Một phần của tài liệu CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000
dựa trên sự kiện pháp lý phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ hôn
nhân
Để sống sót quan hệ vợ chồng thì hai người nam và nữ phải có quan hệ hôn nhân. Hôn nhân là hiện tượng kỳ lạ xã hội, là sự link giữa người đàn ông và người đàn bà, được pháp lý thừa nhận để kiến thiết xây dựng mái ấm gia đình và chung sống với nhau suốt đời. Sự link đó phát sinh do việc kết hôn. “ Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn ” .
Kết hôn theo quy định tại khoản 11 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000 “là
việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về đăng
ký kết hôn và điều kiện kết hôn”. Nghĩa là, hai bên nam nữ kết hôn phải tuân
thủ các điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Các điều kiện kèm theo kết hôn được lao lý tại Điều 9 và Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2000. Một trong những điều kiện kèm theo quan trọng để việc kết hôn được coi là hợp pháp là “ việc kết hôn do hai bên nam nữ tự nguyên, không bên nào được lừa dối, ép buộc bên nào ; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở ” ( khoản 2 Điều 9 Luật HN&GĐ năm 2000 ). Theo lao lý tại mục 1 điểm b Nghị quyết số 02/2000 / NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của HĐTP TANDTC hướng dẫn vận dụng 1 số ít lao lý của Luật HN&GĐ năm 2000 thì thuật ngữ lừa dối, ép buộc, cưỡng ép được hiểu là : một bên ép buộc ( ví dụ : rình rập đe dọa dùng vũ lực hoặc uy hiếp ý thức hoặc dùng vật chất … ) nên buộc bên bị ép buộc đồng ý chấp thuận kết hôn ; một bên lừa dối ( ví dụ : lừa dối là nếu kết hôn sẽ xin việc làm tương thích hoặc nếu kết hôn sẽ bảo lãnh ra quốc tế ; không có năng lực sinh lý nhưng cố ý giấu ; biết mình bị nhiễm HIV nhưng cố ý giấu … ) nên
bên bị lừa dối đã đồng ý chấp thuận kết hôn ; một bên hoặc cả hai bên nam và nữ bị người khác cưỡng ép ( ví dụ : cha mẹ của người nữ do nợ của người nam một khoản tiền nên cưỡng ép người nữ phải kết hôn với người nam để trừ nợ ; do cha mẹ của hai bên có hứa hẹn với nhau nên cưỡng ép con của họ phải kết hôn với nhau … ) buộc người bị cưỡng ép kết hôn trái với nguyện vọng của họ .
Việc kết hôn còn phải tuân thủ các điều kiện kèm theo về đăng ký kết hôn. Nghĩa là việc kết hôn phải được Nhà nước thừa nhận trải qua việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo nghi thức Luật định ( Điều 11 Luật HN&GĐ năm 2000 ). Mọi nghi thức kết hôn không theo lao lý của pháp lý đều không có giá trị pháp lý. Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp lý công nhận là vợ chồng. Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn …
Như vậy, việc kết hôn phải bảo vệ các điều kiện kèm theo, thủ tục trên mới được pháp lý thừa nhận và làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Từ khi hôn nhân phát sinh, mối quan hệ giữa vợ và chồng cũng đồng thời Open. Do đó, việc kết hôn hợp pháp mới làm phát sinh quan hệ hôn nhân, từ đó phát sinh quan hệ pháp lý giữa vợ và chồng, trong đó có quan hệ gia tài giữa vợ chồng .
Đồng thời, khi Open các sự kiện pháp lý làm chấm hết quan hệ hôn nhân thì quan hệ gia tài giữa vợ chồng cũng chấm hết. Chẳng hạn khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, hoặc hai vợ chồng ly hôn bằng bản án có hiệu lực hiện hành pháp lý sẽ làm chấm hết quan hệ hôn nhân. Lúc này, quan hệ vợ chồng không sống sót, họ không đứng trên vai trò là vợ chồng của nhau nữa nên quan hệ gia tài vợ chồng giữa họ cũng không còn sống sót nữa .
Các trường hợp đặc biệt:
– Trường hợp nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau
như vợ chồng (hôn nhân vi phạm quy định về đăng ký kết hôn):
Điều 11 của Luật HN&GĐ năm 2000 lao lý địa thế căn cứ pháp lý chấm hết việc thừa nhận hôn nhân thực tiễn, bảo vệ mọi trường hợp phải đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp lý công nhận là vợ chồng .
Tuy nhiên, so với các trường hợp kết hôn không ĐK tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước và sau ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực thực thi hiện hành ( ngày 03/01/1987 ) thì xử lý theo Nghị quyết số 35/2000 / QH10, đơn cử như sau :
+ Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987, ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực hiện hành mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn ; trong trường hợp có nhu yếu ly hôn thì được TA thụ lý giải quyết theo lao lý về ly hôn của Luật HN&GĐ năm 2000 .
+ Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến
ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì
có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm kể từ ngày Luật này có
hiệu lực đến ngày 01/01/2003; trong thời hạn này mà không đăng ký kết hôn,
nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật
HN&GĐ năm 2000 để giải quyết. Trên cơ sở Nghị quyết số 35/2000/QH10,
ngày 03/01/2001, TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp đã
ban hành Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP
hướng dẫn thi hành Luật HN&GĐ đã quy định cụ thể: Nếu họ đăng ký kết
hôn trong thời hạn 2 năm nêu trên thì quan hệ vợ chồng của họ được công
nhận là đã xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ
không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.
chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn đều không được pháp lý công nhận là vợ chồng ; nếu có nhu yếu ly hôn thì Tòa án thụ lý và công bố không công nhận quan hệ vợ chồng ; nếu có nhu yếu xử lý về con cháu và gia tài thì Tòa vận dụng khoản 2, khoản 3 Điều 17 Luật HN&GĐ năm 2000 ( Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp lý ) để xử lý .
Thông tư liên tịch số 01/2001 / TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP nêu trên cũng pháp luật : Được coi là nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện kèm theo kết hôn theo pháp luật của Luật HN&GĐ năm 2000 và thuộc một các trường hợp sau đây :
+ Có tổ chức triển khai lễ cưới khi về chung sống với nhau ;
+ Việc họ về chung sống với nhau được mái ấm gia đình ( một hoặc cả hai bên ) đồng ý ;
+ Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức triển khai tận mắt chứng kiến ; + Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm nom, trợ giúp nhau, cùng nhau kiến thiết xây dựng mái ấm gia đình .
Thời điểm nam và nữ mở màn chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức triển khai lễ cưới, hoặc ngày họ về chung sống với nhau được mái ấm gia đình ( một hoặc cả hai bên ) gật đầu hoặc ngày họ thực sự mở màn chung sống với nhau, chăm nom, trợ giúp nhau, cùng nhau kiến thiết xây dựng mái ấm gia đình …
– Hôn nhân nhiều vợ, chồng (hôn nhân vi phạm quy định về điều kiện kết
hôn) vẫn được chấp nhận là hôn nhân hợp pháp, có hai trường hợp cụ thể sau:
+ Một người kết hôn với nhiều người trước ngày 13/1/1960 ở Miền Bắc ( ngày Luật HN&GĐ năm 1959 của nhà nước ta có hiệu lực hiện hành, chính sách hôn nhân một vợ một chồng mới được thực thi ) ;
khi tập trung lại kết hôn với người khác ở miền Bắc ( quá trình từ năm 1954 – 1975 ) được triển khai theo pháp luật của Thông tư số 60 / TATC ngày 22/02/1978 của TANDTC hướng dẫn xử lý các việc tranh chấp về HN&GĐ của cán bộ, bộ đội có vợ, có chồng trong miền Nam tập trung ra miền Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác : Nếu vợ hoặc chồng ở miền Nam vẫn không có quan hệ hôn nhân mới và vẫn muốn duy trì quan hệ hôn nhân trước kia thì công nhận cả hôn nhân trước kia và hôn nhân mới là hôn nhân hợp pháp. Thông tư số 60 / TATC hướng dẫn hướng xử lý khá đơn cử cho từng loại quan hệ hôn nhân và chỉ với những quan hệ hôn nhân được xác lập trong thời hạn từ sau ngày ký Hiệp định Giơnevơ đến ngày Luật HN&GĐ vận dụng trong cả nước ( từ ngày 20/7/1954 đến 25/3/1977 ). Trường hợp này chỉ được cho phép một người cùng sống sót hai quan hệ hôn nhân. ( Nghị quyết số 02/2000 / HĐTP của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 ) .
– Ngoài ra sự kiện làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ hôn
nhân thì còn một sự kiện phục hồi quan hệ hôn nhân đã chấm dứt trước đó,
theo đó, quan hệ gia tài giữa vợ chồng được hồi sinh. Ví dụ trường hợp một người bị công bố là đã chết mà vì nguyên do nào đó lại quay trở lại thì đương nhiên phục sinh quan hệ vợ chồng nếu người đó chưa kết hôn với người khác. Điều 26 Luật HN&GĐ năm 2000 lao lý : ” Khi TANDTC ra quyết định hành động hủy bỏ quyết định hành động công bố một người là đã chết mà vợ, chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân đương nhiên được Phục hồi ; trong trường hợp vợ hoặc chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân sau có hiệu lực thực thi hiện hành ” .
– Xuất phát từ quan hệ hôn nhân, gắp liền với nhân thân của vợ, chồng và xuất phát từ tình nghĩa vợ chồng, từ đạo lý và các giá trị truyền thống lịch sử đạo đức tốt đẹp của dân tộc bản địa, nên trong trường hợp mặc dầu hai vợ chồng đã có bản án