Ca trù – di sản văn hóa thế giới

Ngày 1/10/2009, tại kỳ họp của Tổ chức Giáo dục đào tạo, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc ( UNESCO ), ca trù đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là di sản văn hóa quốc tế có vùng ảnh hưởng tác động lớn nhất Nước Ta, có khoanh vùng phạm vi trải dài khắp 16 tỉnh phía Bắc gồm : Phú Thọ, Vĩnh Phúc, TP. Hà Nội, Bắc Giang, TP Bắc Ninh, TP. Hải Phòng, Thành Phố Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Tỉnh Nam Định, Tỉnh Thái Bình, Tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, thành phố Hà Tĩnh và Quảng Bình. Nhiều làng quê ở những tỉnh, thành phố như TP.HN, Hà Tây, Thành Phố Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, TP Hà Tĩnh … là những cái nôi của những làn điệu ca trù. Trong đó có những địa điểm nổi tiếng truyền kiếp gắn bó với mô hình nghệ thuật và thẩm mỹ đặc biệt quan trọng này như Thái Hà, Lỗ Khê – Đông Anh ( TP.HN ), Cổ Đạm ( thành phố Hà Tĩnh ) …
Ca trù còn có những tên gọi khác như : Ả đào, đào nương ca, cô đầu ( hát ở những ca quán ), nhà trò ( hát ở đình, đền, miếu ), nhà tơ ( hát ở dinh quan, tư gia những mái ấm gia đình quyền quý và cao sang ), cửa quyền ( trong cung phủ ) …, bắt nguồn từ dân ca, dân nhạc cộng với một số ít trò diễn và múa dân gian, từ lối hát thờ nơi cửa đình, hát khao, hát đám … rồi từ từ được chuyên nghiệp hóa. Sự độc lạ của ca trù chính vì nó là một bộ môn thẩm mỹ và nghệ thuật tổng hợp, là sự phối hợp phong phú, phức tạp, thuần thục giữa thi ca, âm nhạc và nhiều lúc có cả múa và trò diễn .
Còn lưu lại thần thoại cổ xưa từ thế kỷ XV về chiến công của một ả đào trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược như một dẫn chứng cho sự hiện hữu của ca trù, nhưng theo những nhà nghiên cứu thẩm mỹ và nghệ thuật văn minh thì mô hình ca nhạc này đã Open từ thời Lý, thế kỷ XI. Bài ca trù cổ nhất còn lại văn bản đến thời nay là bài “ Nghĩ hộ tám giáp phần thưởng hát ả đào ” ( Đại nghĩ bát giáp thưởng đào văn ) của Lê Đức Mao, gồm 9 đoạn, 128 vế, lối thơ vừa lục bát vừa tuy nhiên thất lục bát. Tên gọi ca trù là theo hình thức diễn xướng. Người nghe đào, kép hát được gọi là quan viên. Những người sành âm luật, thanh nhạc, vũ đạo … ngồi cầm trống chầu. Nghe đào kép hát tròn vành, rõ chữ, âm thanh lúc tha thiết, lúc dặt dìu, khi cứng cỏi, lúc đài các, lúc khoan, lúc nhặt, quan viên sẽ gõ trống chầu. Mỗi tiếng trống ứng với một cái thẻ ( trù ) thưởng ném vào hộp, thế cho nên mới có tên gọi hát ca trù. Trù là thẻ làm bằng tre, trên thẻ có ghi số tiền ( hoặc pháp luật ngầm với nhau là mỗi thẻ tương ứng với một khoản tiền ), dùng để thưởng cho đào và kép ngay trong khi màn biểu diễn thay cho việc thưởng bằng tiền mặt ; cuối chầu hát sẽ địa thế căn cứ vào số thẻ mà tính tiền trả cho đào và kép hoặc giáo phường. Người quyết định hành động việc thưởng này chính là vị quan viên ( khách nghe hát ), sử dụng trống chầu ( gọi là cầm chầu ). Tiếng trống biểu lộ trình độ của người chiêm ngưỡng và thưởng thức trước tài nghệ của người trình diễn. Quan viên cầm trống chầu mang vai trò người thẩm âm ; tiếng trống có khi xen với tiếng tang trống dùng để khen câu thơ, giọng hát, tiếng đàn .

Ca nương vừa hát, vừa gõ phách và phải biết rành rẽ 5 khổ phách cơ bản, đánh lưu không, tiếng phách phải chắc và giòn, lời ca và tiếng phách phải ăn khớp với nhau.

Bạn đang đọc: Ca trù – di sản văn hóa thế giới

Kép đánh đàn đáy, một loại đàn cổ, thùng đàn rộng hình thang, có từ 10 đến 12 phím, mắc ba dây xe bằng sợi tơ tằm. Tiếng đàn không vang, ghìm với giọng hát, tiết tấu thì đan ngặt nghèo với nhịp phách, tạo nên những tiếng nhấn nhá khi thánh thót, lúc ngân nga rất hợp với giọng hát của đào nương .
Cả đào nương và kép đàn đều phải là những người không ít biết chữ nghĩa, thơ ca mới hoàn toàn có thể thẩm thấu hết ý nghĩa của lời ca và âm nhạc vốn do những bậc văn nhân tài tử văn hay chữ tốt tận tâm phát minh sáng tạo nên .

Sự kết hợp hài hòa giữa giọng ca của đào nương, sự nhịp nhàng của tiếng phách, sự hòa tấu giữa tiếng đàn uyển chuyển và tiếng trống tài hoa, tinh tế tạo nên một âm hưởng vừa thiết tha vừa sang trọng trong một môi trường thấm đẫm sự thấu hiểu đầy nghệ thuật. Thưởng thức ca trù là thưởng thức cả thơ và nhạc. Cả người hát, người đàn, người nghe đều tham gia cuộc hát. Họ phối hợp ăn ý với nhau và cũng làm cho nhạc và thơ hoà quyện, đưa cuộc hát đạt đến sự hoàn hảo, tao nhã, trang trọng. Đây là một sự gắn kết hết sức đặc biệt giữa người nghệ sĩ và người thưởng thức mà chúng ta không thấy được ở các loại hình nghệ thuật khác. Người thưởng thức với chiếc trống chầu không còn hoàn toàn là khách thể thụ động hưởng thụ mà đã tham gia một cách tích cực vào sáng tạo, góp phần vào sự thành công, tạo nên một môi trường nghệ thuật lý tưởng.

Hát ca trù chia ra làm ba loại chính : Hát chơi, hát cửa đình, hát thi. Hát chơi là hát ở nhà riêng, hoàn toàn có thể ở nhà của người hát. Hát cửa đình là hát thờ thần, mang dấu ấn lễ nhạc. Hát thi là tổ chức triển khai hát để thử thách kĩ năng của đào kép. Hát thi có những bài hát chúc tụng vua chúa, thần dân .
Lối Hát ả đào có nhiều loại như : Dâng hương, Giáo trống, Gủi thư, Thét nhạc nhưng Hát nói là lối thông dụng và có tính văn chương lý thú nhất. Lời của làn điệu này được gọi là thơ hát nói. Nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng tài hoa, phóng túng như Lê Đức Mao, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Quý Tân, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương … là tác giả của nhiều bài hát nói nổi tiếng. Người ta thường hát mưỡu trước khi hát nói. Ngay tên gọi của thể hát này cũng đã biểu lộ sự tự do, phóng túng của làn điệu. Đây là thơ điệu nói với câu chữ dài ngắn khá tự do, tùy thuộc vào cảm hứng của người sáng tác. Số chữ trong câu hoàn toàn có thể ngắn dài, từ 4 chữ đến 12-13 chữ, thậm chí còn 15-17 chữ như những câu cách cú, hạc tất. Hát nói là một trong ba thể loại thuần túy dân tộc bản địa : Ngâm khúc, truyện thơ Nôm, hát nói, góp thêm phần tạo nên những thành tựu thẩm mỹ và nghệ thuật rực rỡ với trào lưu nhân đạo chủ nghĩa của văn học Nước Ta thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX đấu tranh cho quyền lợi và nghĩa vụ của con người, ca tụng tình yêu, nhân phẩm và sự tài hoa, thâm thúy của con người, phản ánh số phận của họ, đặc biệt quan trọng là người phụ nữ. Nhiều nhà điều tra và nghiên cứu cho rằng hát nói là một trong những tiền đề quan trọng góp thêm phần thiết kế xây dựng nên thể Thơ mới tự do sau này .

Sau năm 1945 cho đến thời gian gần đây, sinh hoạt ca trù vốn là một loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng truyền thống tao nhã và sang trọng đã bị đánh đồng với các sinh hoạt thiếu lành mạnh khác khiến cho thể loại nghệ thuật này không được nuôi dưỡng và phát triển một cách tự nhiên, không được tôn vinh đúng mức, đi dần đến tàn lụi. Nhiều nhà văn hóa và dư luận xã hội đã nhiều lần lên tiếng về nguy cơ thất truyền của ca trù. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn ca trù để giữ gìn vốn quý văn hóa của dân tộc. Công việc đó đã được thực hiện một cách tích cực và đã có được những thành tựu đáng kể.

Nghệ thuật ca trù của Nước Ta đã thể hiện sự điệu đàng, thanh tao, bộc lộ chiều sâu văn hóa, chiều sâu tâm hồn của hội đồng người Việt, là nơi quy tụ những tinh hoa của văn hóa dân tộc bản địa, tạo nên sự độc nhất vô nhị không có ở bất kể mô hình thẩm mỹ và nghệ thuật nào khác, rất xứng danh được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của trái đất .

PGS.TS. Vũ Thanh

Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm TP. Hà Nội

Source: https://vvc.vn
Category custom BY HOANGLM with new data process: Bảo Tồn

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay