TƯỞNG NHỚ VŨ ÁNH –MỘT NHÀ BÁO CHUYÊN NGHIỆP
LTS: Nhà báo, Nhà Bình luận lâu năm của Đài Phát thanh Sài Gòn thời Việt NamCộng Hòa và làng báo Việt ở Hoa Kỳ, Ông Vũ Ánh, đã qua đời ngày 14/03/2014 tại NamCalifornia, hưởng thọ 73 tuổi.
Một số đồng nghiệp của “làng báo Sài Gòn trước 1975” đã viết về những kỷ niệm với anh như một lời tiễn đưa không bao giờ quên được.
Các Bài viết đã được Nhà báo Phạm Trần tập trung, chuẩn bị để gửi đến Bạn đọc dưới đây:
***
Vũ Ánh- Kẻ sĩ thời nhiễu nhương không còn nữa!
Du Tử Lê.
Mấy ngày qua, giữa lúc miền nam Calicó được vài ngày nắng ấm và đêm không lạnh lắm, thì tôi lại bị quật ngã bởi nhiều căn bệnh khác nhau. Tôi bị cùng lúc, những cơn đau gây nên bởi sự lồng lộn của những khúc ruột, hậu quả của chứng bệnh ung thư ruột già, đưa tới thực trạng phải cắt bỏ một đoạn ruột khá dài. Và, sự sôi sục, nóng rát quặn thắt bao tử. Không biết có phải cả hai trường hợp không bình thường này đã “ hợp đồng tác chiến ” trong khung hình tôi, để đưa đến thực trạng tiêu chảy không ngưng nghỉ từ 5 giờ chiều Thứ Năm, tới gần sáng Thứ Sáu. Tôi lặng lẽ nghiến răng chịu đựng những con đau liên tục, như những đợt sóng hung hãn không ngừng đổ xuống bờ cát. Nhiều lúc không chịu đựng nổi, tôi phải ra khỏi phòng, để tránh ảnh hưởng tác động tới giấc ngủ của T. Tôi cũng tận dụng một vài thói quen tìm an nhàn cho giấc ngủ như thầm niệm “ lục tự ”. Hoặc, tự nhắc nhở mình, nỗ lực lên, hoàn toàn có thể đây là trận đánh sau cuối với sinh / tử, trước khi ta được giải thoát khỏi kiếp sống tồi tệ, đầy hàm hồ, ngộ nhận này .Tôi an ủi mình, khi cái chết đến, nó không chỉ giải thoát cho cá thể tôi, những người thân trong gia đình quanh tôi mà, nó cũng sẽ giải thoát cho văn chương của khỏi cái khoảng trống đầy xú uế, thải ra bởi những ganh tỵ, thiển cận và thiểu năng cá thể, dẫn tới bày đàn …Những cố gắng nỗ lực đôi lúc tưởng như vô vọng, đã giúp tôi bất động mà T. không hay. T. đâu biết, tôi biết T. rón rén ra khỏi giường vào lúc 5 giờ sáng. T. đâu biết, lúc T. ở vườn sau, trong phòng, mở mắt, chờ nắng lên từ khung cửa sổ. Tôi biết lúc bình minh mon men leo dần và nghiêng đầu ngó vào căn phòng của chúng tôi, vào khoảng chừng 6 giờ. Tôi biết, nắng chảy chan hòa chăn mềm của chúng tôi, lúc 7 : 30. Đó cũng là lúc tôi thiếp đi sau một đêm thức với … những cơn đau !Gần mười giờ, T. vào phòng lay tôi dạy – – Nhắc tôi … “ trễ giờ đi làm rồi … ” Chữ T. dùng để chỉ việc làm … ra quán café mỗi buổi sáng, dù bão táp, lụt lội của tôi .Tới lúc đó, tôi mới cho T. biết, tôi đau cả đêm. Mới thiếp đi. Không dạy nổi. Và, bảo T. tôi chỉ cần ngủ .Mười một giờ, trước khi đi làm, T. vào phòng, hỏi tôi cần gì không ? Tôi khước từ. Khoảng một giờ rồi ba giờ, T. gọi về hỏi thực trạng sức khỏe thể chất của tôi. T. bảo tôi, cố ngồi dậy, ăn chút gì cho đỡ mất sức. Phở hoặc cháo ? Tôi hứa tôi sẽ dậy. Ra khỏi phòng … Nhưng rồi những cơn đau lại tìm tôi để trút xuống những trận đòn thù. Trước khi lại dìm sâu vào hôn mê, tôi nhận được nhiều điện thoại cảm ứng liên tục của bạn tôi, Ngọc Hoài Phương. Những hồi chuông không bình thường, gắt gỏng, tức bực … Thấy tên bạn qua ô kính màn hình hiển thị cell phone, phần không đủ sức vấn đáp, phần nghĩ bạn tôi muốn “ check ” xem chuyện gì xẩy ra cho tôi mà sáng nay, tôi không ra quán … Tôi im re. Sau loạt điện thoại cảm ứng liên tục của Phương, là của một người bạn khác. Bùi Vĩnh Hưng … Những hồi chuông báo tử ( ? ), theo tôi chìm vào mê sảng !Năm giờ chiều, hoàn toàn có thể vì quá lo ngại, T. điện thoại thông minh về cho H., bảo vào phòng coi xem tôi ra làm sao ? Tôi nghĩ, phải dạy thôi. Để mọi người yên tâm là tôi chưa “ đi xa ”, chí ít, cũng ngay lúc này .Tôi đâu ngờ, những hồi chuông báo tử tạm rời xa tôi thì, thời hạn đó, cũng là lúc những hồi chuông báo tử khác, gióng giả báo tin sự chấm hết bất ngờ đột ngột đời sống bạn tôi, Vũ Ánh !Gần bảy giờ, trời còn sót chút nắng, ngồi tựa sống lưng vách tường, sân sau, gọi cho Ngọc Hoài Phương – – Tôi đinh ninh bạn tôi sẽ hỏi chuyện gì mà không ra quán sáng nay ( ? ) Nhưng không. Ngọc Hoài Phương nói ngắn, gọn :“ Vũ Ánh mất rồi ! … ”Như 99 ngày trước, khi T. gọi về báo tin Việt Dzũng, phản xạ hấp tấp vội vàng, ngây ngô của tôi là :“ … Cái gì ? ”“ Vũ Ánh chết rồi ! ”“ Chắc không ? Ai xác nhận ? ”Bạn tôi đáp, vẫn ngắn gọn :“ Rồi. Yến Tuyết cho biết ! ”Tôi bàng hoàng. Tắt máy !Nếu đời sống luôn đem đến cho tất cả chúng ta những điều không hiểu nổi thì, tin Vũ Ánh mất, là một trong những điều không hiểu nổi, to lớn so với tôi. Một người sống ngăn nắp. Trật tự. Nghiêm cẩn …Tôi nhớ, ở quán café LH, mới vài ngày trước, khi chuyện trò với Khánh Hòa và Vũ Đình Trọng về việc sẽ mời hai người bạn trẻ trở lại chương trình “ Du Tử Lê và Bằng Hữu ” ở đài SBTN vào Thứ Ba tuần tới, tôi còn nói, tôi thích lắm, khi biết chuyến viễn du mới nhất của nhóm Sống, đến Las Vegas, có Vũ Ánh !Tôi nhớ, tôi từng nói, nhiều lần với Ngọc Hoài Phương, Khánh Hòa, Vũ Đình Trọng, Nguyễn Chí Khả … rằng, tôi khâm phục Vũ Ánh, qua những bài viết phản ảnh những cảm nghĩ trung thực của ông, về những tệ trạng đáng xấu hổ diễn ra trong hoạt động và sinh hoạt của hội đồng người Việt ở hải ngoại. Dù cho vì những bài báo đó mà, ông đã nhận lãnh không biết bao nhiêu lên án, nguyền rủa, hăm đọa … Nhưng không cho nên vì thế, ông lùi bước, nhụt chí … trước những điều ông cho là không hề ngoảnh mặt, ngậm thinh .Tôi nhớ, lần chót, tôi gặp bạn tôi, chúng tôi có nhiều thì giờ trò chuyện với nhau. Đó là lần gặp nhau cách đây vài tháng ở nhà Khánh Hòa. Buổi chiều đó, có dễ vì cùng chủ trương đúng giờ, nên khi chúng tôi tới, ngoài gia chủ, những người tiếp tay tổ chức triển khai cuộc họp mặt, khách chưa tới .Ngồi với nhau chung một ghế salon làm tóc nơi phòng khách nhà Khánh Hòa, tôi nói với bạn tôi về tài liệu bí hiểm cuộc chiến tranh việt nam, Ngũ giác đài mới giải mật mà, bạn tôi đang dịch từng kỳ cho báo Sống. Tôi cũng nói với bạn tôi rằng, tôi có theo dõi loạt hồi ký 13 năm tù tái tạo của bạn, hàng tuần, trên nhật báo Người Việt. Bạn tôi quá bất ngờ lắm ! Có thể ông không nghĩ tôi có thì giờ theo dõi những loạt bài như vậy. Hoặc ông cho, đó là lãnh vực mà tôi ít chăm sóc nhất !Tôi nói, không những tôi đọc mà, tôi còn nhớ cả những bài viết của ông, thời hạn ông làm Chủ bút cho tờ Viễn Đông, của cố nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang ; khi tòa soạn báo này còn tạm trú trong một căn phòng nhỏ hẹp, mặt tiền đường Bolsa, thành phố Midway City ( ? )Trước khi có nhiều khách tới, tôi còn kịp nói với ông, lòng khâm phục của cá thể tôi và, lập trường bất thối chuyển của ông về những yếu tố lớn của quốc gia, như chính sách cộng sản, não trạng ao tù của một vài thành phần chống cộng ở hải ngoại …Ông bảo, ông biết. Chính vì ông có những cái nhìn về quốc gia, đường lối Quốc / Cộng khác hơn một số ít người mà, ông phải trải qua không biết bao nhiêu tai nạn đáng tiếc ! Nhưng :“ Tôi thanh thản, bằng lòng đồng ý vì đó là con đường tôi chọn ! Tôi nghĩ thời hạn tù đầy, tôi và 1 số ít đồng đội còn dám làm báo chui, tờ Hợp Đoàn, đem đến cho cá thể tôi, tổng số 6 năm cùm, biệt giam … Bị hành hạ ‘ lên bờ xuống ruộng ’ … thì hà cớ gì, ở xứ tự do này, tôi lại phải viết những điều không đúng với tâm lý của tôi ? Tôi có cái may là được bà Y.T. ủng hộ, san sẻ, nên mái ấm gia đình chúng tôi vượt qua khó khăn vất vả, điều tiếng thuận tiện … ” Họ Vũ tâm sự .Trưa nay, đọc bản tin của TN và ĐD viết về Vũ Ánh, trên nhật báo Người Việt, giữa lúc những cơn đau chưa rút khỏi thân thể, tôi chú ý quan tâm tới đoạn viết ngắn :
“…Vũ Ánh là một nhà báo yêu nghề và say mê với công việc. Ông qua đời tại phòng làm việc tại tư gia; bài báo cuối cùng của ôngmang tựa đề ‘Hà Nội vẫn chưa đủ niềm tin cởi trói báo chí’, được gởi đến Nhật Báo Người Việt lúc 11:37 phút sáng của ngày cuối cùng trong cuộc sống ông…”
Theo đó, tính tới 12 giờ 30 phút, tức khoảng chừng một tiếng sau, khi anh chị em báo Sống gặp nhau, theo thông lệ mỗi trưa Thứ Sáu, không có Vũ Ánh thì, bạn tôi đã “ đi xa ” một cách giật mình, êm đềm – – Đến độ, nhiều phần hoàn toàn có thể chính ông cũng không biết, mình sắp “ đi xa ” .( Mơ ước được chết một cách thanh thản, nhanh chóng, là khát khao cháy bỏng của nhiều người, trong đó có tôi … )Lại nữa, trước khi đi xa, tới phút cuối, họ Vũ vẫn còn tận hiến trí tuệ, năng lực, kiến thức và kỹ năng của ông, cho tập thể ( bài viết gửi cho báo Người Việt ) .Những góp phần của Vũ Ánh cho quốc gia, cho dân tộc bản địa, theo tôi là những tận hiến của một người Kẻ – Sĩ thời nhiễu nhương. Một người sống Công-Chính cho tới phút cuối đời mình !Vì thế, hơn ai hết, vẫn theo tôi, ông xứng danh được Thượng đế ân thưởng chuyến đi xa ở đầu cuối một cách êm đềm – – Đến độ, nhiều phần, hoàn toàn có thể chính ông, cũng không biết rằng, mình sắp … “ đi xa ”. Một mơ ước, khát khao cháy bỏng, không phải ai cũng hoàn toàn có thể có được .*Vũ Ánh, bạn tôi, sống, chết được như bạn, âu cũng là một niềm hạnh phúc lớn lắm vậy ! Xin bạn an nghỉ trong niềm thương tiếc, kính trọng của rất nhiều người thuộc đám đông thầm lặng thời điểm ngày hôm nay và, ngày mai .Du Tử Lê( Garden Grove, Mar. 15 năm trước )
Vũ Ánh (ngồi giữa)
***
VŨ ÁNH-Một Nhân Cách Báo Chí Đã Tắt
Phạm Trần
Vũ Ánh, Nhà báo-Nhà Truyền thông, một Nhân cách báo chí thời Việt NamCộng Hòa không còn nữa. Ông đã lặng lẽ ra đi không lời từ biệt sau 73 năm sống trên đời và 50 năm viết báo, làm truyền thanh, truyền hình.
Tôi không có hân hạnh được sống nghề làm báo chung với Vũ Ánh, nhưng là một trong những người bạn cùng nghề với anh.
Chúng tôi gần tuổi nhau nên dễ hiểu và tôn trọng những việc làm của mỗi người. Vũ Ánh ít nói oang oang “cả vú lấp miệng em” kiểu Lê Thiệp, Trần Công Sung hay Ngô Vương Tọai, hoặc ưa cãi “lý sự ” như Phan Thanh Tâm. Anh lúc nào cũng “từ từ mà nói, chuyện đâu còn đó, làm gì mà tụi bay ồn ào chả ra cái mẹ gì” !
Trong nhiều lần gặp anh em, Vũ Ánh là người ít nói nhất. Cười xuề xòa là Vũ Ánh. Dễ dàng ngả theo đám đông cũng là Vũ Ánh. Tụi bay thế nào thì tao vậy cũng là Vũ Ánh, nhưng đừng bảo anh là người “ba phải”. Vũ Ánh là người rất đúng hẹn với việc làm và ít khi sai hứa với bạn nên chả có thằng bạn nào không ưa anh.
Khi viết lách, Vũ Ánh rất đúng hẹn với Tòa sọan và chung thủy với quan điểm của mình,, dù có thể “gây thù chuốc óan”. Nhưng anh chẳng bao giờ biết buồn vì những phản ứng không thuận chiều ấy.
Anh bảo:”Có như thế mới có tự do và mới thấy tương lai báo tiếng Việt vẫn chưa đến thời mạt vận, vì vẫn còn người đọc.”
Mới năm ngoái đây, khi từ Quận Cam (Orange County) về Virginia dự đám tang Lê Thiệp qua đời ngày 05 tháng 07 năm 2013, Vũ Ánh còn khỏe mạnh, phương phi và chững chạc nhưng “chưa phải bước chậm” như ông thầy Báo chí 84 tuổi Nguyễn Ngọc Linh của anh.
Hồi ấy, khi được tôi báo tin Lê Thiệp đã bỏ anh em, Vũ Ánh bàng hòang nói: “Có ai ngờ nó ra đi mau như vậy đâu !”
Nhiều anh em cũng đã nói về Vũ Ánh như thế sau tin sét đánh anh đã qua đời chiều Thứ Sáu 14/3 (2014).
Như vậy là chưa đầy giỗ đầu một năm của Lê Thiệp, anh em của “làng báo Sài Gòn xưa” còn sống ở trong và nước ngòai lại mất thêm Vũ Ánh.
Lê Phú Nhuận, một bạn đã nhiều năm cùng gắn bó với Vũ Ánh ở Đài Phát thanh Sài Gòn trước 1975 thẫn thờ phát biểu:“Đến tuổi bọn mình thì đều sắp hàng chờ đến phiên thôi. Thật buồn.”
Nhưng tại sao lại phải “chờ đến phiên” ? Chúng ta cứ nghĩ như Lê Thiệp và Vũ Ánh vẫn còn sống có được không ?
Quan niệm “hãy coi người chết vẫn còn sống quanh ta” để cho ta được sống đến với tôi đã từ trên 10 năm khi Thi sỹ, Nhà báo Giang Hữu Tuyên, Chủ nhiệm Hoa Thịnh Đốn Việt Báo cũng bất ngờ qua đời sau cơn tai biến mạch máu não.
Sau đó, cứ mỗi lần tôi gửi bài viết Thời sự Việt Nam hàng tuần cho Bà Qủa phụ Giang Hưu Tuyên, tôi lại nhớ đến hình ảnh Tuyên hiện ra trước mắt với câu nói giục bài: “ Anh Phạm Trần ơi, trận đấu chỉ còn vài phút phù du của hiệp nhì thôi anh !”
Cùng với hình ảnh Tuyên, tôi lại nhớ đến Lê Thiệp và bây giờ làm sao tôi có thể quên được nhân cách của Nhà báo Vũ Ánh ?
Phạm Trần
***
Vũ Ánh : Một đồng nghiệp nhân hậu
Lê Phú Nhuận
Từ năm 1965, giới truyền thông miền nam Việt Nam, từ truyền thông chính phủ, đến các báo tư nhân, đã có một bước chuyển mình rất rõ nét, từ cung cách thụ động xưa cũ, sang một sắc thái mới, tích cực hơn, chủ động và đầy sống động, với một lớp phóng viên trẻ, được đào tạo theo các tiêu chuẩn quốc tế. Trong số ký giả trẻ đó có Vũ Ánh, người vừa mới qua đời hôm 14 tháng 03 vừa qua, tại California, hường thọ 73 tuổi.
Trong suốt thời gian từ 1965 cho đến tháng Tư 1975, tôi làm việc song hành với Vũ Ánh trong cơ quan truyền thông chính phủ, và cũng chia xẻ nhiều điều mà người khác không có được. Vì thế, ngoài tình đồng nghiệp qua nhiều lần sinh tử có nhau, còn là một tình bạn nhiều trân trọng.
Năm 1966, đài phát thanh Sài gòn cử tôi và Vũ Ánh ra Đà Nẵng để phụ trách phần tin tức, thời sự cho một đài phát thanh mới thành lập. Tại đây tôi là người chứng kiến những bước đầu đời của Vũ Ánh đi vào cuộc hôn nhân thứ nhất, mà sau này cũng có nhiều oan khuất. Tôi cũng là người đã vác cuốc xẻng đào huyệt mộ để chôn cất một trong hai đứa con trai bé nhỏ của Vũ Ánh, đã chết vì phỏng nước sôi quá nặng.
Biến động miền Trung (1966-1967) đã đẩy chúng tôi vào một giai đoạn khó khăn khi đài phát thanh bị chiếm đóng. Chúng tôi phải thiết lập một đài phát thanh tạm trong phi trường Đà Nẵng cùng với anh Uyên Thao.
Rồi chiến trường mỗi ngày một sôi động. Vũ Ánh, Dương Phục và tôi chia nhau tháp tùng các cuộc hành quân của các đơn vị quân đội để thực hiện các phóng sự chiến trường, ngay tại mặt trận, phát ngay trên làn sóng của đài phát thanh Sài gòn, và được tiếp vận đi tất cả các tỉnh. Vũ Ánh và chúng tôi cũng chia nhau theo chân các chiến đoàn Nhảy Dù, hành quân khắp các vùng chiến thuật, khi Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng còn là Thiiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2-ND, Đại Tá Thọ còn là thiếu tá Tiểu Đoàn Trường TĐ 8-ND, và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam còn là Trung Tá Chiến Đoàn Trưởng chiến đoàn 3 – ND.
Chúng tôi vẫn ba đứa, Ánh, Phục, và tôi, dù còn là dân sự, lại được Bộ Quốc Phòng cho phép tham dự một khóa huấn luyện Nhảy Dù ( K,105) để có thể theo chân các cuộc hành quân nhảy dù từ trên phi cơ. Chúng tôi lại chia nhau ôm dù nhảy theo các chiến sĩ Mũ Đỏ, đánh vào các mật khu Việt cộng.
Rồi ngày tháng trôi qua, thâm niên và thăng cấp. Ánh và tôi đều được chỉ định vào chức vụ điều ành Sở Thời Sự, Bình Luận, Tin Tức. Vũ Ánh bên Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia. Tôi làm việc bên Việt NamThông Tấn Xã.
Các chức vụ cấp cao trong chính phủ thường thay đổi theo từng vị Thủ Tướng, và Tổng Trưởng Chúng tôi là bộ máy điều hành nằm phía dưới, nên ai đến ai đi mặc kệ, chúng tôi vẫn sống và làm việc với nhau trong nhiều năm dài. Tình cảm vì thế mà gắn bó.
Rồi 30/4/75. Vũ Ánh và tôi, hai đứa vẫn trấn giữ hai cơ quan truyền thông của chính phủ này cho đến những giây phút cuối cùng.
Tôi đi tù theo diện sĩ quan. Vũ Ánh đi tù theo diện tham gia tổ chức chống cộng.
Tôi chưa tròn bảy (7) năm. Vũ Ánh đã phải gỡ đến 13 cuốn lịch.
Đọc hàng loạt emails thương tiếc Vũ Ánh của các bạn tù trong trại kiên giam A-20, mới biết Vũ Ánh sống hiên ngang như thế nào trong trại tù cộng sản.
Vũ Ánh sang định cư tại Mỹ năm 1992, và lại tiếp tục cái nghề mà bạn ấy đã chọn : Viết báo. Phải có một khả năng như thế nào mới có thể được mời giữ chức Chủ Bút một tờ Việt ngữ lớn nhất hải ngoại.
Không thể không nhắc lại rằng Vũ Ánh là người viết bình luận hay và nhanh nhất, được Phủ Tổng Thống VNCH tin cẩn nhất, trực tiếp nhận chỉ thị của bí thư Tổng Thống ( ông Hoàng Đức Nhã ) khi cần phản bác các luận điệu phản chiến của một số chính trị gia Hoa Kỳ. Ông Tổng Trưởng Dân Vân Chiêu Hồi, kiêm bí thư của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu là ông Nhã vẫn còn sống trên đất Mỹ, là một chứng nhân cho điều tôi vừa nói. Cá nhân tôi, tôi vẫn thầm phục tài năng của Vũ Ánh.
Nhưng có lẽ điều làm chúng tôi quý Vũ Ánh nhất là nhân cách, trung thực, thẳng thắn và nhân hậu.
Trong điều hành công việc, tôi cứng rắn và nguyên tắc hơn Vũ Ánh rất nhiều. Nhưng éo le thay, cái mà người ta có thể chinh phục trái tim bạn bè, người thân, lòng nhân hậu, xuề xòa, xí xóa với thuộc cấp, che chở đàn em của Vũ Ánh lại là một yếu điểm, một nhược điểm khi điều hành một tờ báo tư nhân, nơi mà kỷ luật không nghiêm nhặt như trong một cơ quan công quyền. Phải chăng vì thế mà một ký giả tài ba như Vũ Ánh đã phải nhận lãnh nhiều oan khuất trong giai đoạn cuối đời?
Người vợ sau này của Vũ Ánh là bà Yến Tuyết, một cựu phóng viên tốt nghiệp đại học Vạn Hạnh, cũng đã được chính tôi phỏng vấn và dẫn dắt trong những bước đầu phục vụ tại đài phát thanh Sai gòn, cùng với Lê Phú Bổn, Hoàng Hà, Phạm Mạnh Đức … Nói như thế để thấy, chúng tôi sống và làm việc với nhau trong nhiều năm dài, coi nhau như anh em trong một đại gia đình.
Vì thế khi nghe Yến Tuyết nức nở bên kia đầu giây ; “Anh Nhuận cầu nguyện cho anh Ánh đi. Anh ấy đi rồi anh ơi !”, tôi sững sờ. Lại thêm một thằng bạn cùng trang lứa ra đi. Dù biết đời là thế mà sao vẫn không ngăn được giòng lệ thương cảm .
– Bà Vũ Ánh. Cô nữ phóng viên Yến Tuyết ngày nào. Tôi đang thầm cầu nguyện cho chồng của cô đây.
Houston16 MAR. 2014
NLG 73 – Lê Phú Nhuận
***
VŨ ÁNH-Người cuối cùng rời khỏi tàu
Nguyễn Mạnh Tiến
(cựu Phóng viên Đài Phát thanh Sài Gòn)
Nếu chia cuộc đời thành những đoạn bị cắt khúc, Vũ Ánh có 11 năm ở Hệ thống Truyền thanh Việt Nam, 13 năm bị giam cầm trong trại lao cải và hơn 20 năm làm truyền thông ở hải ngoại.
Tôi viết những dòng này như những ghi chép về Vũ Ánh, người bạn quý mến của chúng tôi trong những năm tháng phục vụ ngành truyền thông VNCH.
Tôi quen Vũ Ánh từ những ngày đầu cùng chung khoá huấn luyện ở Đài Phát Thanh Saigon 03 Phan Đình Phùng. Rồi cùng làm việc ở Đài cho đến hết ngày 29/4/1975.
Vũ Ánh nhiều tuổi hơn tôi, chẳng nhớ anh mở đường thế nào để tôi dám xưng hô ‘mày tao’. Có thể lúc đó tôi không biết Vũ Ánh lớn tuổi hơn tôi và đứng bên cạnh tôi anh cũng khá là cao!
Thời độc thân, chúng tôi từng có khoảng thời gian hùn tiền thuê chung một căn nhà ở đường Ngô Tùng Châu, Gia Định. Chính những ngày tháng này giúp tôi nhận ra một Vũ Ánh khác, một Vũ Ánh rất nghệ sĩ. Sở dĩ tôi nói thế vì anh khá am hiểu hội hoạ và cũng tập tành cầm cọ.
Dường như máu làm thời sự đã nuôi dưỡng trái tim Vũ Ánh từ trước khi anh thực sự vào nghề. Năm 1964, ở kỳ thi tuyển vào lớp đào tạo phóng viên đài phát thanh, Vũ Ánh vượt lên hàng đầu vì sự hiểu biết thời sự hơn hẳn nhiều người khi thi vấn đáp.
Hôm đó, không ai trả lời được câu hỏi giám khảo Nguyễn Ngọc Linh nêu ra về trận đánh Ấp Bắc. Tất cả đều ‘ú ớ’, trừ Vũ Ánh. Nói Vũ Ánh yêu thời sự là điều không thể phản bác, rõ ràng làm truyền thông mà không thích thời sự, không sống với nó thì nên chọn nghề khác. Tôi nhớ Vũ Ánh nói như thế trong một khoá huấn luyện dành cho phóng viên các đài phát thanh địa phương trực thuộc Hệ thống Truyền thanh Quốc gia.
Sau khi được đào tạo nghiệp vụ chuyên môn phóng viên truyền thanh, Vũ Ánh tự hướng mình vào những công tác tại mặt trận.
Ở Đài chúng tôi dù có là phóng viên chiến trường thì cũng vẫn phải làm các lĩnh vực thời sự khác khi được yêu cầu, Vũ Ánh cũng thế và anh có thể “đóng” nhiều vai một cách ngon lành.
Thời Vũ Ánh khởi sự làm phóng viên chiến trường, không quân VNCH vẫn còn sử dụng trực thăng H34, chưa có UH 1, khu trục thì AD 6, T 28 chứ chưa có phản lực F5, A 37. Vũ Ánh đi rất nhiều và có nhiều cái Tết ra tiền đồn đón xuân với lính, cùng nghe pháo địch và làm phóng sự. Thời gian di chuyển bằng máy bay quân sự của anh nếu cộng lại hẳn phải cả ngàn giờ.
Vũ Ánh là một trong ba phóng viên dân sự của Hệ thống Truyền thanh Quốc gia đã tốt nghiệp và có bằng nhảy dù của Quân lực Việt NamCộng hoà.
Có bằng dù vào giai đoạn chưa ai khoác áo lính như thế mới “hách”. Tôi nhớ ông Lê Phú Nhuận sau đó đã có bài phóng sự rất hay “Tôi học nhảy dù”.
Ngày ba ông bạn Vũ Ánh, Lê Phú Nhuận, Dương Phục nhảy ‘saut’ đầu tiên, tôi tình nguyện đợi ở bãi nhảy để chụp ảnh một bầu trời đầy hoa dù. Hy vọng một ông đáp xuống gần tôi thì khó như trúng số độc đắc.
Nhớ lại những kỷ niệm cũ, bâng khuâng đến kỳ lạ. Dẫu đã nửa thế kỷ, những kỷ niệm của đời phóng viên vẫn chợt hiện.
Vũ Ánh không có số làm phóng viên lâu dài và đã có thể trở thành người cầm súng theo đúng nghĩa của từ đó.
Có đến một nửa anh em phóng viên Đài Phát thanh Saigon bị động viên khoá 5/69 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Sau giai đoạn 1 ở Quang Trung và gần xong 8 tuần huấn nhục ở Trường Bộ binh Thủ Đức, chúng tôi từng nghĩ, từ nay sẽ thực sự sống cuộc đời nhà binh vì qua giai đoạn căn bản quân sự mà không được về, được chuyển lên Thủ Đức thì chắc sẽ học đến khi ra trường.
Thời gian đó những chuyên viên tối cần thiết ở cả lãnh vực công hoặc tư có thể được động viên tại chỗ hoặc biệt phái ngoại ngạch. Song rất bất ngờ, mười mấy người chúng tôi, vừa phóng viên, vừa chuyên viên kỹ thuật đột nhiên nhận được lệnh trở về trình diện nhiệm sở cũ là Đài Phát thanh Saigon, Hệ thống Truyền thanh Quốc gia. Một cách muộn màng, chúng tôi được trở về làm công việc chuyên môn dân sự như trước.
Tôi nhớ là sau những tháng ngày nhiều thay đổi này, Vũ Ánh “bén duyên” với Dinh Độc Lập. Anh thường xuyên tháp tùng các chuyến đi của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và phụ trách công tác bình luận cho Đài. Có lẽ các sếp đã nhìn thấy kiến thức, khả năng chuyên môn, phong cách làm việc nghiêm túc và đặc biệt tinh thần yêu nghề của anh và họ chuẩn bị cho anh lên cao hơn.
Rồi Vũ Ánh trở thành Chánh sự vụ Sở Thời sự Hệ thống Truyền thanh Quốc gia, trông coi cả phòng tin tức, phòng phóng sự và phòng bình luận. Ở vị trí mới, Vũ Ánh không câu nệ, không có vẻ “Chánh sở”, anh gần gụi với đồng nghiệp cũ, thân thiện với giới trẻ, những phóng viên lứa đàn em và đặt sự tin cậy vào họ.
Tôi cho rằng Vũ Ánh đã học được cách điều hành của các Tổng Giám đốc Nguyễn Ngọc Linh và Vũ Đức Vinh. Các ông sếp này rất tin tưởng và dám sử dụng anh em trẻ vào những sự kiện thời sự mang tầm vóc quốc gia.
Ông Linh được cho là một nhà cải cách truyền thông ở Việt Nam vào thập kỷ 1960 và hẳn ông đã hài lòng về các học trò của mình. Vì họ đã thực hiện những cải cách của ông, vốn chưa từng có ở Việt Nam. Điển hình như ngừng chương trình phát thanh thường lệ để phát một bài tường trình từ mặt trận thu qua điện thoại, hay một sự kiện thời sự quan trọng vừa diễn ra, nó có bóng dáng hình thức Breaking news bây giờ.
Thời đó những cải cách như thế bị giới lãnh đạo bảo thủ làm khó dễ rất nhiều. Có lẽ họ muốn an toàn, họ sợ ‘mất ghế’, vì làm truyền thông tranh nhau cái nhanh, đa dạng, hấp dẫn, năng động, đồng nghĩa với dễ sai sót.
Vũ Ánh là một trong những nhân tố góp phần vào các cải cách đó, khi anh nhanh chóng từ một phóng viên trở thành một cấp chỉ huy trong vai trò người điều hành.
Tôi có thể nói gì về Vũ Ánh? Một phóng viên mang tinh thần xung phong, một nhà bình luận có những phân tích sâu sắc các sự kiện và ảnh hưởng của nó, một điều phối viên có những quyết định đúng lúc và hợp lý trong tổ chức hoạt động của khối thời sự, bao gồm tin tức, phóng sự và bình luận của Hệ thống Truyền thanh Quốc gia.
Còn trong đời thường, bên ngoài công việc, trước những năm 75, Vũ Ánh như thế nào? Anh đặc biệt không bia không rượu, thích hội hoạ, nghe nhạc, đọc sách, chơi tennis và bơi lội. Những sở thích lành mạnh. Chúng phù hợp với tính cách của anh, một con người trong sáng, hiền lành và tốt bụng nhưng khi cần sẽ quyết liệt như một cú smash trong tennis.
Có những lúc cả phòng phóng sự rủ nhau đi nhảy đầm, Lê Phú Nhuận nhảy giỏi lại có nhiều bạn nhảy, Vũ Ánh cũng tham gia với anh em nhưng có lẽ đây là những cuộc vui anh không thích lắm.
Lúc còn độc thân, Vũ Ánh tỏ ra không chú ý gì tới các đồng nghiệp nữ dù chỗ chúng tôi có không ít những biên tập viên, phiên dịch viên, phóng viên, nếu không gọi là xinh đẹp thì cũng rất mặn mà. Chính vì chỗ anh không dòm ngó, đùa cợt với các đồng nghiệp nữ, nên tôi thường nghe chị em nói: “Ai lấy được ông bụt Vũ Ánh là phúc cả đời”. Song cũng có cô đáp trả: “Phải ở với nhau thì mới biết có ‘bụt’ hay không ạ”.
Vũ Ánh nằm trong số rất ít cấp chỉ huy không bỏ công việc, không bỏ anh em, nhân viên, ở lại nhiệm sở đến giờ cuối cùng.
Khi miền Trung thất thủ, anh đã cùng chúng tôi nghe qua máy liên lạc giai tần đơn với Đài Phát thanh Đà Nẵng, tiếp nhận những lời tạm biệt nghẹn ngào của Quản đốc Huỳnh Quy, báo cáo địch đã vào đến hàng rào.
Là người nắm vững tình hình – một bình luận gia sắc sảo, Vũ Ánh hẳn biết kết thúc thế nào nhưng anh vẫn bình thản chờ nó đến cùng các đồng sự. Giờ chót, điều khiến anh bận tâm là số phận của ba phóng viên trẻ, nếu tôi nhớ không lầm là Hoàng Hà, Nguyễn Thanh Nghiệm và một bạn nữa được cử đi lấy tin ở Long Khánh và các nơi khác.
Bên ngoài dẫu hỗn loạn, Vũ Ánh vẫn hiện diện để điều phối công việc. Khi chúng tôi thực hiện cuộc trực tiếp truyền thanh cuối cùng từ Dinh Độc Lập vào trưa ngày 28/4/1975, tường thuật lễ “trao nhiệm” giữa Tổng thống Trần Văn Hương và Đại tướng Dương Văn Minh.
Vũ Ánh vẫn ở tại Đài vào buổi chiều 28/4/1975 khi máy bay đã oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất.
Vũ Ánh là cấp chỉ huy duy nhất đã cử các phóng viên trẻ Lê Phú Bổn, Nguyễn Vĩnh Lộc cùng chuyên viên kỹ thuật đi thực hiện những cuộn băng cuối cùng, thu lời cụ Nguyễn Văn Huyền, Gíao sư Vũ Văn Mẫu trong ngày 29 tháng 4.
Sau này, tôi được các bạn trẻ kể lại, cho đến trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Ánh và nữ phóng viên trẻ Yến Tuyết, người 17 năm sau trở thành bạn đời của anh vẫn đứng bên ngoài vòng concertina, nhìn những người đeo băng đỏ tiến vào trụ sở Đài Phát thanh Saigon.
Giống như một thuyền trưởng, Vũ Ánh là người cuối cùng rời khỏi con tàu của mình.
Nguyễn Mạnh Tiến
(cựu Phóng viên Đài Phát thanh Sài Gòn)
***
ÔNG BỤT TRONG CON NGƯỜI VŨ ÁNH
Nguyễn Văn Khanh
Tôi gặp anh lần đầu cách đây cũng hơn chục năm. Lúc đó tôi còn là thông tín viên ở Washington D.C. của Nhật Báo Người Việt, vài tháng lại được anh Đỗ Ngọc Yến hay anh Lê Đình Điều gọi về California họp hành, bàn chuyện. Trong một lần về tòa soạn, một trong hai anh giới thiệu tôi với anh Vũ Ánh, bảo “đây là người mới nhất của mình”, ý muốn bảo anh là “lính mới” của tờ báo.
Tôi nhớ như in anh cười rất tươi, vừa bắt tay tôi vừa bảo “mới từ DC xuống hả”, nói thêm “tôi có nhiều người bạn thân trên đó lắm”, nói xong anh kể một dọc những tên tuổi của làng báo Việt Nam ngày xưa, trong số đó có ông vẫn theo nghề cũ như anh Phạm Trần làm việc ở Đài VOA, cũng có những ông buông bút từ ngày lên đường vượt biển. Anh cũng bảo với tôi là từng có lúc sống ở Virginia, “bên đó lạnh quá, tôi chạy sang bên này thời tiết ấm hơn”.
Là “lính mới” nhưng tay nghề anh thì quá siêu. Từng làm việc với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa lúc mới hơn 20 tuổi, từng làm tới trưởng phòng bình luận của Đài Phát Thanh Sải Gòn, từng được Phủ Đầu Rồng gọi vào xem lại, thêm thắt cho một số bài diễn văn Tổng Thổng Nguyễn Văn Thiệu đọc… là những gì tôi được nghe về anh. Một trong những người hết lòng ca ngợi anh là anh Lê Thiệp, bằng chứng có lần anh Thiệp bảo tôi khi tôi chập chững vào nghề: “làm phát thanh mà sắc nước được như thằng Ánh không phải là dễ”. Sau đó, cũng vẫn anh Lê Thiệp bảo tôi khi tôi vừa bắt đầu làm việc với Đài Á Châu Tự Do (RFA) “nếu chú giỏi thì kéo thằng Ánh về D.C. Kéo nó về chú học hỏi được nhiều lắm, mà tôi lại có thằng bạn ở gần”.
Những gì anh Lê Thiệp nói cộng với những lời giới thiệu của anh Yến, anh Điểu, của cả anh Nguyễn Đức Quang khiến tôi phải chú ý đến ông “lính mới” của tờ báo Người Việt. Điều khiến tôi chú ý nhất là hình ảnh một ông nhà báo trung niên không lúc nào rời khỏi bàn viết, ăn cơm xong bao giờ miệng cũng ngậm cây tăm, tay cầm ly nước trà còn bốc khói. Phải kể thêm ở đây là thời đó anh Yến, anh Điểu chiều tôi lắm, mười lần như một, lần nào tôi xuống California hai anh cũng gọi tất cả mọi người trong tòa soạn cùng đi uống cà phê, ăn sáng chung với nhau. Cả tòa soạn lũ lượt dẫn nhau đến một quán nào đó ngồi tán gẫu, chỉ một người từ chối không đi, lấy cớ “các ông đi đi, tôi ở nhà trông chừng cho”. Người đó là anh Vũ Ánh.
Phải mất ít nhất gần một năm sau khi hai anh em bắt đầu thân nhau, anh mới bảo với tôi “cậu xuống đây bao nhiêu lần mà tôi không bỏ việc đi uống cà phê với cậu được, thôi hôm nay cậu làm hộ tôi 2 cái tin để tôi về sớm, tôi với cậu đi kiếm cái gì ăn”. Trong bữa ăn đầu tiên và khá vội vàng đó -vì anh còn phải về nhà- tôi mới biết một điều: mỗi ngày anh được tòa soạn giao viết 5 cái tin, viết chưa xong anh không rời chỗ đi đâu cả. Chuyện này tôi có kể cho một số đàn anh nghe, còn nhớ anh Phạm Trần bảo “thằng đó xưa nay vẫn thế”, anh Thiệp thì cười thật to bảo “chú phải biết bạn tôi toàn những người làm việc chăm chỉ như ông Vũ Ánh thôi”, ngay cả anh Thiên Ân của đài VOA cũng cười, hãnh diện nói đùa “thằng Ánh nó lòe chú mày đấy, đừng có tin nó”.
Thân với anh, nhưng chưa bao giờ tôi nghe anh kể về thời còn quyền còn chức, chỉ thấy anh nói về chuyện sau 1975, từ chuyện lần mò tìm đường kháng chiến đến chuyện ngồi tù “tưởng mọt gông” chỉ vì ở trong trại giam vẫn tính những chuyện lấp bể vá trời. Nếu có hỏi thêm nữa, anh chỉ trả lời “vận nước mình nổi trôi nên tôi với cậu cũng nổi trôi”, chưa hề nghe anh chỉ trích, than phiền một ai. Đã có lần tôi hỏi anh điều này, thắc mắc tại sao không nghe anh phê bình những người đã để cho mất nước, cũng chẳng bao giờ thấy anh kể lại những phút cuối cùng khi anh gặp ông Dương Văn Minh hôm 30 tháng Tư 1975, anh trả lời “con người ai cũng có chỗ hay, chỗ xấu. Mình là nhà báo, mình phải nhìn ra cả cái hay của họ, chứ không phải chỉ nhìn thấy cái xấu”. Anh bảo tiếp “nếu cậu muốn tôi phê bình họ thì tôi sẵn sàng phê bình: họ đã cố gắng lắm, đã chịu đựng nhiều lắm, tôi gần họ nên tôi biết rõ điều đó. Chỉ tiếc là cố gắng, chịu đựng đến mấy vẫn không làm được điều họ muốn làm”. Nghe anh nói như vậy, tôi biết mình nên chấm dứt câu chuyện ở đó, dù đến giờ tôi vẫn còn ấm ức với câu trả lời của anh.
Nhưng cũng qua câu trả lời đó, tôi mới thấy hình ảnh của một “ông bụt” trong con người của anh. Tất cả những bài anh viết đều không chưa đựng sự chua chát, đều không có nét căm hờn, mà chỉ là những con chữ biểu hiện của sự thật, của con người tôn trọng sự thật và lúc nào cũng ước mơ sẽ nói được sự thật. Điều đó được anh thể hiện rất rõ trong bài nói chuyện anh đọc tháng Sáu năm ngoái nhân dịp kỷ niệm sinh nhật Tuần Báo Sống, trong đó anh nói ở tuổi đã trên 70, ước mơ của anh vẫn là ước mơ của một nhà báo với cái nhìn trong sáng, mong mỏi đóng góp điều đó cho cộng đồng, “xin quý vị giúp chúng tôi làm tròn công việc của một người cầm bút chỉ mong được nói sự thật”. Nói rõ hơn: anh luôn luôn xem mình là một thành viên của cộng đồng và là một thành viên có trách nhiệm phải xây dựng một cộng đồng biết lắng nghe tiếng nói của nhau hơn, như có lần anh bảo với tôi “cộng đồng này đâu phải chỉ có đời mình rồi hết”, nhắc lại cho tôi nghe lời một nhà báo đàn anh của anh đã bảo từ lúc chưa mất nước “làm gì thì làm, đừng để thế hệ sau này trách mình đã không làm hoặc làm sai”.
Chính vì anh yêu cộng đồng mà tôi không có cơ hội học hỏi trực tiếp ở anh. Mười sáu (16) năm trước đây khi Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do bắt đầu phát triển, Anh Giám Đốc Nguyễn Ngọc Bích gọi tôi vào văn phòng bàn chuyện “kiếm thêm người”. Không ai bảo ai cả anh Bích lẫn tôi đều nghĩ đến anh Vũ Ánh, đặc biệt Anh Bích còn nghĩ đến cả vai trò tổng biên tập mà anh Vũ Ánh sẽ nắm giữ nếu anh nhận lời về lại Washington D.C. Tôi 2 lần xuống tận Orange County thưa chuyện với anh, và cả 2 lần anh đều từ chối bằng câu “cậu cứ về đi, tôi sẽ trả lời sau”. Tôi còn nhớ khi về báo tin cho sếp Bích biết, sếp bảo ngay “như thế là anh em mình hỏng rồi”. Sau này có một lần tôi hỏi thẳng anh sau không lên D.C. để có anh có em, anh trả lời “tôi mê cái cộng đồng ở đây quá nên không đi được”, ngay cả lúc có những người nặng lời chỉ trích anh, anh cũng vẫn bảo với tôi “đi nhiều nơi rồi, chẳng có cộng đồng nào hay cho bằng cộng đồng Nam California”.
Tối thứ Sáu, bè bạn ở Californiađua nhau gọi điện thoại báo cho tôi tin anh Vũ Ánh mất. Bạn bè kể lại khi gọi điện thoại nhắc anh đến giờ gặp nhau ăn cơm trưa thứ Sáu hàng tuần, anh còn bảo “cứ ăn trước đi, tôi bận việc phải đến trễ”, sau đó tôi dự đoán anh ngồi cắm cúi gõ những chữ cuối cùng gửi cho tờ Người Việt. Gửi xong anh nằm gục ngay trên bàn viết và ra đi thật thanh thản. Anh sống với tấm lòng thanh thản và cho đến lúc phải chia tay với mọi người anh cũng thanh thản như thế. Anh vẫn không rời khỏi được cộng đồng mà anh yêu, bài viết cuối cùng cũng là bài viết cho cộng đồng đọc, và tôi tin rằng anh hãnh diện vì đã làm được điều anh mơ ước: kể cả khi phải chết, anh cũng chẳng từ bỏ cộng đồng, nhất định chọn vùng đất Nam California là nơi anh gửi nắm tro tàn.
Tôi không quên lần cuối cùng làm tài xế cho anh lúc anh lên D.C. dự đám tang anh Lệ Thiệp. Hôm đó, nghe anh Phạm Trần hỏi “sức khỏe mày thế nào?” và nghe anh trả lời “tim tiếc tao hơn lủng củng nhưng chắc không sao đâu, chẳng có gì phải lo cả”. Tôi cũng nhớ đến người đàn ông trung niên tôi gặp lần đầu ở tòa soạn Người Việt cách đây đã bao nhiêu năm, nhớ đến người ăn cơm xong miệng ngậm cái tăm tay cầm lý nước trà nóng. Nhớ đến lần duy nhất anh gọi điện thoại cho tôi lúc tờ Người Việt gặp “biến cố báo Xuân” chỉ để hỏi câu “nếu là tôi thì cậu sẽ làm gì?” Nhớ trưa hôm đó tôi bảo với anh “nếu là em, em sẽ xin từ chức và nhận lãnh mọi trách nhiệm”. Không bao giờ tôi quên câu trả lời của anh “tôi cũng nghĩ như thế, gọi hỏi cậu để biết mình làm đúng”. Chiều hôm đó anh em đồng nghiệp báo tin cho tôi biết anh từ chức, chỉ xách chiếc túi nhỏ rời khỏi tòa soạn.
Tôi cũng không bao giờ quên bài học duy nhất trong nghề anh dạy tôi: “Mình là nhà báo, mình phải nhìn ra cả cái hay chứ không phải chỉ nhìn thấy cái xấu”. Tôi biết mình không có đủ cả tâm lẫn sức để trở thành một “ông bụt cầm bút” như anh, nhưng ít nhất ngay trong giờ phút này tôi học được một điều: biết đâu chừng trong cái mất mát không còn anh Vũ Ánh ở với mình, lại có điều hay hơn mà mình không biết.
Điều hay hơn đó là gì?
Thử tưởng tượng ở một nơi chốn nào đó, anh Yến, anh Điểu, anh Nguyễn Đức Quang và anh Lê Thiệp đang ngồi nói chuyện với nhau thì bỗng dưng anh Vũ Ánh lù lù bước đến. Các anh gặp nhau tay bắt mặt mừng, sau đó thế nào anh Yến cũng bảo “mình có nhau ở đây phải làm một cái gì đi chứ”. Lúc đó, tôi tin anh Lê Thiệp sẽ la toáng lên “bây giờ có thêm thằng Vũ Ánh, mình làm báo lại đi các ông ạ”. Chỉ như thế thôi, một tờ báo mới sẽ ra đời, và tôi tin chắc tờ báo đó sẽ mang tên “Tờ Báo Cộng Đồng” vì đó là ước mơ của anh Vũ Ánh.
Và với tôi, người xứng đáng nhất để giữ vai trò chủ bút vẫn phải là anh Vũ Ánh.
Nguyễn Văn Khanh.
.
.