Yên Bình là một huyện thuộc tỉnh Yên Bái, Việt Nam.
Huyện Yên Bình nằm ở phía đông của tỉnh Yên Bái, có vị trí địa lý :
Huyện Yên Bình có diện tích quy hoạnh 1.187,14 km², dân số năm 2019 là 112.046 người [ 1 ], tỷ lệ dân số đạt 94 người / km² .
Yên Bình vào thời nhà Nguyễn là đất châu Thu Vật (năm 1823 đổi tên là châu Thu (Thu Châu) phủ Yên Bình tỉnh Tuyên Quang. Thu Châu vào thế kỷ 19 gồm 7 tổng: Vĩnh Kiên (các đơn vị cấp làng xã: Vĩnh Kiên, Phục Lễ, Vũ Linh, Bạch Hà, An Thịnh), Đại Đồng (các đơn vị cấp làng xã: Đại Đồng, Vũ Khê, Khuôn Sơn, Hoàng Loan Thượng, Hoàng Loan Trung, Hoàng Loan Hạ), Ẩm Phúc (các đơn vị cấp làng xã: Ẩm Phúc, Tô Khê, Dương Liễu, Vô Tha, Phụ Thành, Bảo Ái, Đồng Lang), Cẩm Nhân (các đơn vị cấp làng xã: Cẩm Nhân, Tích Cốc, Bình Hanh, Hoàng Gia), Mông Sơn (các đơn vị cấp làng xã: Mông Sơn, Thì Lại, Xuân Lôi, Phú Lâm, Lãnh Thủy), Ngọc Chấn (gồm các đơn vị cấp làng xã: Ngọc Chấn, Dịch Dương, Xuân Kỳ, Bình Mục, Thu Vật, Hướng Dương), Thì Ngạn (các đơn vị cấp làng xã: Thì Ngạn, Kỳ Mã, Duyên Gia, Đông Lý);
Dưới thời Pháp thuộc, địa phương có lúc nằm trong chính sách quân quản, khi thì ở quân khu miền Tây ( 1885 – 1890 ) ; lúc thì thuộc đạo quan binh thứ ba Yên Bái ( 1891 – 1900 ). Nhìn chung, những đơn vị chức năng hành chính cấp tổng và xã không đổi chỉ có tên Châu Thu đổi là phủ Yên Bình .Sau năm 1945, đổi phủ thành huyện, giải thể cấp tổng. Huyện Yên Bình lúc bấy giờ có 39 xã. Sau khi tự do lập lại, do việc xây dựng khu tự trị Việt Bắc, ngày 1 tháng 7 năm 1956, quản trị nước Nước Ta dân chủ cộng hòa ra Sắc lệnh số 268 – SL chuyển huyện Yên Bình của tỉnh Tuyên Quang để sáp nhập vào tỉnh Yên Bái .Ngày 28 tháng 1 năm 1967, Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 21 – NV về việc chuyển 2 xã : An Phú và Phú Mỹ về huyện Lục Yên quản trị. [ 3 ]Do việc di dân để kiến thiết xây dựng nhà máy sản xuất thủy điện Thác Bà, cũng trong ngày 28 tháng 1 năm 1967, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra quyết định hành động số 24 – NV về việc giải thể 19 xã : Yên Bình, Bình An, Văn Chính, An Thọ, Ẩm Phước, Chính Tâm, Yên Vượng, Đồng Thái, An Dương, Dương Liễu, Hợp Hòa, Đồng Thanh, Đại Đồng, Minh Phú, Tân Thành, Vĩnh An, Tích Trung, Đồng Tâm và Đông Lý. Điều chỉnh xóm Mạ thuộc xã Yên Vượng ( giải thể ) sáp nhập về xã Vĩnh Kiên và xóm Đá chồng thuộc xã Đại Đồng ( giải thể ) và xóm Hồng Bàng thuộc xã Đông Lý ( giải thể ) sáp nhập về xã Hương Lý. [ 4 ]Ngày 16 tháng 2 năm 1967, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra Quyết định số 51 – NV chia xã Vũ Linh thành 2 xã : Vũ Linh và Bạch Hà, chia xã Vĩnh Kiên thành 2 xã : Vĩnh Kiên và Yên Bình, chia xã Cảm Nhân thành 2 xã : Tích Cốc và Cảm Nhân. [ 5 ] Đồng thời, sáp nhập 2 xã : Hán Đà và Đại Minh thuộc huyện Đoan Hùng của tỉnh Phú Thọ về huyện Yên Bình .Ngày 27 tháng 12 năm 1975, huyện Yên Bình thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, gồm 23 xã : Bạch Hà, Bảo Ái, Cảm Ân, Cẩm Nhân, Đại Đồng, Đại Minh, Hán Đà, Mông Sơn, Mỹ Gia, Ngọc Chấn, Phú Thịnh, Phúc An, Phúc Ninh, Tân Hương, Tân Nguyên, Thịnh Hưng, Tích Cốc, Vĩnh Kiên, Vũ Linh, Xuân Lai, Xuân Long, Yên Bình và Yên Thành. [ 6 ]Ngày 23 tháng 2 năm 1977, xây dựng thị xã Thác Bà. [ 7 ]Năm 1981, chuyển huyện lỵ từ thị xã Thác Bà đến xã Phú Thịnh .Năm 1985, chia xã Phú Thịnh thành 2 đơn vị chức năng hành chính : xã Phú Thịnh và thị trấn Yên Bình ( thị xã huyện lỵ huyện Yên Bình ) .Ngày 12 tháng 8 năm 1991, huyện Yên Bình trở lại thuộc tỉnh Yên Bái vừa tái lập. [ 8 ]
Ngày 4 tháng 8 năm 2008, chuyển xã Văn Lãng thuộc huyện Trấn Yên về huyện Yên Bình quản lý.[9]
Ngày 1 tháng 2 năm 2020, sáp nhập xã Tích Cốc vào xã Cảm Nhân và sáp nhập xã Văn Lãng vào xã Phú Thịnh. [ 10 ]Huyện Yên Bình có 2 thị xã và 22 xã như lúc bấy giờ .
Huyện Yên Bình có 24 đơn vị chức năng hành chính cấp xã thường trực, gồm có 2 thị xã : Yên Bình ( huyện lỵ ), Thác Bà và 22 xã : Bạch Hà, Bảo Ái, Cảm Ân, Cảm Nhân, Đại Đồng, Đại Minh, Hán Đà, Mông Sơn, Mỹ Gia, Ngọc Chấn, Phú Thịnh, Phúc An, Phúc Ninh, Tân Hương, Tân Nguyên, Thịnh Hưng, Vĩnh Kiên, Vũ Linh, Xuân Lai, Xuân Long, Yên Bình, Yên Thành .
Tiềm năng tăng trưởng của huyện là du lịch, cạnh bên đó công nghiệp và nông nghiệp cũng được trú trọng : những nhà máy sản xuất xí nghiệp sản xuất được tăng cấp và kiến thiết xây dựng như Nhà máy xi-măng Yên Bình được thiết kế xây dựng tại KM 10 và Nhà máy xi-măng Phú Thịnh cũng được tăng cấp từ lò đứng sang lò quay, Nhà máy thủy điện Thác Bà được Tổng công ty điện lực góp vốn đầu tư cơ sở 2 tại Na Hang – tỉnh Tuyên Quang .
Thay đổi sau khi xây nhà máy sản xuất thủy điện Thác Bà[sửa|sửa mã nguồn]
Trước kia, khi Nhà máy thủy điện Thác Bà chưa kiến thiết xây dựng, người dân sinh sống bám theo hai bờ sông Chảy tạo nên những điểm dân cư sầm uất, nhiều người từ miền xuôi lên lập nghiệp tại đây .Trước kia Yên Bình có nhiều rừng tự nhiên với gỗ, nứa và những loại lâm sản quy hiem, người dân khai thác gỗ nứa đóng thành bè, mảng luân chuyển theo dòng sông Chảy về xuôi .
“Còn tiền chợ Ngọc, chợ Ngà
Hết tiền thì lại Thác Bà, thác Ông”
Đó là câu thơ xưa nói về đời sống của người dân hai bên bờ sông Chảy. Chợ Ngọc, chợ Ngà là nơi kinh doanh sản phẩm & hàng hóa nổi tiếng ở vùng Yên Bình trước đây, giờ đây chợ Ngọc nằm sâu dưới lòng hồ Thác Bà, chợ Ngà giờ cũng không còn nữa, người dân khu chợ Ngà lâu nay đi chợ Cát Lem. Còn Thác Bà là nơi có dòng nước chảy xiết đổ xuống những khối đá lớn mà những người khai thác gỗ phải vượt qua, người ta đã lập một miếu thờ gần thác để thắp hương mỗi khi đưa bè gỗ qua đây. Bây giờ miếu thờ này không còn nữa .Vào những năm 1970, khi Nhà máy thủy điện Thác Bà đi vào hoạt động giải trí, cả một vùng to lớn ngập chìm trong nước. Một số làng bản vận động và di chuyển khỏi lòng hồ đến những vùng xa hơn như Mông Sơn, Cảm Ân, xã Yên Bình … Những người dân vùng hồ phải làm quen với thiên nhiên và môi trường sống mới, họ đi lại trên hồ bằng thuyền và xuồng máy, nhiều phụ nữ và trẻ nhỏ biết bơi thuyền ( nan ) bằng chân. Hồ Thác Bà đã tạo nên diện tích quy hoạnh mặt nước rất lớn nằm ở 2 huyện Yên Bình và Lục Yên, nhiều người dân sống gần hồ đã làm thêm nghề đánh bắt cá cá. Hơn một nghìn hòn hòn đảo trên hồ giờ đang được trồng cây lâm nghiệp hầu hết là keo, bạch đàn, muồng, quyền quản trị thuộc về cơ quan lâm trường Thác Bà và chịu trác nhiệm trực tiếp là ông : Nguyễn Văn Vượng trưởng phòng kỹ thuật của lâm trường. Nhiều mỏ đá vôi và đá trắng đang được khai thác và luân chuyển bằng đường thủy trên hồ Thác Bà. Ở đây người ta cũng đang có những dự án Bất Động Sản du lịch trên vùng hồ .
Vị trí: trên sông Chảy. Diện tích lưu vực: 6.430 km². Công suất lắp máy: 120MW. Chiều cao lớn nhất của đập: 48m. Chiều dài đỉnh đập: 657m. Thể tích đập: 1,33 triệu m3. Dung tích hữu ích của hồ chứa: 2.160.000.000 m3. Dung tích toàn bộ của hồ chứa: 2.490.000.000 m3. Diện tích mặt hồ ứng với MN bình thường: 235 km². Chiều dài lớn nhất của hồ chứa: 60 km. Cao trình MNBT: +58,0 Cao trình MN lũ 0,01%: +61,0. Cao trình MN lũ 0,1%: +59,65. Cao trình MN lũ 1%: +58,85. Mực nước hết: +46,0. Mực nước trước lũ: +50,3. Khả năng xả lũ lớn nhất: 3.650m3/s.
Vùng trồng bưởi[sửa|sửa mã nguồn]
Xuôi theo dòng sông Chảy, có một vùng đất phù sa thuộc làng Khả Lĩnh xã Đại Minh ( Yên Bình ) nổi tiếng trồng cây bưởi. Trước đây vùng đất này thuộc huyện Đoan Hùng – tỉnh Phú Thọ, nay thuộc Yên Bình – tỉnh Yên Bái. Bưởi trồng ở vùng đất này cho quả ngon và ngọt nhất. Ngày nay giống bưởi ngọt này đã được trồng ở nhiều nơi nhưng chất lượng thì không đâu bằng bưởi Khả Lĩnh. Bưởi Đại Minh giờ được bán nhiều tại ngã ba Cát Lem .