Hiện nay có nhiều quan điểm về cơ sở của trách nhiệm hình sự. Có quan điểm cho rằng cơ sở của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội phạm, cơ sở của trách nhiệm hình sự là các dấu hiệu của tội phạm. Tuy nhiên thống nhất hiện nay được thể hiện trong Điều 2 Bộ luật hình sự 2015 cơ sở của trách nhiệm hình sự là việc thực hiện một hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự.
Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình. Điều 2 của Bộ luật hình sự quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự. Theo quy định này, thì một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện nếu hành vi đó được luật hình sự quy định là tội phạm. Không ai có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị xử phạt về suy nghĩ, tư tưởng hay mong muốn phạm tội của mình nếu chỳng chưa được thể hiện bằng hành vi nguy hiểm cho xã hội.
- Một người chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu họ cú lỗi do cố ý hoặc do vụ ý khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm. Quy định này loại trừ khả năng (không cho phép) áp dụng tương tự luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi mặc dù là nguy hiểm cho xã hội nhưng không được luật hình sự quy định là tội phạm.
- Để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải xác định hành vi của họ có thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể (bao gồm: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm) được quy định trong Bộ luật hình sự. Yêu cầu này cũng ỏp dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt hoặc đồng phạm được quy định ở Phần chung cũng như ở Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự (xem bỡnh luận các điều 17, 18 và 20).
Trường hợp xác lập được một hành vi nguy hại cho xã hội thỏa mãn nhu cầu không thiếu những tín hiệu của một cấu thành tội phạm nào đó trong Bộ luật hình sự có nghĩa là hành vi này là hành vi phạm tội và người triển khai hành vi đó phải chịu trách nhiệm hình sự. Ngược lại, nếu xác lập hành vi không thỏa mãn nhu cầu đẩy đủ những tín hiệu ( thiếu một tín hiệu nào đó ) của cấu thành tội phạm được pháp luật trong Bộ luật hình sự, thì hành vi đó không phải là tội phạm và người triển khai hành vi không phải chịu trách nhiệm hình sự. Chính thế cho nên, cấu thành tội phạm được coi là cơ sở pháp lý, là điều kiện kèm theo cần và đủ của trách nhiệm hình sự .
- Quá trình xác định hành vi cụ thể có thỏa mãn hay không thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nào đó trong Bộ luật hình sự gọi là xác định tội danh. Nếu các tình tiết của hành vi phạm tội thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, thì hành vi đó thực hiện được xác định theo tội danh của cấu thành tội phạm đó và người thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này (ví dụ: hành vi của người điều khiển xe máy gây tai nạn làm chết người thỏa mãn các dấu hiệu của tội phạm được quy định tại Điều 202 của Bộ luật hình sự, thì hành vi của người điều khiển xe máy được xác định đó cấu thành tội “vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” và người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này theo quy định tại Điều 202 của Bộ luật hình sự).
- Việc truy cứu trách nhiệm hình sự và ỏp dụng hình phạt đối với người phạm tội phải được tiến hành với sự tuân thủ các trỡnh tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định: “mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này” (Điều 3 Bộ luật tố tụng hình sự); “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự).
1.2
/
5
(
4
bầu chọn
)