở lại với hiện thực .
– Nhận xét : Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có thời cơ để bùng lên can đảm và mạnh mẽ .
– Trong đêm mùa đông, khi A Phủ bị trói :
+ Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn .
+ Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến thực trạng của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “ có lẽ rằng ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết ” .
+ Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ
+ Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi âm ti trần gian .
– Nhận xét : Mị là người con gái lặng lẽ mà can đảm và mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành vi của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi .

III. Kết bài

– Nêu tâm lý về hình tượng nhân vật Mị .
– Nghệ thuật : ngôn từ đậm chất miền núi, lối trần thuật linh động với sự di dời điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công xuất sắc tâm lí nhân vật và hình ảnh vạn vật thiên nhiên .
– Tác phẩm tiềm ẩn giá trị nhân đạo thâm thúy : sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc .

Phân tích tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài

Dàn ý Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ 2

Quảng cáo

I. Mở bài

– Tô Hoài là một trong những khuôn mặt tiêu biểu vượt trội của văn xuôi Nước Ta đương đại. ” Vợ chồng A Phủ ” là một trong những tác phẩm rực rỡ nhất của ông, được viết sau chuyến đi thực tiễn Tây Bắc năm 1953. Truyện được giải nhất cửa Hội Văn nghệ Nước Ta 1954 – 1955 .
– Tác phẩm là bức tranh bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân và là bài ca về phẩm chất, vẻ đẹp, về sức sống mãnh liệt của người lao động. Nhân vật chính kết tinh được phẩm chất cao đẹp và bộc lộ rõ giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo của tác phẩm và nhân vật Mị .

II. Thân bài

* Trước khi làm dâu gạt nợ, Mị là một cô gái phần đông tập trung chuyên sâu được những vẻ đẹp tiêu biểu vượt trội của người phụ nữ miền núi : Mị vừa đẹp người, vừa đẹp nết, siêng năng, đảm đang, hiếu thảo, giàu đức hi sinh vị tha, ham sống, yêu đời và rất mực tài hoa .
* Khi về làm con dâu cho nhà thống lí, Mị đã phản kháng bằng nước mắt : ” Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc “. Cao hơn một mức nữa, Mị đã định tự tiêu diệt cuộc sống mình bằng nắm lá ngón. Nhưng lòng hiếu thảo – vì thương bố còn khổ hơn giờ đây bao nhiêu lần, đã níu kéo Mị trở lại kiếp sống ngựa trâu. Dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền, những hủ tục phong kiến nơi miền núi, Mị gần như tê liệt hết về sức sống, Mị lãnh đạm với sự chảy trôi của thời hạn, sắc màu đời sống của Mị trở nên mờ nhạt. Nó được hình tượng bằng ” Một chiếc hành lang cửa số một lỗ vuông bằng bàn tay “, ” khi nào cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng ” .
Mị trở thành con người cam phận sống đời sống ” thân phận con rùa “, ” Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ” .
* Đoạn đời thứ 3 : Sức sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân và hành vi cởi trói cho A Phủ. Họ cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài, tìm đến khu du kích Phiềng Sa .
a. Mùa xuân về trên rẻo cao, đặc biệt quan trọng là đêm tình mùa xuân với tiếng sáo, tiếng khèn của trai làng gọi bạn tình có ý nghĩa như ” một thực trạng nổi bật ” làm cho sức sống tiềm tàng trong con người Mị trỗi dậy một cách mãnh liệt .
– Ngày Tết, Mị cũng uống rượu : ” Mị … cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say “. Với những tác động ảnh hưởng của ngoại cảnh và men rượu, Mị đã thoát khỏi tâm trạng dửng dưng lâu nay để trở thành con người thức tỉnh, vươn tới những ý nghĩ và khát vọng đẹp tươi. Chú ý nghiên cứu và phân tích diễn biến tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân : ” Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng ” -> lòng Mị đang phơi phới sống về những ngày trước. Mị thấy ” trong lòng đùng một cái vui sướng … Mị trẻ lắm … Mị muốn đi chơi ” -> Ý thức về bản thân trỗi dậy, Mị phẫn uất mãnh liệt và thấm thía nỗi tủi nhục của mình, Mị muốn chết -> trong khi đó, tiếng sáo, hình tượng của khát vọng tự do và tình yêu tuổi trẻ ” đang rập rờn ” trong đầu Mị -> Mị khêu to ngọn đèn cho sáng như thể khêu ngọn lửa của lòng ham sống, của sự khát khao -> Hành động này thôi thúc hành vi khác, không hề kìm nén được nữa. Nó là sự thôi thúc của trái tim như muốn phá vỡ những xiềng xích tàn tệ trong nhà thống lí Pá Tra, thử thách mọi ràng buộc khắc nghiệt của nhà Pá Tra, của người chồng gian ác : ” Mị quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa ” chuẩn bị sẵn sàng đi chơi ngày Tết. Nhưng giữa lúc lòng ham sống trong Mị trỗi dậy, dâng lên mãnh liệt như sóng trào thì cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách khắc nghiệt, lãnh đạm. A Sử, chồng Mị thản nhiên ” trói đứng Mị vào cột nhà ” -> ” Như không đang biết mình đang sợ bị trói … Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những game show “, quên mọi đau đớn về thể xác, ” Mị đã vùng dậy bước tiến “. Điều đó chứng tỏ sức sống tiềm ẩn trong con người Mị mãnh liệt biết nhường nào .
b. Sức sống trỗi dậy trong con người Mị còn được bộc lộ rõ nét ở hành vi cởi trói cho A Phủ, cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài .
+ Bên cạnh nhà bếp lửa, nhìn thấy A Phủ bị trói đứng một cách thảm khốc, mấy đêm đầu Mị vẫn thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người ở nhà Pá Tra xảy ra như cơm bữa. Vả chăng, Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực .
+ Nhưng đêm nay, dưới ánh lửa ” bập bùng ” trông thấy hai hàng nước mắt ” lấp lánh lung linh ” bò xuống hai hõm má đã ” xám đen lại của A Phủ “, Mị càng thương mình, càng thương người. Tình thương, niềm đồng cảm giữa những con người cùng cảnh ngộ ấy đã ép chế nỗi sợ và lớn hơn cái chết, nó đã dẫn đến hành vi táo bạo : cắt dây trói giải thoát cho A Phủ, cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài .
+ Đây là hành vi tuy tự phát nhưng là hiệu quả của một quy trình, nó dẫn chứng sức sống tiềm tàng, âm ỉ không ngừng trong con người Mị. Nó là một bước ngoặt trong tính cách và cuộc sống Mị. Ý thức được nỗi khổ của kiếp sống tủi nhục của mình, Mị đã vượt qua nhà ngục thống lí Pá Tra với biết bao thế lực khắc nghiệt của cường quyền, hủ tục, lễ giáo phong kiến ( con gái Mèo lấy chồng, suốt đời là cái đuôi con ngựa của chồng, chồng chết lại phải lấy anh hoặc em chồng ) .

III. Kết luận:

– Qua cuộc sống và số phận của Mị, Tô Hoài bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống cho người lao động, đặc biệt quan trọng là người phụ nữ miền núi. Đồng thời, tác giả cũng cất lên bài ca ca tụng phẩm giá cao đẹp của họ. Đó là ý nghĩa nhân đạo cơ bản của tác phẩm .
– Mị là một nhân vật rất thành công xuất sắc của văn xuôi văn minh. Có được điều này là nhờ cái nhìn trân trọng, thương mến so với nhân vật của tác giả, đặc biệt quan trọng là năng lực nghiên cứu và phân tích tâm lí thâm thúy, tinh xảo của Tô Hoài .

Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ – mẫu 1

Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài tính đến nay đã già nửa thế kỉ. Hơn 60 năm cầm bút ông là tác giả của hàng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo, thể loại đa dạng chủng loại, phong phú. Thế nhưng nhắc đến Tô Hoài ta ko thể quên được tác phẩm ” Dế mèn phiêu lưu kí ” – tác phẩm tiêu biểu vượt trội trước Cách mạng tháng 8. Sau Cách mạng, Tô Hoài lại nổi lên với tập truyện Tây Bắc mà linh hồn của nó là Vợ chồng A Phủ .
Những năm gần đây người ta lại rối loạn nhớ đến Tô Hoài với tác phẩm ” Cát bụi chân ai … Cho đến nay, ” Vợ chồng A Phủ ” vẫn là cái mốc thử thách với chính Tô Hoài, truyện đc phần thưởng văn nghệ năm 1954 – 1955, một tp xuất sắc viết về đề tài miền núi. Truyện xoay quanh cuộc sống của Mị – một cô gái Mèo nghèo nàn, xinh đẹp, nết na được Tô Hoài kiến thiết xây dựng chân thực và sôi động với sức sống tiềm tàng bất diệt. Thông qua sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, ngòi bút của Tô Hoài đã thể hiện là 1 ngòi bút nhân văn, nhân đạo thâm thúy và cao quý. Văn hào Nga Sê-khốp đã từng nói : ” 1 người nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ “. Tô Hoài là 1 nhà văn như vậy .
Như đã nói, Mị là 1 cô gái mèo xinh đẹp, nết na. Một người như Mị lẽ ra phải được sống cuộc sống niềm hạnh phúc, nhưng trái lại, cô đã khổ từ trong trứng nước. Ngày xưa khi cưới nhau đã ko có tiền, cha mẹ Mị đã phải vay của bố thống lí Pá Tra – tức ông của A Sử 10 đồng bạc trắng, mỗi năm phải trả lãi 1 nương ngô. Cho đến nay bố Mị đã già, mẹ Mị đã chết vậy mà món nợ ấy vẫn chưa trả được. Thống lí Pá Tra đến gạ bố Mị gả Mị cho A Sử con trai hắn làm con dâu gạt nợ. Biết vậy, Mị đã phản ứng lại ngay : ” Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải ở nhà làm nương ngô trả nợ cho người ta. Bố đừng bán con cho nhà giàu “. Đây chỉ là 1 câu nói thông thường nhưng đã thoát ra cả 1 con người. Đó là con người có sức sống tiềm tàng bất diệt. Câu nói của Mị là 1 sự đánh cắp, đánh đổi : Mị thà ở nhà lao động cực nhọc trên nương rẫy để được sống 1 cuộc sống hp trong tự do còn hơn phải làm con dâu của nhà giàu, sống kiếp đời trâu ngựa, nô lệ. Sự đánh cắp, đánh đổi ấy chỉ hoàn toàn có thể có được ở những con người can đảm và mạnh mẽ, tự tin, biết quí trọng danh dự, nhân phẩm của chính bản thân mình. Có câu : ” Thân gái như hạt mưa sa “, việc người con gái được sa vào cửa nhà giàu, đó là tham vọng, thậm chí còn còn là sự toan tính của nhiều người phụ nữ. Thế nhưng với Mị, 1 con người có sức sống tiềm tàng bất diệt thì Mị ko đồng ý điều ấy bởi Mị hiểu rõ mái ấm gia đình nhà Thống lí Pá Tra. Đó là nơi hang hùm nọc rắn, Mị hiểu rõ thực chất của cuộc hôn nhân gia đình gả bán này : ” Bố đừng bán con cho nhà giàu “. Rõ ràng chỉ là 1 câu nói giản đơn nhưng phần nào đã gợi mở cho người đọc thấy được ở Mị có sức sống tiềm tàng bất diệt .
Mặc dù Mị phản ứng kinh khủng, Mị ko đồng ý vào nhà thống lí Pá Tra thế nhưng Mị đang sống trong xã hội tiền quyền và thần quyền. Đó là xã hội phong kiến ở miền xuôi thế nên những người hiền lành nết na như Mị ko thoát được. Mị bị bắt cóc, bị lường gạt về cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đó. Biết được điều này ” có đến mất tháng trời đêm nào Mị cũng khóc “. Mị ko đồng ý đời sống ở nhà thống lí Pá Tra, dự tính tự tử đã đến với Mị. Mị cầm nắm lá ngón trên tay về lạy chào cha để định quyên sinh. Nhưng khi về đến mái ấm gia đình, Mị mới nhìn thấy rõ thảm kịch mái ấm gia đình mình, bố Mị nói như van xin trong làn nước mắt : ” Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à ? Mày chết nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày mà chết rồi ko lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Ko được, con ơi ! ”
Sau khi Mị nghe những lời nói như van xin của cha, cô đứng trước 1 thực trạng éo le, oái oăm, cay cực. Mị sống ko muốn, Mị chết ko xong. Tuy nhiên việc Mị đã đến dự tính tự tử lại bộc lộ sức sống tiềm tàng, điều đó phải chăng là nghịch lý ?
Mới nghe qua tưởng là nghịch lí nhưng ngẫm nghĩ lại trong thực trạng của Mị đó lại là 1 điều hợp lý thâm thúy chính bới Mị muốn chết như 1 con người còn hơn phải sống như 1 con vật. Mị muốn chết ngay 1 lần để được làm người còn hơn phải sống cuộc sống chết dần, chết mòn, chết khô, chết héo, chết cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhưng nếu làm theo sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy can đảm và mạnh mẽ trong lòng thì Mị phải trà đạp lên chữ ” hiếu “, Mị ko thể giày xéo lên tình phụ tử. Vì chữ ” hiếu ” Mị đành vứt nắm lá ngón, gạt nước mắt quay trở lại nhà thống lí. Nhà thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài chả khác nào thiên la địa võng, lao vào vào đó là lao vào vào chỗ chết, vào âm ti trần gian. Biết được điều này nhưng Mị vẫn gật đầu vì thương cha. Đọc đến đây ta nhớ đến thảm kịch của Thuý Kiều hơn 200 năm trước ” bán mình chuộc cha “. Hôm nay thảm kịch ấy lại đổ dồn lên đôi vai gầy của người con gái Mèo nghèo khó. Giữa những năm đó, miền Bắc nước ta đang tiến lên Chủ nghĩa xã hội nhưng ánh sáng của Đảng chưa rọi tới đời sống của những người vùng cao. Là 1 chiến sỹ trên forum văn chương, nói như Hồ Chí Minh : ” Văn học nghệ thuật và thẩm mỹ là 1 mặt trận, anh chị em là chiến sỹ trên mặt trận ấy “. Tô Hoài trải qua ” vợ chồng A Phủ ” đem ánh sáng của Đảng rọi lên kiếp đời thổ ti lang tảo ở bản Mèo để ” cứu đất cứu Mường “. Bắt đầu từ đây Mị sống khác hẳn, Mị ko khóc như trước nữa. ” Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa “, như cái bóng, cái xác vô hồn trong âm ti trần gian. Mị sống chẳng qua là lê dài những ngày chưa chết được, điều này đã được Tô Hoài bộc lộ ngay ở mươi dòng đầu câu truyện với những câu văn đầy tính tạo hình. Nhà văn đã dựng lên trước mắt tất cả chúng ta với sức sống tàn phai, mai một : ” Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra … cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi ” .
Phải nói rằng những trang viết về mùa xuân là những trang tuyệt bút của nhà văn Tô Hoài. Ta phát hiện ở 1 nhà văn hiện thực lại có những trang văn lãng mạn. ” Vợ chồng A Phủ ” xứng danh là 1 vật chứng cho lời đánh giá và nhận định : ” Văn học Nước Ta tiến trình 1945 – 1975 có sự tích hợp hài hoà giữa 2 tác nhân hiện thực và lãng mạn “. Nhưng điều ta chăm sóc hơn cả là ngòi bút tâm lí của nhà văn Tô Hoài khi diễn đạt sự trỗi dậy sức sống tiềm tàng của Mị. Ông tỏ ra am hiểu những tâm lí phức tạp, bí mật trong tâm hồn người phụ nữ :
Đầu tiên là sự biến hóa bên ngoài. Năm ấy mùa xuân về sớm hơn mọi năm. Tô Hoài miêu tả những làn gió đem mùa xuân về trên khắp những bản làng. Những nương thuốc phiện đã nở hoa sặc sỡ, cả bản Mèo đều cuốn vào không khí của ngày hội. Trên những bản của người Mèo đó, trai gái đã mang váy áo ra phơi trên những mỏm đá trông sặc sỡ như những cánh bướm. Ban ngày trai gái mặc quần áo mới đến đánh quay, ném pao, tung còn, … Tất cả những hình ảnh này đã dội vào tâm hồn Mị – 1 tâm hồn khô cằn, nó làm cho sức sống của Mị mở màn có sự hoạt động, nó chẳng khác nào những nốt nhạc tiên phong của bản nhạc tình ca biến hóa lớn sắp diễn ra trong lòng người đàn bà đã và đang phải chịu quá nhiều đau khổ .

    Kế đó là tiếng sáo đêm tình mùa xuân. Trong không gian tiếng hát, tiếng sáo, tiếng kèn lá, kèn môi của trai bản gọi bạn tình cứ réo rắt nhau đi hết quả đồi này sang quả đồi khác. Nó đánh thức dậy những bài hát lâu nay tiềm ẩn sâu trong tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm lại những bài hát ngày xưa. Ngày xưa, Mị thổi sáo thật tài, chỉ cần uốn lá trên môi, cô thổi lá hay như thổi sáo:

“Anh ném pao
Em ko bắt
Em ko yêu
Quả pao rơi rồi”
Hay: “Mày có con trai, con gái rồi
Mày đi làm nương
Tao chưa có con trai, con gái
Tao đi tìm người yêu”

Nhưng điều đáng nói hơn cả là chính tiếng sáo ấy đã thức tỉnh dậy 2 tiếng ” rất lâu rồi ” từ trong lòng Mị. Kể từ ngày bước chân vào nhà thống lí Pá Tra, Mị sống cuộc sống phi ko gian, phi thời hạn. Thế giới của Mị là 1 căn buồng tăm tối, nhìn ra bên ngoài qua ô cửa mờ mờ, trăng trắng, không biết ngày hay đêm, sương hay nắng. Khi 1 người không nhận thức được ngày, đêm, sương, nắng nghĩa là ko nhận thức được ko gian và thời hạn, cũng đồng nghĩa tương quan với sức sống của họ đang tàn phai, mai một. Hôm nay thì khác, thời hạn đã trở lại với Mị, thời hạn ấy cho Mị thấy hiện tại quá khổ đau, quá khứ rất lâu rồi mới là niềm hạnh phúc. Thế là Mị luôn hướng về rất lâu rồi, hướng về quá khứ, muốn lê dài quá khứ, muốn vớt vát quá khứ để bù đắp những cay đắng trong hiện tại .
Mùa xuân năm ấy, khi sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy, nhà văn Tô Hoài rất khôn khéo khi đưa bất kỳ 1 hình ảnh nào đến với Mị thì hình ảnh ấy đều là chỗ dựa cho sức sống của Mị trỗi dậy. Nhất là bữa cơm tất niên cuối năm trong mái ấm gia đình nhà thống lí Pá Tra với hình ảnh của những người ốp đồng nhảy múa vui tươi trong tiếng nhạc sinh tiền càng làm cho lòng Mị trở nên rộn ràng, náo nức. Niềm rộn ràng, náo nức ấy thực sự là nỗi thúc bách khi những người trong nhà thống lí mặc váy áo mới đi chơi. Như vậy, sức sống tiềm tàng của Mị đã trỗi dậy, nó trở thành yên cầu bên trong muốn cất cánh ra bên ngoài. Rồi Mị lén lấy hũ rượu, Mị uống ừng ực từng bát, Mị uống như nuốt những tủi hờn, cay đắng vào trong lồng ngực. Mị uống như nuốt hiện tại khổ đau để trước mắt Mị giờ đây chỉ còn là quá khứ niềm hạnh phúc. Thế là Mị đang sống lại ngày trước với quãng đời thiếu nữ tự do, với niềm hạnh phúc trong mối tình đầu. Việc làm tiếp theo của Mị khi cô bước vào căn buồng tăm tối ấy là Mị xắn 1 miếng mỡ để vào trong đèn cho đèn sáng hơn. Đây ko còn là chi tiết cụ thể hoạt động và sinh hoạt nữa mà nó trở thành 1 chi tiết cụ thể có chiều sâu thẩm mỹ và nghệ thuật bởi trước đây ko thiết sống nên căn buồng của Mị tăm tối, hôi hám, luộm thuộm, ẩm thấp, dơ bẩn … Mị cũng chẳng bận lòng. Hôm nay thì khác, lòng yêu đời vừa mới trở lại với Mị. Mị muốn đời mình phải sáng sủa hơn. Thế nên hành vi Mị xắn miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho đèn sáng hơn cũng đồng nghĩa tương quan với việc Mị thắp lên ngọn lửa trong lòng mình. Mị thấy mình trẻ đẹp, Mị muốn đi chơi hội như bao người đàn bà có chồng khác ở Hồng Ngài. Mị sẵn sàng chuẩn bị, sửa soạn đi chơi. Mị tìm cái váy hoa đẹp nhất của mình vắt tít trên vách. Khi 1 người đàn bà khổ đau sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, như cái bóng, cái xác vô hồn giữa âm ti trần gian bỗng 1 hôm thấy mình trẻ ra, đẹp hơn, muốn ăn mặc đẹp, đó là tín hiệu tiên phong của sự tái xuân. Đó là lúc sức sống tiềm tàng trỗi dậy can đảm và mạnh mẽ nhất trong lòng Mị. Thế nhưng sức sống ấy đã bị dập tắt ngay lập tức, A Sử đã vùi dập nó 1 cách phũ phàng, hắn trói Mị bằng một thúng dây đay từ chân lên đầu. Chưa khi nào Mị lại cảm thấy nhục nhã như vậy, sự so sánh đã mở màn Open trong Mị, Mị thấy mình ko bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra, khi mỏi còn được đổi tàu, còn được gãi chân, nhai cỏ, còn Mị khóc ko tự lau được nước mắt. Cơ chừng sau lúc ấy sức sống tiềm tàng của Mị tắt hẳn .
Cuộc đời của Mị sẽ cứ như thế cho đến chết nếu như Tô Hoài ko để cho Mị gặp đc 1 người. Người ấy đã tiếp cho Mị 1 sức mạnh vô cùng để 1 lần nữa sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy để giải thoát đời mình, giải thoát người cùng cảnh ngộ, đó là A Phủ. A Phủ bị trói, bị bỏ đói hàng tuần lễ giữa những ngày mùa đông đầy sương muối ở vùng cao. Đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa để hơ tay. Mị vẫn nhìn thấy A Phủ nhưng có lẽ rằng sống lâu trong âm ti trần gian, trong mái ấm gia đình nhà thống lí mà việc đánh trói con người còn nhiều hơn cơm bữa nên lòng thương người của cô Mị nết na đã bị chai sạn, chai lì. Vẫn nhìn thấy A Phủ. Mị không động lòng thương nhưng nay thì khác. Chợt nghe thấy tiếng thở phì phì của A Phủ, Mị bất chợt nhìn sang và giật mình nhận thấy 1 chàng trai to khỏe nhất bản giờ đây đã bị đánh đến tiều tuỵ, mặt xám lại, má hóp sâu, 2 con mắt trũng sâu đầy bóng tối. Và đúng lúc đó, 2 hàng nước mắt từ hai hố mắt lặng lẽ bò xuống hõm má. Mị cảm thấy ko thể đành lòng, niềm thương cảm chợt dâng lên trong lòng Mị, Mị nhớ đến mình ngày trước cũng bị trói, bị đánh như vậy. Thương mình Mị lại thương người, Mị ném ra câu nói như thế này trong bóng tối : ” Ta là thân đàn bà nó đã trình ma nhà nó chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đây, người kia việc gì phải chết … A Phủ “. Khi 1 người đàn bà khổ đau, sống lầm lũi trong bóng tối bỗng 1 hôm ném ra câu hỏi như vậy, đó là khởi đầu của sự làm mưa làm gió. Sức sống tiềm tàng đã trỗi dậy thành sức mạnh, sức mạnh ấy đã biến 1 người đàn bà yếu ớt thành 1 người can đảm và mạnh mẽ, biến 1 người nhẫn nhục trở thành 1 người phản kháng. Chưa khi nào người đọc lại thấy Mị liều lĩnh như vậy. Nghĩ đến cái chết Mị cũng không sợ nữa, dự tính cứu A Phủ đã đến với Mị trong khoảnh khắc Mị rút dao cắt dây trói cho A Phủ. Cho đến vòng dây ở đầu cuối được cắt đứt, A Phủ quỵ người xuống rồi lại quật người đứng dậy chạy băng băng vào trong bóng tối. Đến lúc này đây, Mị vẫn chỉ nghĩ đến việc cứu A Phủ. Đến khi A Phủ chạy xuống cái dốc, Mị nhìn lại thấy rủi ro tiềm ẩn mình hoàn toàn có thể bị chết thay vào đó, dự tính tự cứu mình đã đến với Mị, Mị nói : ” A Phủ ! Cho tôi đi ! “. Đây là 1 câu nói của lòng ham sống trong giờ phút nguy cấp để giải thoát đời mình. Thế là 2 người nô lệ giải thoát cho nhau, lệ thuộc vào nhau, trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa .
Việc Mị giải thoát cho A Phủ hoàn toàn có thể coi như 1 chiếc bản lề khép mở 2 quốc tế. Nó khép lại quốc tế tăm tối với kiếp sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài, đồng thời nó mở ra quốc tế mới – quốc tế tươi đẹp ở phía Phiềng Sa. Với hành vi này của Mị, nó đã đưa ” vợ chồng A Phủ ” trở thành tác phẩm bản lề trên forum văn chương Nước Ta. Nó khép lại những hạn chế của 1 dòng văn học hiện thực phê phán 1 thời. Nó mở ra 1 hướng đi mới cho văn học kháng chiến và đây nó trở thành mốc thử thách của chính nhà văn Tô Hoài. Đến Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã gặp được ánh sáng của Đảng, gặp được cán bộ Cách mạng A Châu. Và 2 người đã tham gia Cách mạng, chỉ có Cách mạng mới soi sáng được kiếp người trâu ngựa, nô lệ. Và cũng chỉ có Mị và A Phủ mới là những người cách mạng trung kiên. Nói như nhà thơ Tố Hữu :

“Đời Cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là fải chịu khổ nhiều
Là gươm kề cổ, là súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn 1 nửa

” Vợ chồng A Phủ ” diễn đạt quy trình bừng thức, vùng lên của kiếp sống nô lệ này. Ngòi bút của Tô Hoài đã bộc lộ là ngòi bút nhân văn, nhân đạo thâm thúy và cao quý. Và ” vợ chồng A Phủ ” mãi là bài ca ca tụng tự do, lòng yêu đời .

Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ – mẫu 2

Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài ( xuất bản năm 1953 ). Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo thâm thúy. Thông qua số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước Cách mạng và phản ánh quy trình đến với cách mạng của họ. Tô Hoài đã thành công xuất sắc trong việc kiến thiết xây dựng nhân vật Mị với diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp .
Nhân vật Mị mang vừa đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người, đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu dấu, ước ao. Tuổi thanh xuân hứa hẹn với cô bao điều tốt đẹp, nhưng chỉ vì món nợ cha mẹ cô vay của tên thống lí Pá Tra từ ngày cưới, cho đến khi mẹ cô đã chết mà vẫn chưa trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà hắn .
Mị bị coi như một thứ vật phẩm vô tri vô giác để tính ra tiền trừ vào số nợ. Những năm tháng Mị sống với cha con tên thống lí gian ác là chuỗi dài đau thương, khổ ải. Cô bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa .
Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu. Cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, đa cảm thủa nào đường như đã chết, chỉ còn lại người đàn bà khi nào cũng vậy … cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi … ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa … của nhà thống tí. Mị sống bí mật, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa .
Không những bị đọa đày về thể xác, Mị còn bị đè nén, áp bức về ý thức. Cô chán sống nhưng không được chết, vì Mị chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn và người bố già càng thêm đau khổ. Cuộc đời Mị bị trói buộc bằng quyền lực tối cao, bằng tập tục mê tín dị đoan dị đoan truyền kiếp của người dân miền núi. Mị cho rằng mình đã bị Con ma nhà thống lí nhận mặt : nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi .
Cách đối xử bất công, tàn khốc của cha con thống lí làm cho Mị sống triền miên trong đau khổ. Cô lặng lẽ ra vào như cái bóng, không một người bạn san sẻ tâm tình. Cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Thân xác Mị héo úa, tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, nếu không có nhà bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo … Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám và đen tối đang vây phủ cuộc sống .
Không có người thông cảm với nỗi khổ của mình, Mị phải tìm đến ngọn lửa và coi nó là bạn … Khổ biết chừng nào !
Tác giả giúp người đọc tưởng tượng rõ hơn về cuộc sống bế tắc của Mị qua hình ảnh căn buồng cô ở kín bưng, tối mò, chỉ thông với bên ngoài bằng lỗ hành lang cửa số bé như bàn tay. Ở trong nhìn ra không biết là đêm hay ngày, sương hay nắng …
Bao năm qua, bị đày đọa trong nhà thống lí, mọi xúc cảm của Mị phần đông tê liệt. Tinh thần phản kháng cũng vậy. Mị nghĩ rằng mình là con trâu con ngựa của nhà giàu, chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Con trâu, con ngựa đêm còn được nghỉ, còn cô không khi nào ngớt việc. Trước kia, có lần cô phản kháng kinh hoàng bằng cách định ăn lá ngón tự tử, giờ đây cô không nghĩ đến cái chết nữa vì đã quá quen với cái khổ rổi. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi trong vô vọng. Với Mị, đời sống không còn ý nghĩa .
Đau khổ lê dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm hứng, khát khao đã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không diệt trừ được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống bí mật, mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị đày đọa kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng … Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đùng một cái vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi …
Rõ ràng, thực chất đích thực đã trở lại với Mị. Tất cả mọi giác quan, cảm hứng tưởng như đã lụi tàn vì đau khổ nay đang sống dậy. Mị thấy mình còn trẻ lắm, mà còn trẻ thì phải được hưởng niềm hạnh phúc. Vì thế nên bất chợt Mị muốn đi chơi. Nhưng khát vọng chính đáng đã bị hiện thực phũ phàng vùi dập. A Sử đánh Mị, trói Mị, Mị vẫn thả hồn lâng lâng theo tiếng sáo gọi bạn. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi tình yêu khơi lên niềm khao khát niềm hạnh phúc trong lòng Mị. Phản ứng tự phát ban đầu của Mị không hề giải phóng được cuộc sống cô nhưng những khoảng thời gian ngắn trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, có ngày nó sẽ phát cháy kinh hoàng khi gặp cơn gió mạnh .
Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh, mấy đêm đầu, Mị vẫn thản nhiên thức dậy sưởi lửa. Mị thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người xảy ra liên tục ở nhà thống lí. Nhưng đêm nay, trông thấy dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị không cầm lòng được. Mị thương A Phủ cũng bị rơi vào vòng đọa đày, khốn khổ như mình. Cô liên tưởng tới bao kẻ tôi tớ khác trong nhà này đã bị cha con tên thống lí bạo tàn đối xử dã man. Có người chết đói, chết rét sau mấy ngày cùm trói. A Phủ kia cũng sẽ như vậy thôi và đến một ngày nào đó, Mị cũng thế. Hơn khi nào hết, ý thức về nỗi khổ, về thân phận trỗi dậy trong lòng Mị. Nếu cứ cúi đầu gật đầu số phận có nghĩa là đồng ý cái chết bi thảm. Từ hình ảnh đau thương của A Phủ trước mắt, Mị liên tưởng đến tương lai mù tối, bế tắc của mình. Chính điều đó đã làm sống lại trái tim tưởng chừng đã bị đau khổ làm cho chai đá của Mị. Cô thương người, thương thân. Giọt lệ bất lực và thống khổ của A Phủ như giọt nước sau cuối làm tràn trề bình nước, cảm thương số phận A Phủ, một chàng trai dũng mãnh, khỏe mạnh sắp bị cướp đi mạng sống, Mị càng thương thân và càng căm thù cha con tên thống lí gấp bội. Cái thương cái ghét bùng lên, ép chế nỗi sợ, dẫn Mị đến hành vi táo bạo ngoài ý thức : cắt dây trói cứu A Phủ. Đây là hành vi bộc phát tuy nhiên nó là hiệu quả tất yếu của cả một quy trình bị dồn nén, bức xúc về mặt niềm tin giờ đây đã đến lúc giải thoát và đó cũng chính là biểu lộ tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng chứa đựng trong con người Mị bấy lâu nay. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đứt những dây trói vô hình dung đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Cô vụt chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được nỗi khổ và sự sống còn của mình : ở đây thì chết mất Mị chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, cô tự giải phóng mình khỏi nanh Vuốt cha con tên thống lí tàn ác. Từ trong cái âm ti nhốt đày ải mình suốt mấy năm qua, từ trong sự bủa vây quyết liệt của cái chết, Mị đã vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc sống .
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong thực trạng đau thương, nhà văn Tô Hoài muốn chứng minh và khẳng định không đấm đá bạo lực đen tối nào có thề vùi dập được sức sống và khao khát tự do của con người ; đồng thời nhấn mạnh vấn đề rằng, chỉ có sự tự vùng dậy của bản thân theo sự dẫn dắt của cách mạng mới giải phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm .

Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ – mẫu 3

Tô Hoài là nhà văn có sức phát minh sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Nước Ta. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu truyện về loài vật như ” Ổ chuột “, ” Dế mèn phiêu lưu ký “. Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như ” Truyện Tây Bắc “, ” Miền Tây ” Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc vạn vật thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do .
Mị Open ngay từ phần mở màn tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp người héo hắt, tàn tạ ” chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi “. Mỵ không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra .
Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu sáo làm mê hồn biết bao nhiêu chàng trai ” ngày đêm thổi sáo đi theo Mị “. Mị yêu lao động ” biết cuốc nương làm ngô “. Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Khi biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lí, Mị tha thiết van xin ” bố đừng bán con cho nhà giàu “. Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của chủ trương cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt lấy cuộc sống Mị. Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp nhất của đời người con gái đã biến thành một đêm thảm kịch, tủi nhục khi A Sử bắt cóc Mị về nhà thống lý. Và một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt cuộc sống Mị từ đấy .
Lúc đầu mới về ” làm dâu ” để phản kháng lại cái sự phi lí ấy, Mị đã ” hằng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc “. Khóc là bộc lộ của trạng thái tâm lí bị ức chế, không cam chịu, không đồng ý cái thực sự nghiệt ngã ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái chết khi cầm nắm lá ngón về tự tử trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị không đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi trẻ niềm hạnh phúc của mình để quay về nhà thống lý gật đầu kiếp sống trâu ngựa. Cái âm ti trần gian ấy đã nhốt cuộc sống Mị. Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một cái hành lang cửa số nhỏ như lòng bàn tay ” trông ra ngoài không biết sương hay là nắng “. Mị bị nô lệ hóa trở thành công cụ lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách tàn tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào việc làm cả đêm lẫn ngày ” tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối mùa thì đi nương bẻ bắp “. Không chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền ép chế làm cho tê liệt về ý thức, mất hết cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật ( con ngựa, con trâu, con rùa ). Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự lặng câm, băng giá ” càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa “. Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa không ?
Nhưng bằng cảm quan nhân đạo và tấm lòng yêu thương đồng cảm với số phận con người, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những thước phim quay chậm về sự bừng lên của một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đang âm ỉ cháy trong con người Mị. Bên ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã chết nhưng bên trong lại chứa đựng lòng ham sống. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ bên ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió của đêm tình mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy thảm kịch .
Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn ràng âm thanh và sắc tố. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét kinh hoàng, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc như đinh không hề thiếu được ” tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường “. Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc sống Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật và thẩm mỹ trần thuật và miêu tả rực rỡ, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác động ảnh hưởng đến Mị, góp thêm phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vô hình dung nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức tươi đẹp. Nói đúng hơn nó thức tỉnh cái tài hoa trong Mị. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng trái chiều với một hiện tại buồn mênh mang. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo :

Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta chưa có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu

Tiếng sáo làm Mị can đảm và mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành vi ” làm mưa làm gió nhân tính “. Mị tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu ” Mị uống ực từng bát rồi say “. Mị uống như nuốt căm hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tổng thể. Sức chịu đựng hạn chế, đã đến lúc cần phát cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say thức tỉnh phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa mà đã hồi sinh. Mị đang sống về ngày trước và không gì hoàn toàn có thể ngăn được niềm vui sướng của Mị ” lòng Mị đùng một cái vui sướng như những đêm tết ngày trước “. Còn gì niềm hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình ? Tô Hoài đã xâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương thâm thúy, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến hóa về tâm ý của Mị. Con rùa nuôi trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa rồi. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của niềm hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ ” Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi “. Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát sống, còn muốn yêu thương. Đúng là một xúc cảm thảm kịch : nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong thực trạng đáng thương này thì đúng là thảm kịch. Nhưng dù đó là thảm kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao Mị vẫn còn là chính mình với trái tim đầy khát vọng .
Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm hứng tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không niềm hạnh phúc. A Sử kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc sống Mị và dẫu ” không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau “. Cảm xúc ấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tổng thể niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu tích góp. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi thảm kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là bộc lộ của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó hoàn toàn có thể nào đồng ý được thực tại cay đắng này .
Nhưng không có nắm lá ngón, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi mà tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo gọi, khi mà cả thiên đường niềm hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không hề ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy thôi ! Mị hành vi trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám và sầm uất, đặc cóng muộn phiền. Ngọn đèn như xua tan đi toàn bộ cái bóng tối u ám và sầm uất đang bao quanh cuộc sống Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường âm ti để đến với quốc tế ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Tô Hoài đã miêu tả thật thâm thúy cái khát vọng cháy bỏng ấy của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu nỗi cảm thông san sẻ. Câu văn ngắn, nhịp gấp biểu lộ sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật ” Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách “. Mị hành vi thản nhiên, dù Mị biết A Sử đang hiện hữu trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể nào làm gì được Mị nữa rồi. Nhưng đớn đau thay, sự gian ác tàn ác của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi dây, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng đầu được nữa .
Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống bằng tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn của Mị. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình của tuổi trẻ. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang ” đi theo những game show những đám chơi “. Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn ” Mị vùng bước tiến “. Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói ( hoặc hoàn toàn có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác ). Nhưng rồi ” tay chân đau không cựa được ” lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng ” Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa “. Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong ” hơi rượu tỏa ” cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì ” nồng nàn tha thiết nhớ “. Có một cụ thể rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là cụ thể : Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu truyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết ” Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết “. Sợ chết là biểu lộ của lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì hoàn toàn có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn ” Một tia lửa thời điểm ngày hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai “. Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành đợt sóng thần của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó .
Cũng là nạn nhân của chủ trương cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi đơn độc. Lửa cũng đơn độc. Hai kẻ đơn độc ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như vậy, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Phải chăng ” Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi ” nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Và nếu đúng như vậy thì đớn đau thay Mị đã đánh mất đi lòng nhân ái mà trong bản thân người phụ nữ nào cũng có. Khi và chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ ” bò xuống hai hõm má đã xám đen lại “. Đó là tín hiệu của sự chết đã Open trên khuôn mặt của người nô lệ ấy thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Chính ” dòng nước mắt lấp lánh lung linh ấy ” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người. Thương người, Mị lại thương mình. Mị tưởng tượng lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc sống mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có « nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được ». Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị phẫn nộ khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này. Mị càng phẫn nộ càng uất hận ” chúng nó thật gian ác “. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở lại với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình : ” Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi “. Nhưng Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị phải hành vi. Nhưng Mị chợt chùng lại. Mị giằng xé kinh hoàng giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ. Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn toàn bộ mọi nỗi sợ hãi. Mị táo bạo, Mị kinh khủng, Mị làm mưa làm gió. Chính hành vi cắt đứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám đứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù còn là mang tính tự phát nhưng đó là tín hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc sống mình. Mị đã làm một việc động trời nhưng đó là tất yếu. Cái khoảng thời gian ngắn Mị đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự bộn bề trăm mối. Lòng Mị rối bời với câu hỏi : chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết ? Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm hôm như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ biết bao nhiêu năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín : ” A Phủ. Cho tôi đi ! … Ở đây thì chết mất “. Đó là câu nói biểu lộ niềm khao khát sống và khát khao tự do đến mãnh liệt. Và tiếng gọi tự do đang vẫy gọi họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài ngày hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục .
Đây không phải là hành vi mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình ! Hành động táo bạo và giật mình ấy là hiệu quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền .
Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật và thẩm mỹ trần thuật mê hoặc. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều giật mình mê hoặc. Ngôn ngữ mộc mạc đơn giản và giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn thâm thúy của tác phẩm, góp thêm phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn .
Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm thâm thúy với những kiếp người nghèo khó. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Nước Ta nói chung. Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn chứng minh và khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Nước Ta và chân lí muôn đời : ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm .

Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ – mẫu 4

Tô Hoài một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Nước Ta. Trước cách mạng, những sáng tác của ông nghiêng về mảng truyện loài vật và đời sống của những người dân nghèo. Sau cách mạng, những sáng tác của ông vẫn liên tục đi khai thác đời sống của dân cư, tuy nhiên ông đi sâu vào quy trình đổi đời của họ, đi từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ chính là nhân vật tiêu biểu vượt trội cho quy trình hoạt động ấy. Quá trình hoạt động từ khổ đau đến niềm hạnh phúc đó đã cho thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật này .
Vợ chồng A Phủ sinh ra khi Tô Hoài cùng đơn vị chức năng bộ đội tiến quân giải phóng Tây Bắc, có điều kiện kèm theo tiếp xúc và khám phá về số phận của người dân nơi đây trong một thời hạn dài chính là chất xúc tác giúp ông viết nên tác phẩm này. Truyện này cũng được lấy nguyên mẫu từ cuộc sống của một đôi vợ chồng người Mông, vì thế câu truyện đậm tính chân thực .
Mị là nhân vật TT của tác phẩm, khởi đầu là hình ảnh của một cô gái lầm lũi thao tác, việc làm với cô như một thói quen, làm không xúc cảm, không ngừng nghỉ từ sáng đến đêm. Để rồi tiếp đó Tô Hoài mới ngược dòng thời hạn, tái hiện lại chân dung của Mị trước đây. Mị vốn là một cô gái tươi tắn yêu đời và có năng lực. Vì xinh đẹp và có tài thổi sáo hay nên rất nhiều người con trai thổi sáo và đi theo Mị. Không chỉ vậy, Mị còn là cô gái yêu tự do và yêu lao động. Mối nợ truyền kiếp từ đời cha để lại, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn có phải trở thành con dâu gạt nợ, ngay lập tức Mị đã nhu yếu với cha không bán mình đi mà cô sẽ cần mẫn thao tác để trả nợ dần. Mị quy tụ vừa đủ trong mình những yếu tố được hưởng một đời sống yên ấm, niềm hạnh phúc. Nhưng trong thực tiễn trái ngang, nhiều bất công cô đã bị A Sử bắt đi và trở thành con dâu gạt nợ. Chính từ khoảng thời gian ngắn đó cuộc sống cô bước vào chuỗi ngày tăm tối, thảm kịch. Mị phải thao tác bất kể ngày đêm, bị bóc lột đến tận xương tủy, việc làm chất chồng khiến cô không có giờ phút nghỉ ngơi. Những tưởng rằng cô đã mất hết niềm tin vào đời sống khi bị bóc lột về thể xác, tra tấn về mặt niềm tin. Nhưng không, thực chất là một người con gái giàu sức sống, chỉ cần có chất xúc tác, niềm hy vọng ấy sẽ bùng lên mãnh liệt, và nó được Tô Hoài tái hiện không thiếu qua hai lần : Đêm tình mùa xuân và Đêm đông cứu A Phủ .
Đêm tình mùa xuân là cuộc nổi dậy, là sự làm mưa làm gió tiên phong của Mị. Có rất nhiều tác nhân khác nhau ảnh hưởng tác động tới tâm lí cô, khiến cô triển khai cuộc làm mưa làm gió tiên phong này. Trước hết là không khí mùa xuân vui tươi, tỏa nắng rực rỡ, những chiếc váy mèo đầy sắc tố trải dài trên những triền nương, tiếng trẻ con vui đùa tíu tít ngoài sân. Mùa xuân gắn với sự sống, với tình yêu, với không khí mùa xuân đã phần nào tác động ảnh hưởng đến tâm lí của Mị. Nhưng không khí mùa xuân thôi chưa đủ, chất xúc tác tiếp theo chính là hơi men của rượu. Mị cũng uống rượu như bao người khác, nhưng không phải để mừng một năm mới đến mà uống ừng ực từng bát một, uống như để quên đi những cay đắng, nhọc nhằn, quên đi những khổ đau cả về thể xác và niềm tin mà mình phải chịu đựng. Rượu là chất xúc tác can đảm và mạnh mẽ để Mị thực thi cuộc làm mưa làm gió, chối bỏ thực tại, tìm về với quá khứ. Nhưng quan trọng nhất là sự tác động ảnh hưởng của tiếng sáo. Tiếng sáo Open từ từ, tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo gọi bạn đến đầu làng khiến Mị nhớ về tiếng sáo của mình ngày trước – tiếng sáo gắn với quá khứ xinh xắn. Việc thu hẹp khoảng cách của tiếng sáo thực ra là quy trình chuyển hóa từ tiếng của của vạn vật thiên nhiên, bên ngoài đến tiếng gọi trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo là tác nhân quan trọng nhất làm bừng lên sức sống và khát vọng niềm hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân .
Sau khi nghe thấy tiếng sáo Mị chối bỏ thực tại, nhớ về quá khứ xinh xắn. Nhưng hiện thực đời sống phũ phàng, như một sợi dây vô hình dung trì níu, khiến cho Mị giật mình quay vào buồng, có vẻ như trong cô vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc vượt thoát này. Chỉ đến khi nhìn thấy ô hành lang cửa số lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng Mị mới thực sự thoát khỏi sự trì níu của thực tại. Cô thấy lòng mình phơi phới trở lại, cô muốn đi chơi, muốn được tiếp xúc với mọi người. Đồng thời cô cũng mong giá mà có nắm lá ngón lúc này, cô sẽ ăn để chết chứ không hề liên tục đời sống này nữa. Và đúng lúc ấy, tiếng sáo lại một lần nữa Open đầy hữu ý, tiếng sáo khiến sự làm mưa làm gió của Mị bật thành hành vi : cô muốn đi chơi, lấy mỡ thắp đèn cho sáng và cô lấy váy để chuẩn bị sẵn sàng đi chơi. Tất cả những hành vi đó đã cho thấy một trái tim khát khao sống mãnh liệt. Tuy nhiên toàn bộ đã bị chặn lại bởi hành vi gian ác của A Sử, hắn trói đứng Mị vào cột. Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác chứ không hề trói được tâm hồn Mị, tâm hồn cô đã vượt thoát thực tại thành công xuất sắc .
Sau cuộc làm mưa làm gió không thành ở đêm tình mùa xuân, Mị liên tục rơi vào trạng thái tê liệt, liên tục đời sống “ lùi lũi như con rùa trong xó cửa ”. Nhưng với sự Open của A Phủ, cùng vấn đề A Phủ bị trói đứng chờ chết đã thức tỉnh trong Mị tình yêu thương và khát khao sống. Hằng đêm Mị vẫn ra nhà bếp lửa hong tay, cô chẳng mảy may chú ý đến A Phủ, nhưng đêm ấy lại là một đêm rất khác, cô nhìn thấy giọt nước mắt lăn dài trên hốc mắt sâu hoắm. Giọt nước mắt đó đã tác động ảnh hưởng can đảm và mạnh mẽ đến cô, để Mị nhớ rằng trước đây mình cũng từng bị trói đứng, cũng từng khóc như vậy nhưng không một ai chú ý. Giọt nước mắt ấy cũng dấy lên trong cô lòng thương cảm, xót xa “ Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết ” “ người kia việc gì mà phải chết thế ”. Cùng với lòng thương cảm là sự phẫn nộ, khi Mị đã nhận ra sự gian ác của mái ấm gia đình thống lí. Mị đã thoát khỏi thực trạng mơ hồ trong việc nhận thức quân địch, đây chính là bước tiên phong nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng, vùng lên đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác .
Bằng sự bao dung, vị tha, Mị tự thấy “ Ta là phận đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi ” chính vì thế đã đưa Mị đến một quyết định hành động cao quý, Mị lấy dao cởi trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh gọn, nhưng lại rất là logic, hợp lý, bởi đó là hành vi của tình yêu thương, sẵn sàng chuẩn bị hi sinh cho người khác. Cứu A Phủ xong, Tô Hoài rất tinh xảo khi miêu tả Mị đứng lặng trong bóng tối vì những hành vi mình vừa thực thi. Sau cuộc nổi loại này, cô liên tục triển khai cuộc nổi loại thứ hai để tự cứu chính mình : “ A Phủ cho tôi đi ” “ Ở đây thì chết mình ” đầy bản lĩnh và dữ thế chủ động, Mị đã tự cứu lấy chính mình. Tiếng gọi của Mị với A Phủ không đơn thuần chỉ là sự tiếp xúc mà còn là tiếng gọi của tự do, tiếng gọi của niềm hạnh phúc. Hai con người khốn khổ ấy đã cùng nhau bỏ trốn để thiết kế xây dựng một đời sống mới, đời sống tự do, niềm hạnh phúc .
Những hành vi giật mình, kinh khủng cho thấy Mị đã cắt đứt sợi dây trói hữu hình đang nhốt A Phủ để giải cứu cho đồng loại, đồng thời cũng cắt đứt sợi dây vô hình dung của thần quyền để giải phóng cho chính mình. Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng niềm hạnh phúc, thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị – một con người tưởng như đã bị nô lệ hóa trọn vẹn .
Bằng ngòi bút phức tạp, miêu tả những biến chuyển tâm lí nhân vật đã cho thẩm mỹ và nghệ thuật thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của Tô Hoài. Đồng thời hai lần trỗi dậy đó cũng cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Qua đó còn cho thấy nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Tô Hoài, ông phát hiện, trân trọng vẻ đẹp sức mạnh tiềm tàng, mãnh liệt trong những con người khốn khổ. Đồng thời bộc lộ niềm tin, sự sáng sủa vào tương lai tươi đẹp cho những con người có số phận xấu số .

Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ – mẫu 5

Sau cách mạng tháng 8, ngòi bút của Tô Hoài đi sâu tò mò sức sống can đảm và mạnh mẽ của những người dân tộc thiểu số miền núi. Trong chuyến đi lên vùng núi phía Bắc của mình, ông đã cho sinh ra tác phẩm Vợ chồng A Phủ, với nhân vật Mị, mang trong mình sức sống tiềm tàng can đảm và mạnh mẽ .
Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị cũng như bao người con gái khác, chịu thương chịu khó, có một sức sống can đảm và mạnh mẽ. Mặc dù mái ấm gia đình gánh trên vai món nợ truyền kiếp, nhưng cô chuẩn bị sẵn sàng nói với cha để minh lao động rồi trả nợ dần ; cô tươi tắn, yêu đời, có tiếng sáo hay khiến biết bao chàng trai say đắm. Nhưng sau đêm bị A Sử bắt về, “ Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa ” thì cuộc sống của cô đã sang một trang khác, đầy bi thương và thảm kịch .
Những ngày làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị đã phải chịu bao nỗi đắng cay, tủi cực. Suốt ngày Mị chỉ “ ngồi quay sợi gai, cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, khuôn mặt cô khi nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi ”. Quanh năm cô quanh quẩn thao tác, chẳng có lấy một khoảng thời gian ngắn nghỉ ngơi. Nơi ở của cô chẳng khác nào nhà tù, chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng .
Phải chăng sức sống, sự yêu đời của cô trước đây đã bị bào mòn hết sạch ? Nhưng không qua đêm tình mùa xuân và đêm đông tự giải cứu chính mình, ta biết rằng trong sâu thẳm người con gái kia, niềm yêu đời sống vẫn tiềm tàng can đảm và mạnh mẽ .
Trong những ngày mùa xuân, không khí rộn vang, tưng bừng hơn. Những tảng đá mèo được tô điểm bởi những chiếc váy tỏa nắng rực rỡ, tựa như những bông hoa rộ nở ; tiếng trẻ nhỏ vui đùa càng trở nên vui tươi, đầy phấn khích. Lòng Mị cũng chợt có những tia sáng nhỏ le lói. Mùa xuân ai cũng uống rượu và Mị cũng vậy. Nhưng cách uống rượu của Mị lại rất khác, cô uống ừng ực từng bát lớn, uống để tiêu tan sầu muộn. Dường như trong mờ hồ Mị mở màn sống lại niềm yêu đời sống. Rồi bất chợt “ ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sau vọng lại tha thiết, bồi hồi ”. Tiếng sáo này đã thực sự khơi lại sức sống trong Mị. Nó khiến Mị nhớ lại những ngày trước đây, về những ngày tự do, yêu đời cả mình. Tiếng sáo thấm dần vào tâm lý, trái tim Mị, dần thức tỉnh cô .
Tiếng sáo thức tỉnh khao khát được đi chơi, được tiếp xúc với mọi người. Từ trước đến nay Mị chưa khi nào được đi chơi, bởi A Sử cấm. Một cách đầy hữu ý tiếng sáo lại Open “ trong đầu Mị rập rời tiếng sáo ” đã thôi thúc từ tâm lý trở thành hành vi làm mưa làm gió của Mị. Mị vào buồng sẵn mỡ thắp cho sáng, rồi với tay lấy vát sẵn sàng chuẩn bị đi chơi. Để Mị hoàn toàn có thể rời xa hiện tại đau thương quay trở lại với quá khứ vui tươi. Nhưng khi hành vi chuẩn bị sẵn sàng được triển khai, Mị bị A Sử phát hiện, hắn dùng chính tóc cô mà trói đứng lại ở tường. Cô khóc, bởi không ai giúp mình, bởi quá khứ tươi đẹp một lần nữa ùa về trong cô, thức tỉnh con người tưởng như đã chết trong cô
Sau lần phản kháng tiên phong, Mị liên tục rơi vào trạng thái sống mòn. Trong lúc này, A Phủ một người cũng có thân phận chuộc nợ như Mị, do làm mất bò mà bị trói đứng ngoài sân. Đêm nào Mị cũng ra sân đốt lửa, nhưng tuyệt nhiên không quan tâm đến A Phủ : “ Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa ”. Bởi khi này lòng Mị đã nguội lạnh, tâm can đã câm nín, chính số phận mình Mị đã chẳng còn chăm sóc nữa, huống chi số phận người khác .
Nhưng trong lần ấy, dưới sự ảnh hưởng tác động của giọt nước mắt của A Phủ, Mị đã đổi khác tâm lý trọn vẹn : “ Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh lung linh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại ”. Giọt nước mắt đó khiến cô bất giác nhớ về mùa xuân trước kia, khi cô bị trói đứng, cô khóc nhưng không ai đến giúp cô cả, cũng không hề lau đi được. Giọt nước mắt của A Phủ đã làm trỗi dậy sức sống của Mị. Trong Mị hình thành tình thương và sự hi sinh : “ Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình mà nhà nó rồi, thì chỉ biết đợi ngày mà rủ xuống ở đây thôi … Người kia việc gì mà phải chết ”. Mị đã quyết định hành động giải cứu A Phủ. Đây không phải là quyết định hành động bồng bột nhất thời mà nó xuất phát từ sự đồng cảm, từ lòng yêu thương con người .
Sau khi giải cứu A Phủ, trong một khoảnh khắc Mị cũng vụt chạy theo A Phủ để giải cứu cho chính mình. Hành động cởi trói tư tưởng giải cứu chính mình là hành vi tuy giật mình nhưng vô cùng phải chăng. Nó cho thấy sức sống tiềm tàng, can đảm và mạnh mẽ trong Mị .
Với biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật, Tô Hoài đã đem đến cho bạn đọc chân dung của một người con gái không chỉ đẹp người, đẹp nết mà còn có sức sống tiềm tàng can đảm và mạnh mẽ. Mị là đại diện thay mặt tiêu biểu vượt trội cho sức sống của con người, là đại diện thay mặt cho hành trình dài đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ khổ đau đến niềm hạnh phúc của những người nông dân dân tộc thiểu số .

Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ – mẫu 6

Tô Hoài là một khuôn mặt tiêu biểu vượt trội của nền văn học Nước Ta đương đại. Tài năng của ông được ghi dấu trong lòng fan hâm mộ bởi rất nhiều sáng tác có giá trị. Trong số đó, rực rỡ nhất phải kể đến truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ ” được nhà văn sáng tác trong chuyến đi trong thực tiễn Tây Bắc năm 1953. Tác phẩm tái hiện cảnh sống bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân. Nổi lên trên toàn cảnh thối nát của chính sách xã hội, Tô Hoài tập trung chuyên sâu ca tụng tâm hồn, phẩm chất tốt đẹp cùng sức sống mãnh liệt của con người. Có lẽ, đến với “ Vợ chồng A Phủ ” không ai trong tất cả chúng ta hoàn toàn có thể quên được một cô Mị, đau khổ, cam chịu nhưng lại tiềm tàng sức sống mãnh liệt quật cường. Mị là nhân vật kết tinh bởi những giá trị ý thức cao đẹp, giá trị nhân đạo thâm thúy mà Tô Hoài gửi gắm .
Sức sống tiềm tàng, hiểu đơn thuần là khao khát chính đáng một đời sống có ý nghĩa của một “ con người ” vốn bị che lấp bởi thực trạng, bởi sự cam chịu nhưng hoàn toàn có thể bùng lên mãnh liệt khi có tác động ảnh hưởng. Để thấy được sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, trước hết, tất cả chúng ta phải hiểu thực trạng mà nhân vật đang sống. Mị vốn là một cô gái trẻ vừa đẹp người, vừa đẹp nết. Mị chịu khó, đảm đang, hiếu thảo, giàu đức hi sinh vị tha, yêu đời và rất mực tài hoa. Một cô gái như vậy đáng lẽ phải được hưởng một đời sống niềm hạnh phúc. Thế nhưng, “ hồng nhan bạc mệnh ”, cuộc sống xô đẩy Mị vào thực trạng phải làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Một danh phận bẽ bàng làm thế nào – làm dâu trừ nợ. Chính vì thế, tại nhà thống lí, Mị không khác gì một kẻ tôi đòi, nô lệ. Mị phải “ vùi vào thao tác cả đêm cả ngày ” “ quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên ”. Mị gần như tê liệt hết về sức sống. Mị “ tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm thôi ”. hờ hững với sự chảy trôi của thời hạn, trở thành “ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ”. Cuộc sống của Mị trở nên không có ý nghĩa, nhạt nhẽo, toàn bộ thu lại bằng ô hành lang cửa số lỗ vuông bằng bàn tay mờ mờ trăng trắng trông ra không biết là sương hay là nắng. Tất cả những điều đó khiến tất cả chúng ta không thôi liên tưởng Mị giống như cái xác không hồn, không quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều gì đã biến một thiếu nữ đương độ xuân thì, phơi phới yêu đời trở nên cam chịu, gật đầu đời sống không có ý nghĩa như vậy ? Chính bởi gánh nặng của mấy tầng áp bức cường quyền, thần quyền, những hủ tục phong kiến ở miền núi. Sự mục nát của xã hội tất yếu sản sinh ra thế hệ người không có lời nói, dù là lời nói vì quyền sống của mình như nhân vật Mị .
Tuy nhiên, nếu câu truyện chỉ dừng lại ở việc bộc lộ sự u mê, mông muội của con người trước hủ tục và cái ác thì có lẽ rằng “ Vợ chồng A Phủ ” đã không gây ấn tượng với fan hâm mộ như vậy. Cái hay của Tô Hoài là ông không để nhân vật của mình vĩnh viễn chìm trong tăm tối. Đối với Mị, sức sống vẫn luôn tiềm tàng, chỉ cần một sự thức tỉnh kịp thời hoàn toàn có thể khiến nó trỗi dậy can đảm và mạnh mẽ hơn khi nào hết .
Khi mới về làm dâu nhà Pá Tra, Mị cũng đã từng phản kháng dù chỉ là sự phản kháng yếu ớt là khóc : “ có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc ”, khóc vì không muốn đồng ý hiện thực, vì không cam lòng. Cũng đã có lúc, Mị nghĩ đến việc kết thúc cuộc sống không có ý nghĩa, đau khổ bằng cách ăn lá ngón tự tử. Tìm đến cái chết, hoàn toàn có thể với Mị chính là một sự giải thoát, bộc lộ cho sự không cam chịu, sự kháng cự trong vô vọng .
Mị đã từng kháng cự nhưng hoàn toàn có thể nói, ý chí đấu tranh ở Mị khi ấy không đủ sức vượt qua lề thói xã hội, lòng hiếu thảo hay cường quyền nên nó nhanh gọn vụt tắt. Mặc dù vậy, nó vẫn luôn âm ỉ cháy trong tiềm thức của Mị. Để rồi, đêm tình mùa xuân đến với tiếng sáo, tiếng khèn của trai làng gọi bạn tình, như mồi lửa nhỏ làm bùng lên ngọn lửa khát khao sống, khát khao niềm hạnh phúc trong Mị. Mị cũng uống rượu, “ Mị … cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say ”. Mùa xuân đến gọi về trong Mị biết bao hồi ức xinh xắn “ Mùa xuân đến, Mị uống rượu bên nhà bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị ”. Mị thoát khỏi tâm trạng dửng dưng lâu nay để trở thành con người thức tỉnh, vươn tới những ý nghĩ và khát vọng đẹp tươi. “ Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng ” làm lòng Mị đang phơi phới sống về những ngày trước. Mị thấy “ trong lòng đùng một cái vui sướng … Mị trẻ lắm … Mị muốn đi chơi ” Lúc này, ý thức về bản thân trong trỗi dậy. Mị biết mình cần gì, mình muốn gì chứ không còn là cái xác vô hồn, dửng dưng với đời như trước nữa. Càng nhận thức được bản thân, nhận thức được thực trạng, Mị càng phẫn uất mãnh liệt và thấm thía nỗi tủi nhục của mình. Mị khêu to ngọn đèn cho sáng như thể khêu ngọn lửa của lòng ham sống, của sự khát khao. Sự thôi thúc của trái tim như muốn phá vỡ những xiềng xích hung tàn trong nhà thống lí Pá Tra, thử thách mọi ràng buộc khắc nghiệt của cường quyền. Lần tiên phong sau bao nhiêu năm sống kiếp con vật, khao khát biến thành hành vi : “ Mị quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa ” chuẩn bị sẵn sàng đi chơi ngày Tết. Giữa lúc ngọn lửa của lòng ham sống trong Mị trỗi dậy, bùng lên mãnh liệt thì A Sử, chồng Mị đã Open vùi dập toàn bộ, hắn thản nhiên “ trói đứng Mị vào cột nhà ”. Thế nhưng, khi người đọc tưởng như lại một lần nữa Mị sẽ đầu hàng số phận thì Mị “ như không đang biết mình đang sợ bị trói … Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những game show ”. Sức sống tiềm ẩn trong con người Mị khiến Mị quên hết nỗi đau thể xác, “ Mị vùng dậy bước tiến ” .
Hình như, Mị đã trọn vẹn thức tỉnh. Đặc biệt, qua hành vi cởi trói cho A Phủ rồi cùng nhau trốn khỏi Hông Ngài thì sức sống tiềm tàng nơi Mị đã bùng phát can đảm và mạnh mẽ đến độ ngang nhiên tuyên chiến cả thế lực bạo tàn để đòi quyền sống. Mị đã trông thấy A Phủ bị trói đứng một cách thảm khốc từ cách đó mấy hôm nhưng mấy đêm đầu Mị vẫn thản nhiên “ thổi lửa hơ tay ”. Với Mị, chuyện đánh người, trói nguời ở nhà Pá Tra xảy ra như cơm bữa. Hơn nữa, dù có thương xót, đồng cảm với A Phủ thì Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực. Đến đêm nay, dưới ánh lửa “ bập bùng ” trông thấy “ dòng nước mắt lấp lánh lung linh bò xuống hai hõm má đã xám đen ” của A Phủ, Mị càng thương mình, càng thương người. Mị nghĩ “ Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết … Chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết ”. Mị cũng biết, nếu cởi trói cho A Phủ, “ Mị liền phải trói thay vào đấy. Mị chết trên cái cọc ấy ”. Nhưng tình thương, niềm đồng cảm giữa những con người cùng cảnh ngộ đã ép chế nỗi sợ và lớn hơn cái chết, nó đã dẫn đến hành vi táo bạo : cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Mặc dù đây là hành vi tự phát nhưng là hiệu quả của một quy trình, nó dẫn chứng sức sống tiềm tàng, âm ỉ không ngừng trong con người Mị. Hành động cắt dây trói giải thoát cho A Phủ lưu lại bước ngoặt trong tính cách và cuộc sống Mị. Với hành vi này, Mị không chỉ giải thoát cho A Phủ mà còn giải thoát cho chính mình. Ý thức được nỗi khổ của kiếp sống tủi nhục, Mị đã tuyên chiến với biết bao thế lực khắc nghiệt của cường quyền, hủ tục, lễ giáo phong kiến ( là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi ) để đòi quyền con người cho chính mình .
Qua việc miêu tả tâm lí nhân vật rất là tinh xảo, Tô Hoài đã thành công xuất sắc cho thấy vẻ đẹp đáng trân trọng của tâm hồn, khát vọng sống mãnh liệt khuất lấp sau những hình hài câm lặng và cam chịu của những người dân nghèo vùng núi, đặc biệt quan trọng là người phụ nữ. Cũng qua đây, nhà văn lên tiếng tố cáo xã hội mục nát dưới sự quản lý của thần quyền, cường quyền đã trà đạp lên quyền sống chính đáng của con người. Đồng thời, với việc khắc họa nhân vật Mị, Tô Hoài một lần nữa bày tỏ thái độ bênh vực, trân trọng, thương xót những kiếp người nhỏ bé trong xã hội phong kiến thực dân. Từ đó, nhà văn lôi kéo con người gan góc đấu tranh cho sự sống, cho quyền con người chân chính. Đó có lẽ rằng là lí do vì sao “ Vợ chồng A Phủ ” được coi là tác phẩm đầy tinh thần nhân đạo thâm thúy và tính nhân văn cao quý !

Bài giảng: Vợ chồng A Phủ – Cô Vũ Phương Thảo (Giáo viên VietJack)

Xem thêm những bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác :

Giới thiệu kênh Youtube VietJack

Ngân hàng trắc nghiệm miễn phí ôn thi THPT Quốc Gia tại khoahoc.vietjack.com

viet-bai-lam-van-so-5-lop-12.jsp

Source: https://vvc.vn
Category : Sống trẻ

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay