Bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái biển cho phát triển bền vững

Hệ sinh thái biển Việt Nam khá đa dạng và có vai trò rất quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, dinh dưỡng trong vùng biển thông qua các chu trình sinh địa hóa.
 

Đồng thời, các hệ sinh thái này đem lại nhiều giá trị, lợi ích to lớn về kinh tế – xã hội, với khoảng 28 triệu người chịu tác động gián tiếp và trực tiếp trong đời sống. Tuy vậy, trong những thập niên gần đây, các hệ sinh thái biển của nước ta đang bị suy thoái nghiêm trọng cả về số lượng và chất lượng do nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, cùng với việc quản lý chồng chéo, kém hiệu quả, cộng với những thay đổi dưới tác động của biến đổi khí hậu, nên các hệ sinh thái vùng bờ đã và đang suy thoái, diện tích bị thu hẹp nghiêm trọng.
 

Các hệ sinh thái biển ở nước ta có nhiều tiềm năng về kinh tế, văn hóa, du lịch và môi trường
 Các hệ sinh thái biển ở nước ta có nhiều tiềm năng về kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống, du lịch và thiên nhiên và môi trường

Khái niệm về hệ sinh thái biển
 

Hệ sinh thái biển là hệ sinh thái thủy sinh lớn nhất trên thế giới. Nước biển bao phủ hơn 70% bề mặt Trái Đất, chiếm hơn 97% lượng nước cung cấp cho Trái Đất và 90% những khu vực có sự sống trên hành tinh. Hệ sinh thái biển bao gồm các hệ sinh thái gần bờ (như ruộng muối, bãi bồi, đồng cỏ biển, rừng ngập mặn, hệ thống bãi triều đá và các rạn san hô ngầm…), hệ sinh thái xa bờ (bao gồm các hệ sinh thái ngoài khơi, đại dương, nước biển bề mặt, biển sâu, miệng phun thủy nhiệt đại dương và đáy biển…). Các hệ sinh thái biển được đặc trưng bởi quần xã sinh vật liên kết với chúng và môi trường vật chất của chúng.
 

Ngoài việc cung ứng nhiều quyền lợi cho quốc tế tự nhiên, những hệ sinh thái biển còn phân phối nhiều dịch vụ, quyền lợi tương quan đến xã hội, kinh tế tài chính và hệ sinh thái sinh học của con người. Các mạng lưới hệ thống biển Pelagic điều hòa khí hậu toàn thế giới, góp thêm phần vào quy trình nước, duy trì đa dạng sinh học, phân phối nguồn thực phẩm và nguồn năng lượng, đồng thời tạo thời cơ cho vui chơi và du lịch. Về mặt kinh tế tài chính, những hệ sinh thái biển còn giúp con người khai thác hàng tỷ USD qua đánh bắt cá, nuôi trồng thủy hải sản, dầu khí ngoài khơi, thương mại và vận tải biển .

Vai trò của hệ sinh thái biển
 

Vùng biển Việt Nam có khoảng 20 hệ sinh thái điển hình, phân bố trên 1 triệu km2 diện tích ở Biển Đông, với 155.000 ha rừng ngập mặn, khoảng 1.300 km2 rạn san hô, gần 500 km2 đầm phá và khoảng 16.000 ha cỏ biển, nhiều khu vực bãi triều và cửa sông, với chừng 11.000 loài sinh vật cư trú, trong đó có xấp xỉ 6.000 loài động vật đáy; 2.038 loài cá (có hơn 100 loài cá kinh tế); 653 loài rong biển; 657 loài động vật phù du; 537 loài thực vật phù du; 94 loài thực vật ngập mặn; 225 loài tôm biển; 14 loài cỏ biển; 15 loài rắn biển; 12 loài thú biển; 5 loài rùa biển và 43 loài chim nước… Theo ước tính, mỗi năm, khoản lợi nhuận thu được từ các hệ sinh thái biển và ven biển của Việt Nam từ 60 – 80 triệu USD, tức là khoảng 56 – 100 USD/năm/gia đình cư dân sống ở các huyện ven biển.
 

Rạn san hô là một trong những hệ sinh thái đặc sắc của biển Việt Nam. Ở đây, có sự đa dạng sinh học rất cao, cảnh quan kỳ thú, phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam trên diện tích 1.222 km2. Sự đa dạng và phong phú của san hô Việt Nam thể hiện ở 350 loài tạo rạn kèm theo khoảng 3.000 sinh vật khác có đời sống gắn bó liên quan tới vùng rạn san hô, trong đó có nhiều loại có giá trị kinh tế cao như tôm hùm, bào ngư, trai ngọc, hải sâm… Theo đánh giá của Trung tâm Bảo tồn Sinh vật biển và Phát triển Cộng đồng, tổng giá trị các sản phẩm dịch vụ của hệ sinh thái rạn san hô ở nước ta ước tính vào khoảng 100 triệu USD/năm, trong đó 1 km2 rạn san hô có thể cung cấp lượng hải sản đánh bắt lên tới 10.000 USD. Tại Đồng bằng sông Cửu Long, 1 km2 rừng ngập mặn có thể cung cấp lượng đánh bắt 450 kg hải sản/năm. Mỗi năm, hệ sinh thái cỏ biển cung cấp lượng thủy sản và các dịch vụ có giá trị trên 20 triệu USD và giá trị mà đầm phá mang lại ước tính lên đến trên 2.000 USD/ha.
 

Theo Trung tâm Bảo tồn Sinh vật biển và Phát triển Cộng đồng, riêng hệ sinh thái sinh vật biển có giá trị tổng thể và toàn diện ước tính vào thời gian 100 triệu USD, trong đó cứ 1 km2 rạn sinh vật biển hoàn toàn có thể phân phối số lượng món ăn hải sản đánh bắt cá có giá trị khoảng chừng 10.000 USD.

Ngoài các giá trị về kinh tế, du lịch, các rạn san hô tập trung ở một số nơi còn có giá trị điều tiết, là công cụ hữu hiệu bảo vệ đường bờ biển, bảo tồn đa dạng sinh học biển và quản lý nghề cá.
 

Mỗi m2 cỏ biển có thể tạo ra 10 lít O2 hòa tan, góp phần cân bằng O2 và CO2 trong nước, làm giảm hiệu ứng nhà kính khi hấp thụ CO2 vào nước. Trong thời gian một năm, 0,44 ha cỏ biển có thể tạo ra 10 tấn lá làm nguồn thức ăn, sinh cảnh và nơi sinh sản của nhiều loài động vật không xương sống, có xương sống cả ở giai đoạn con non và trưởng thành. Các loài cỏ biển cũng đóng góp vào mạng lưới thức ăn, hoặc trực tiếp thông qua các động vật ăn cỏ biển hay gián tiếp sau khi các loài thực vật cỏ biển chết đi và trở thành thức ăn mùn bã.
 

Nhìn chung, những hệ sinh thái biển ở nước ta có nhiều tiềm năng về kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống, du lịch và môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, những hệ sinh thái này đang bị suy giảm nhanh gọn do sự khai thác quá mức của con người, ô nhiễm môi trường tự nhiên và biến hóa khí hậu .

Rạn san hô là một trong những hệ sinh thái đặc sắc của biển Việt Nam
 Rạn sinh vật biển là một trong những hệ sinh thái rực rỡ của biển Nước Ta

Nguy cơ đe dọa hệ sinh thái biển 
 

Tác động của biến đổi khí hậu
 

Việt Nam là một trong những quốc gia bị tác động mạnh của biến đổi khí hậu. Theo các kịch bản biến đổi khí hậu được Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) công bố, nếu mực nước biển dâng cao 1m, khoảng 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích Đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển bị ngập, Thành phố Hồ Chí Minh bị ngập trên 20% diện tích; khoảng 10 – 12% dân số nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 10% GDP. Nếu nước biển dâng lên 5 mét, Việt Nam có thể mất 16% diện tích, kèm theo đó là hơn 35% số dân và khoảng 35% tổng GDP bị ảnh hưởng. 
 

Nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng và thay đổi lượng mưa làm cho hệ sinh thái, sản lượng đánh bắt cá, cơ sở hạ tầng và sinh kế nghề cá dễ bị tổn thương. Tại Việt Nam, mối quan ngại nổi lên là các dị thường lượng mưa và tăng nhiệt độ do sự ấm lên toàn cầu. Đặc biệt là bão và lũ lụt sau mỗi chu kỳ 3 – 4 năm, tác động của chúng tới các hệ sinh thái (rừng ngập mặn, dải ven bờ, châu thổ), các loài cá phổ biến, nghề cá và sinh kế.
 

Nước biển dâng sẽ ảnh hưởng đến vùng đất ngập nước ven biển Việt Nam, nghiêm trọng nhất là khu vực rừng ngập mặn dễ bị tổn thương ở Cà Mau, Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu và Nam Định. Đa dạng sinh học vùng bờ và nguồn lợi thủy, hải sản giảm sút. Các hệ sinh thái vùng bờ quan trọng bị suy thoái và thu hẹp diện tích. Các quần đàn có xu hướng di chuyển ra xa bờ hơn do thay đổi cấu trúc hoàn lưu ven biển, thay đổi tương tác sông – biển ở vùng cửa sông ven bờ, do mất đến 60% các nơi cư trú tự nhiên quan trọng.
 

Hệ quả của khai thác nguồn lợi quá mức
 

Theo báo cáo của Bộ TN&MT (năm 2017), trong 50 năm qua, diện tích đất rừng ngập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long đã giảm 80%. Còn theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về tình hình xói lở bờ biển và suy thoái rừng ngập mặn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cho biết, từ năm 2011 – 2016, rừng ngập mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã bị suy giảm nghiêm trọng, chủ yếu do vùng bãi bị sạt lở và việc giao rừng để nuôi trồng thủy, hải sản.
 

Phong trào nuôi tôm, các dự án phát triển khu công nghiệp và đô thị là một trong những nguyên nhân nổi trội dẫn đến phá rừng ngập mặn. Vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Quảng Ninh, thành phố Hải Phòng là những nơi có diện tích rừng ngập mặn bị mất nhiều nhất.
 

Cùng với đó, bức tranh về rạn san hô biển Việt Nam cũng rất ảm đạm. Khoảng 200 điểm rạn san hô được khảo sát, hiện trạng độ phủ của chúng đang giảm sút nhanh chóng. Ở miền Bắc giảm 25 – 50%, chỉ còn khoảng 1% các rạn san hô ở miền Nam trong tình trạng tốt. Từ năm 2002, Viện Tài nguyên Thế giới đã cảnh báo khoảng 80% rạn san hô ở vùng biển Việt Nam nằm trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% ở mức cao. Nếu không có hành động tích cực và hiệu quả thì chỉ đến hết năm 2030, biển Việt Nam sẽ trở thành “thủy mạc”, không còn rạn san hô và cũng không còn tôm, cá nữa.
 

Tình trạng trên cũng diễn ra tương tự với các hệ sinh thái thảm cỏ biển. Trước thời kỳ 1996 – 1997, diện tích của 39 bãi cỏ biển là 10.768 ha, đến năm 2003 chỉ còn gần 4.000 ha, nghĩa là đã mất đến 60%. Diện tích các hệ sinh thái đất ngập nước ven biển nói chung cũng bị mất khoảng 60 – 70% để nhường chỗ cho các hoạt động của con người. Đồng thời, có khoảng 100 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau, trên 100 loài được đưa vào Sách đỏ Việt Nam. Nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm về trữ lượng, sản lượng và kích thước đánh bắt.
 

Gia tăng chất thải ra cửa sông, ven biển
 

Việc gia tăng các nguồn thải từ lục địa, đặc biệt là theo các dòng chảy sông ra biển dẫn đến môi trường biển nhiều nơi đang có xu hướng suy giảm về chất lượng. Nhiều vùng cửa sông ven biển đã bị ô nhiễm do nước thải công nghiệp, đô thị. Tình trạng xả các chất thải chưa qua xử lý hay xử lý chưa đạt quy chuẩn đang diễn biến ngày càng phức tạp ngay tại các tỉnh ven biển, gây thiệt hại lớn về kinh tế, đời sống, sinh kế của cộng đồng dân cư ven biển và những tổn hại khó lường đối với các hệ sinh thái, sinh vật biển.
 

Theo ước tính của các nhà khoa học, 80% lượng rác thải ra biển xuất phát từ các hoạt động trên đất liền. Việt Nam có 112 cửa biển, đây chính là nguồn để rác trôi ra đại dương. Nhiều sinh vật nhầm tưởng rác thải là thức ăn hoặc mắc kẹt giữa các ngư cụ dẫn đến việc sinh cảnh bị phá hủy. Số liệu từ Chương trình Môi trường Liên hợp quốc công bố năm 2018, mỗi năm Việt Nam xả ra đại dương 0,28 đến 0,73 triệu tấn rác thải nhựa. Ô nhiễm rác thải biển không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng môi trường, hệ sinh thái mà còn tác động đến phát triển kinh tế, cộng đồng dân cư ven biển; tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn, an ninh lương thực.
 

Hoạt động dầu khí, vận tải biển, với quy mô khoảng 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí cùng 272 bến cảng biển đang hoạt động với tổng công suất trên 550 triệu tấn/năm. Ngoài nước thải lẫn dầu với khối lượng lớn, trung bình mỗi năm hoạt động này phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí, trên 15.000 tấn dầu mỡ trôi nổi, trong đó 23 – 30% là chất thải rắn nguy hại chưa xử lý…
 

Theo nhìn nhận của Bộ TN&MT, ô nhiễm môi trường tự nhiên biển trong những năm gần đây đã làm cho nhiều loài sinh vật biển giảm mạnh về số lượng, có loài đã tuyệt chủng cục bộ. Có đến 236 loài thủy sinh quý và hiếm bị rình rập đe dọa ở Lever khác nhau, trong đó, có hơn 70 loài sinh vật biển đã bị liệt kê trong Sách đỏ Nước Ta. Nguồn lợi món ăn hải sản bị khai thác ngày càng hết sạch cả số lượng và chất lượng. Các nguồn cá dự trữ bị suy giảm từ 4 triệu tấn vào năm 1990 xuống còn 3 triệu tấn như lúc bấy giờ. Kích thước trung bình của cá và tính phong phú loài cũng giảm đáng kể .

 

Giải pháp bảo tồn và phục hồi hệ sinh thái biển
 

Để thực sự đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018) đã nêu, việc ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển và phục hồi hệ sinh thái biển đã được xác định là một trong những nhiệm vụ cấp bách trong thời gian tới.
 

Theo đó, cần kiểm soát hiệu quả bảo tồn các hệ sinh thái biển trước tác động của các nguồn gây ô nhiễm môi trường bằng biện pháp áp dụng các công cụ kinh tế và chính sách trong quản lý môi trường biển, như: lệ phí ô nhiễm, lệ phí xả thải, phí sử dụng biển, phí sản phẩm, lệ phí hành chính thuế, cấp phép và thu hồi Giấy phép khai thác, sử dụng biển, đảo, các quỹ môi trường biển và các khoản trợ cấp khác…
 

Cần có sự liên kết phối hợp liên tỉnh, liên vùng và liên ngành chặt chẽ, hiệu quả trong việc kiểm soát các hoạt động khai thác và làm suy kiệt hệ sinh thái biển, kiểm soát các nguồn trực tiếp gây ô nhiễm, suy thoái môi trường vùng biển ven bờ, đặc biệt là nguồn thải từ các khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, cơ sở nuôi trồng, chế biến thủy sản, hoạt động thương mại, dịch vụ… dọc theo bờ biển, trên các đảo, cụm đảo; bảo đảm nước thải phải được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra biển.
 

Bên cạnh đó, các địa phương cần tìm và lựa chọn các phương thức làm ăn đa dạng cho ngư dân, như chú trọng phát triển du lịch hoặc các dịch vụ thay thế khác, giúp các thế hệ tương lai của ngư dân có đa dạng phương thức kiếm sống, thay vì chỉ khai thác hải sản như hiện nay. Nguồn sinh kế của các địa phương ven biển chủ yếu là canh tác, nuôi trồng và đánh bắt thủy, hải sản, do đó các biện pháp thích ứng cũng được xác định và tiếp cận theo từng lĩnh vực. Cụ thể, trong nông nghiệp, để thích ứng đòi hỏi phải thay đổi trong quản lý và các kỹ thuật canh tác để tránh rủi ro mất mùa; bổ sung các giống mới có khả năng thích nghi với biến đổi khí hậu. Trong đánh bắt cá và nuôi trông thủy sản, cần chú ý các quy định xử lý nước thải nhằm tránh tình trạng phát sinh dịch bệnh gây thiệt hại lớn. Hướng dẫn các hộ dân cách tiếp cận tín dụng, bảo hiểm và các dịch vụ tài chính một cách hiệu quả, thiết lập mô hình liên kết giữa các xã, các vùng chịu tác động trực tiếp của biến đổi khí hậu để trao đổi thông tin và các bài học kinh nghiệm.
 

Tài liệu tham khảo:
 

1. Bộ TN&MT ( 2018 ), Quản lý tổng hợp đối bờ : Kinh nghiệm thực tiễn ở Nước Ta. TP. Hà Nội – 2018 .
 

2. Bộ TN&MT ( 2020 ), Báo cáo thực trạng môi trường tự nhiên biển Nước Ta, quá trình năm ngoái – 2020. TP.HN – 2020 .
 

3. Bộ TN&MT ( năm nay ), Kịch bản đổi khác khí hậu update năm năm nay. NXB Tài nguyên môi trường tự nhiên và map Nước Ta – năm nay .
 

4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ( năm nay ), Báo cáo diện tích quy hoạnh rừng ngập mặn. TP.HN – năm nay .
 

5. Nguyễn Chu Hồi ( 2019 ), Tài nguyên môi trường tự nhiên và chủ quyền lãnh thổ biển hòn đảo. NXB Chính trị vương quốc thực sự – 2019 .
 

6. Nguyễn Chu Hồi ( 2020 ), Kinh tế biển xanh : những yếu tố và cách tiếp cận cho Nước Ta. NXB Chính trị vương quốc thực sự – 2020 .
 

7. Phan Nguyên Hồng ( 1999 ), Rừng ngập mặn Nước Ta. NXB Nông nghiệp – 1999 .
 

8. Bảo My ( 2020 ), Hệ sinh thái biển Nước Ta trước sức ép đổi khác khí hậu. Tạp chí Kinh tế môi trường tự nhiên – 2020 .
 

9. Thanh Huyền ( 2020 ), Ô nhiễm môi trường tự nhiên biển : Thực trạng và vai trò của hội đồng trong bảo vệ thiên nhiên và môi trường biển. Tạp chí Môi trường và Xã hội – 2020 .
 

10. Minh Đăng ( 2020 ), Đầu tư vào vốn tự nhiên – Bảo tồn và tăng trưởng đa dạng sinh học. Tạp chí Cộng sản – 2020 .
 

11. Nguyễn Đức Phú (2019), Bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học biển. Tạp chí Quốc phòng toàn dân – 2019.  

TS. Nguyễn Đình Đáp ( Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam)
 

ThS. Đoàn Thị Minh Phượng (Bộ Tài nguyên và Môi trường)

Việc vận dụng quy mô, phương pháp quản trị tổng hợp vùng bờ để xử lý những yếu tố yếu kém, sống sót trong quản trị ; khai thác và sử dụng tài nguyên, bảo vệ thiên nhiên và môi trường vùng bờ tại những địa phương, từ đó từng bước nâng cao năng lực thích ứng biến đổi khí hậu và nước biển dâng trong tương lai. Giải pháp này phải đặt ở vị trí ưu tiên cao nhất bởi nó có hiệu suất cao ngay cả khi đổi khác khí hậu và nước biển dâng không xảy ra, góp thêm phần vào việc sử dụng hiệu suất cao tài nguyên, dịch vụ của những hệ sinh thái biển, giúp từng bước tiếp cận nền kinh tế tài chính xanh, thân thiện với môi trường tự nhiên .

Source: https://vvc.vn
Category custom BY HOANGLM with new data process: Bảo Tồn

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay